Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

SAU NGUYỄN NĂNG TĨNH, CẦN PHẢI LÀM MẠNH TAY HƠN NỮA VỚI NHỮNG ĐỐI TƯỢNG ĐẤU TRANH XUYÊN TẠC NÓI XẤU ĐẢNG, NHÀ NƯỚC



Những ngày qua, sau khi đối tượng Nguyễn Năng Tĩnh bị Cơ quan An ninh điều tra Công an Nghệ An đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 117, BLHS, trên các diễn đàn mạng có một số đối tượng ở Nghệ An đã “kêu gào” thảm thiết cho đối tượng, nhằm gây áp lực cho chính quyền ở Nghệ An phải thả đối tượng, yêu cầu trả tự do cho các tù nhân lương tâm.
Tại địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, đang nổi lên 02 giáo dân là đối tượng tù tha đã có một quá khứ bất hảo khi mang trên mình bản án “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” đó là Đậu Văn Dương, Trần Hữu Đức trú tại xóm 4, xã Nam Lộc. Chúng lợi dụng là thành viên của Ban truyền thông, Giới trẻ của giáo xứ Vạn Lộc thì họ có thể làm bất cứ việc gì trên diễn đàn mạng như chia sẻ, viết bài hay đăng tải những thông tin sai lệch về Đảng, về chế độ, nói xấu các vị lãnh đạo của Đảng hay Nhà nước, tuy nhiên một bộ phận không nhỏ giáo dân và các con em trong giới trẻ trên địa bàn đã chán cái cảnh suốt ngày cứ có một sự việc gì, các đối tượng lại kích động thắp nến cầu nguyện cho những đối tượng đó mà ngay đến cả họ cũng không biết là ai.
Điển hình, như giai đoạn gần đây cả 02 đối tượng đều chia sẻ những thông tin của các tổ chức khủng bố như Việt Tân, RFA, Hội Anh em dân chủ về những việc làm vừa qua của ông Nguyễn Hữu Cầu – Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An, người mà thời gian gần đây là cái tên gây hoang mang, khiếp sợ cho bọn tội phạm trên địa bàn nói chung và các đối tượng đấu tranh chống Đảng và chế độ đòi dân chủ tại Nghệ An nói riêng; ông đã trực tiếp chỉ đạo bắt và xử lý hàng loạt thành viên của cơ sở của Việt Tân như: Hoàng Đức Bình, Lê Đình Lượng, Thái Văn Dung, Đặng Xuân Diệu và mới đây là trường hợp của Nguyễn Năng Tĩnh. Thực sự, nếu như chúng ta cứ làm ăn lương thiện, không vi phạm pháp luật nước CHXHCN Việt Nam thì không có gì phải sợ đến người này, người nọ, không phải lo lắng bị bắt bớ về tội này tội kia. Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam cũng đã quy định rõ ràng về các tội danh cụ thể, chỉ có những kẻ suốt ngày hưởng các đặc ân của chế độ ở Việt Nam nhưng suốt ngày đi tuyên truyền, xuyên tạc chống phá, đi so sánh với những cái hão huyền ở phía bên kia thế giới thì mới lo sợ bị lực lượng chức năng sờ tới.
Cần phải có những hành động có tính răn đe hơn nữa đối với những việc làm mà cả 02 đối tượng này đang ngày đêm chống phá, xuyên tạc. Chẳng lẽ cứ để “con sâu làm rầu nồi canh”, khi chỉ một ít bộ phận xấu này mà ảnh hưởng tới toàn thể giáo dân giáo xứ Vạn Lộc. Đừng để những đối tượng sau khi được tha tù lại coi thường pháp luật, “cào cấu” trên các diễn đàn mạng, lợi dụng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận mà làm ảnh hưởng tới uy danh của pháp luật Việt Nam.
Quốc có quốc pháp, gia có gia quy, không có chuyện thỏa hiệp hay nhượng bộ các hành vi sai trái trên để chúng lộng hành, coi thường luật pháp; thiết nghĩ, nếu như giáo dục, cải tạo không được nữa thì nên tiếp tục tách các đối tượng ra khỏi xã hội, không để chúng lôi kéo con em giáo dân trên địa bàn đi sai con đường của Chúa, của đất nước gieo rắc những quan điểm sai trái, thù địch trên mảnh đất bình yên này./.
Chiến trường mới

GÓP PHẦN ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN INTERNET, MẠNG XÃ HỘI



Nghị quyết 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) xác định: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân”. Để làm được điều đó, việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên môi trường internet và mạng xã hội là một giải pháp quan trọng.
Mục tiêu xuyên suốt không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là khi chúng ta đang chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng càng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách toàn diện, trong đó tập trung vào các lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế, pháp luật, quốc phòng, an ninh, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, v.v. Để thực hiện mục đích, chúng triệt để lợi dụng môi trường internet và mạng xã hội để làm nhiễu loạn thông tin, đưa tin thật giả lẫn lộn hòng làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ trong dẫn dắt đất nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước việc chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách; đồng thời, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên. Để công tác này có hiệu quả, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Để đạt hiệu quả cao, cần quan tâm lãnh đạo kiện toàn, xây dựng phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận chủ lực, nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị. Các cơ quan báo chí cần phát huy vai trò nòng cốt đấu tranh công khai, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, thiết lập các trang, nhóm, tài khoản mạng xã hội nhằm tiếp cận, chia sẻ thông tin tham gia đấu tranh phản bác trên internet, mạng xã hội với các hình thức, phương pháp linh hoạt (công khai, bán công khai); chú trọng chia sẻ thông tin tích cực, bài viết chuyên sâu của các cơ quan báo chí, học viện, nhà trường tạo “dòng chủ lưu” thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”.
Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia các vấn đề cụ thể của xã hội, bảo đảm sự liên kết, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành từ Trung ương đến các địa phương để cùng giải quyết khi có sự kiện xảy ra. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng; phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái thù địch trên internet, mạng xã hội.
Hai là, thường xuyên bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trên mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội. Thực hiện phương châm công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo 35 các cấp cần quan tâm biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo, xây dựng ngân hàng comment làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Duy trì tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp những người có quan điểm khác biệt để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận, thống nhất. Ở từng cấp cần duy trì tốt nền nếp chế độ hội ý cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp đấu tranh. Trong đó, cần chỉ rõ mục tiêu, luận điểm chống phá của các thế lực thù địch trong các tin, bài; cung cấp luận cứ đấu tranh phản bác từ hệ thống ngân hàng đã được biên soạn sẵn làm cơ sở cho lực lượng viết bài tham gia đấu tranh. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, cũng như một số chủ trương, chính sách mới liên quan đến người dùng internet, mạng xã hội (Luật An ninh mạng), lãnh đạo, chỉ huy các cấp chỉ đạo cơ quan chức năng bám sát định hướng của trên chủ động xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể về tư tưởng, kỹ năng, nghiệp vụ, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị và nhân dân.
Ba là, thường xuyên tổ chức các cuộc “diễn tập”, tọa đàm, trao đổi, rút  kinh nghiệm giữa các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị rút kinh nghiệm theo hướng thiết thực, hiệu quả, “cầm tay chỉ việc”. Chú trọng tổ chức một số cuộc “diễn tập” đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên interent, mạng xã hội (từ việc phát đường dẫn bài viết xấu độc, quy định mật danh, ký hiệu để bảo mật thông tin, triển khai các hình thức, phương pháp đấu tranh...), làm cơ sở cho các lực lượng hoàn thiện, phát triển kỹ năng đấu tranh. Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ; được trang bị đầy đủ, vững chắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính đảng, tính khoa học cao.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị điện tử phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Ở tầm vĩ mô: Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin phong phú, hiện đại, có khả năng tiếp cận, xử lý và khuếch tán vào dòng thông tin truyền thông quốc tế lượng thông tin đủ lớn, đủ mạnh để tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước trên thế giới, góp phần vào việc phát huy và bảo vệ lợi ích kinh tế, định hướng chính trị, giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia và chế độ. Ở tầm vi mô: cần tăng cường và đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm phát huy tính hiệu quả của các cơ quan báo chí truyền thông, hòa nhập vào trình độ kỹ thuật thông tin thế giới. Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan, doanh nghiệp liên quan nghiên cứu, tổ chức triển khai hệ thống giải pháp kỹ thuật phù hợp với thông lệ, kinh nghiệm quốc tế để phục vụ việc đấu tranh ngăn chặn, xử lý các nguồn phát tán thông tin tiêu cực, xấu độc, nhất là các quan điểm sai trái, thù địch vi phạm pháp luật Việt Nam trên intenet, mạng xã hội.
Ban Chỉ đạo 35 các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương cần đầu tư xây dựng phòng (ban, tổ) điều hành kỹ thuật phục vụ công tác đấu tranh. Các cơ quan, đơn vị kỹ thuật cần nghiên cứu, đưa vào khai thác sử dụng các phần mềm phục vụ kiểm soát, phân loại thông tin tích cực, tiêu cực trên internet, mạng xã hội liên quan đến cơ quan, đơn vị; cảnh báo luồng dư luận quan tâm và nguy cơ xảy ra biểu tình ở các “điểm nóng”; phát triển Rô bốt mạng tham gia các chiến dịch truyền thông chủ động (phát tán nhiều thông tin tích cực, pha loãng, làm phân tán luồng thông tin tiêu cực, xấu độc), nhất là ở các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông. Quan tâm xây dựng phần mềm tạo lập nhanh các video clip, mạng Mocha phục vụ nhiệm vụ đấu tranh; đồng thời, bảo đảm xây dựng hệ thống máy tính ảo, sim nghiệp vụ phục vụ các lực lượng tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội.
Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng, của hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên, lực lượng chuyên sâu, ... cần được triển khai đồng bộ, có hệ thống, với các chủ trương, giải pháp thiết thực, hiệu quả. Giải quyết tốt những vấn đề cơ bản trên, sẽ góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trước việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đại tá, TS. ĐỖ DUY ÁNH,  Văn phòng Tổng cục Chính trị

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/gop-phan-dau-tranh-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-phan-bac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-/14080.html

BẢN “YÊU SÁCH CỦA NHÂN DÂN AN NAM” - 100 NĂM NHÌN LẠI



Cách đây 100 năm (1919 - 2019), thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành ký tên “Nguyễn Ái Quốc” dưới bức thư kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Tổng thống Mỹ và Trưởng Đoàn đại biểu các nước Đồng Minh thắng trận trong Thế chiến I họp Hội nghị tại Versailles, Pháp1 (sau đây gọi tắt là bản Yêu sách). Bản Yêu sách này, gồm 8 điểm2 được coi là một văn kiện chính trị, pháp lý đầu tiên trong đời sống chính trị của Việt Nam; trong đó, nổi lên hai vấn đề quan trọng nhất: quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ. Bản Yêu sách ra đời đến nay đã 100 năm, nhưng giá trị của nó không bị phai mờ.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ
“Dân tộc” được đề cập ở đây là dân tộc - quốc gia (Nation), chứ không phải dân tộc/bộ tộc/tộc người (Ethnic). Thành phần dự Hội nghị Versailles năm 1919 chủ yếu đại biểu đến từ 27 nước đế quốc trong phe Đồng Minh thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ Nhất (1914 - 1918). Hội nghị bàn nhiều vấn đề, trong đó có việc xác nhận sự thất bại của đế quốc Đức và các đồng minh của nước này; phân chia thị trường thế giới như là chiến lợi phẩm cho các nước đế quốc thắng trận. Một trong những người đồng chủ trì Hội nghị này là Tổng thống Mỹ V.Wilson. Tại Hội nghị, Tổng thống V.Wilson tiếp tục tuyên bố theo tinh thần “Chương trình 14 điểm” đã nêu từ năm 1918 (tâm điểm của Chương trình này là nhằm thiết lập vai trò bá chủ thế giới của Mỹ và chống lại nước Nga Xô viết mới ra đời năm 1917). Tổng thống Mỹ đưa ra những lời rất mỹ miều về quyền dân tộc tự quyết, về quyền dân chủ, … chạm trúng vào tâm lý khát khao nồng cháy đối với những người yêu nước của các dân tộc thuộc địa trên thế giới, trong đó có những người Việt Nam yêu nước đang có mặt tại Pháp năm 1919.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng đối với mỗi dân tộc - quốc gia, bao gồm bốn nội dung làm thành một thể thống nhất của quyền dân tộc cơ bản: (1). Độc lập; (2). Chủ quyền; (3). Thống nhất; (4). Toàn vẹn lãnh thổ. Tất cả các dân tộc - quốc gia trên thế giới, từ cổ chí kim, đều luôn muốn và giữ được quyền này. Đó cũng là điều cơ bản nhất, xuất hiện trong các hiệp định mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia đàm phán và ký kết với các bên liên quan (đơn cử là Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (tháng 7-1954) và Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lâp lại hòa bình ở Việt Nam – Hiệp định Pari, tháng 01-1973).
Tuy nhiên, Bản Yêu sách chỉ là những điều “khiêm tốn”3 đặt trong bối cảnh: “trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự”4. Bởi, chúng ta thấy tuyên bố về quyền dân tộc tự quyết của Tổng thống Mỹ tại Hội nghị Versailles năm 1919 chỉ là trên đầu lưỡi, không có một chút nào về giá trị thực tế. Về sau, trong một loạt bài báo có tên là Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “sau một thời gian nghiên cứu và theo dõi, chúng tôi nhận thấy rằng “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”5.
Đối với quyền tự do, dân chủ, bản Yêu sách bao gồm hai nhóm quyền: (1): Quyền dân chủ trong việc thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Với quyền này, bản Yêu sách đặt ra yêu cầu là việc cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân Việt Nam. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. (2): Quyền tự do của người dân. Bản Yêu sách đề cập việc phải tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. Đòi các quyền tự do báo chí, ngôn luận, lập hội, hội họp, cư trú ở nước ngoài và xuất dương, học tập; thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở các tỉnh cho người bản xứ.
Thật ra, đây chỉ là “những yêu sách khiêm tốn”. Nhưng, cái khiêm tốn (tối thiểu) của những yêu sách đó, đặt trong hoàn cảnh của một dân tộc đang rên xiết dưới chế độ thực dân xâm lược hà khắc thì chúng không còn là khiêm tốn (tối thiểu) nữa mà là ở mức tối đa. Bởi vì dân chủ, tự do ở chế độ thuộc địa nói chung và chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ nói riêng là giá trị quá xa xỉ.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Những nội dung cơ bản của Yêu sách và hành động của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn hợp với lôgíc tư duy và hành động của nhà cách mạng chuyên nghiệp. Cả cuộc đời của Người là đấu tranh cho các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trên con đường đầy gian nan, nguy hiểm ấy, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đem lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân nên đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hiện nay, đất nước Việt Nam đang được hưởng nền hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, dân chủ, văn minh. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực thi quyền dân tộc tự quyết trong một thế giới toàn cầu hóa phức tạp; đồng thời, thực hành quyền dân chủ, tự do ở một đất nước đổi mới vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, vẫn còn một số mặt hạn chế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang cố gắng khắc phục. Đó là lẽ thường của biện chứng cuộc sống, vì không có cái gì trên đời này là tuyệt hảo cả. Cái lý này không chung với những gì mà các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc về tự do, nhân quyền của Việt Nam. Cũng cần khẳng định rằng, một sự vật dẫu có xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ,… bằng những thủ đoạn tinh vi, phương tiện tân kỳ đến đấu, thì nó vẫn luôn giữ nguyên bản chất.
Khi Việt Nam đã thiết lập chế độ chính trị mới do thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), vấn đề quan tâm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Nhà nước ta là thiết lập và thực thi những quyền tự do, dân chủ thật sự của người dân. Trước hết, các quyền đó phải được bảo đảm trong Hiến pháp - bộ luật cơ bản nhất của một quốc gia. Điều này cũng được thể hiện bằng những chính sách cụ thể và chất lượng hoạt động của bộ máy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cả hệ thống chính trị. Tinh thần cơ bản nhất trong cấu tạo quyền lực của đất nước là: tất cả mọi quyền lực và quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Đó là dân chủ theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh: dân là chủ và dân làm chủ, chứ không phải “quan chủ”. Dân là chủ tức là nói về vị thế của dân. Dân làm chủ là nói về trách nhiệm của dân. Đó là quan điểm: Đảng từ trong xã hội mà ra chứ không phải từ trên trời sa xuống, nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho đồng bào sung sướng; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển không phải vì mục đích tự thân mà là vì độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng, mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không, quần chúng sẽ đá đít”6. Người khẳng định: “tiếng dân chính là truyền lại ý trời”7; “người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”8 và người cách mạng phải là người phục vụ nhân dân: “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”9.
Quan điểm thực tiễn của Nhà văn hóa dân chủ Hồ Chí Minh là: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”10. Cán bộ Nhà nước phải: “làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu” và “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”11. Đồng thời, phải “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”12, “Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”13; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”14.
Hiện nay, Việt Nam đang thực thi những quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ trong điều kiện mới - Đảng Cộng sản cầm quyền - quyền này không phải cứ tự nhận mà được, mà do nhân dân ủy thác cho. Những điều về quyền dân tộc tự quyết cũng như quyền tự do, dân chủ mà nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp năm 1919 nêu lên, rõ ràng là có biểu đạt giống nhau ở câu chữ nhưng đặt chúng vào hoàn cảnh rất khác nhau. Khác thì khác, nhưng những giá trị chung vẫn còn nguyên đó. Do thế, hiểu về chúng trong điều kiện hiện nay chắc chắn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Đó là lẽ thường. Nhưng, sẽ không là lẽ thường, khi có những kẻ cứ cố tình hiểu sai, xuyên tạc tình hình tự do, dân chủ của Việt Nam. Đây là những người có cái tâm đen, chống đối sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Tự do là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu, tức là nhận thức được và làm theo đúng quy luật khách quan. Không như thế thì không có tự do đích thực. Tự do đi liền với kỷ cương, pháp luật. Vậy, một loạt quyền tự do nêu trong Yêu sách năm 1919 và hiện nay cần được hiểu như thế nào? Từ bản Hiến pháp (năm 1946) đến bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) đã quy định rõ những quyền về tự do báo chí, tự do lập hội, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng,... cho tổ chức, cá nhân. Trong thực tế, nhiều quyền tự do đang được thực hiện và tiếp tục cụ thể hóa trong chế định của luật pháp. Tuy nhiên, có thể ở chỗ này, chỗ nọ, tổ chức, cá nhân này, tổ chức, cá nhân nọ vi phạm quyền tự do, dân chủ thì đó là những sai phạm cụ thể cần khắc phục, nhưng đó nhất quyết không phải bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã diễn đạt về tự do trong lý lẽ khó ai bắt bẻ được, đó là: tự do bày tỏ ý kiến, tự do thảo luận để tìm ra chân lý, khi đã đạt được đến mức tìm thấy giá trị ấy rồi thì quyền tự do hóa ra quyền phục tùng chân lý, mà chân lý là những gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Chúng ta có thể hiểu rằng, tự do như vậy hoàn toàn và tuyệt nhiên không có chỗ đứng cho những suy nghĩ và hành động kích động bạo lực, phản văn hóa, hy sinh chủ quyền quốc gia, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lật đổ chế độ chính trị nước nhà.
Nhân loại đang ở vào thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (4.0). Đó là điều tuyệt diệu. Nhưng, sự tuyệt diệu này phải dành cho thế giới thiện lương. Đáng tiếc, có nhiều kẻ bất lương đang lợi dụng những thành tựu của thời đại này để mưu tính cho những điều xấu xa, họ tìm mọi cách mượn tự do, dân chủ nhằm làm hỏng giá trị tự do, dân chủ đích thực. Hằng ngày, trên các phương tiện media, trên mạng internet, các thế lực xấu xa này tác oai tác quái, đánh lừa những người thiện lương, nhẹ dạ cả tin nghe theo những lời kích động, dối trá. Đáng chú ý là, những kẻ bất lương kiểu này ở trong nước được sự hậu thuẫn từ các thế lực phản động ở bên ngoài. Vì thế, ngăn chặn, đấu tranh, loại trừ những kẻ bất lương ấy cũng chính là nhằm xây dựng, bảo vệ, phát triển quyền dân tộc tự quyết, tự do dân chủ mà nhân dân ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Đó là trách nhiệm chính trị, dân chủ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị cũng như những người thiện lương, trước hết là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân.
Những giá trị quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ của Nguyễn Ái Quốc kể từ khi bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles năm 1919 đến nay đã xuyên qua 100 năm. Hành trình ấy chưa dừng lại và sẽ mở ra sự thăng tiến, bồi đắp giá trị quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do, dân chủ trong thời kỳ mới. Làm phong phú thêm những giá trị quyền dân tộc - quốc gia tự quyết, giá trị quyền tự do, dân chủ trong tình hình hiện nay là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và những người Việt Nam yêu nước; đồng thời, nó phải đi liền với cuộc đấu tranh với các thế lực xấu xa lúc nào cũng tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
MẠCH QUANG THẮNG
_____________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 469 - 471.
2 - (1). Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; (2). Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; (3). Tự do ngôn luận và tự do báo chí; (4). Tự do lập hội và hội họp; (5). Tự do cứ trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; (6). Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; (7). Thay thế chế độ ra sức lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; (8). Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 469.
4, 5 - Sđd, tr.469, 441.
6 - Sđd, Tập 6, tr. 367.
7 - Sđd, Tập1, tr. 97.
8 - Sđd, Tập15, tr. 622.
9 - Sđd, Tập 7, tr. 50.
10 - Sđd, Tập 4, tr. 21.
11, 12- Sđd tr. 52, 65.
13 - Sđd, Tập 10, tr. 572.
14 - Sđd, Tập 7, tr. 434.

CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TẤT YẾU, LÂU DÀI VÀ KHÔNG KHOAN NHƯỢNG HIỆN NAY




Ảo tưởng, buông lơi hay tự huyễn hoặc mình... nhất định thất bại
Khi một tư tưởng xuất hiện, tồn tại và phát triển, tự thân nó là một cuộc đấu tranh để tự khẳng định nó; và, tranh đấu với các tư tưởng khác, dù muốn hay không, dưới muôn ngàn hình thức, quy mô, tính chất và mức độ, là quy luật sinh tồn của tư tưởng, đó là lẽ tự nhiên của sự phát triển. Không có con đường nào khác. 
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đã và đang như vậy. Phương diện tư tưởng, lý luận chính trị của chúng ta cũng như vậy, không nằm ngoài quy luật đó. 
Hiện nay, hơn bao giờ hết, sau hơn 32 năm đổi mới, trên đường tiến tới Đại hội XIII của Đảng, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận đang đối mặt với rất nhiều thử thách. Chúng ta hiểu rằng, có những ý kiến phản biện, đóng góp tâm huyết hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn từ nhiều người, nhiều phía cả trong và ngoài nước, chúng ta trân trọng ghi nhận và tiếp thu. Nhưng, nếu đem ý kiến phản biện dù đầy thiện chí xây dựng đó tán phát khắp nơi, thậm chí loan tải trên mạng in-tơ-nét để cho người khác lợi dụng, công kích, chống phá,... thì lại đưa câu chuyện ấy sang một hướng khác, dù thấm đẫm sự mong đợi về nhiệt huyết hay thiện tâm nào đó. 
Mấy năm nay, với “hàng núi” sách báo chống Đảng, hàng trăm giọng điệu công kích, bôi nhọ, phủ nhận, với hàng nghìn thủ đoạn đủ loại, trên mọi phương diện, đang tràn ngập mạng in-tơ-nét: về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, về Đảng và sự cầm quyền của Đảng, về thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về hệ thống chính trị và về đội ngũ cán bộ, đảng viên... Những luận điệu xuyên tạc công cuộc đổi mới, sự công kích Đảng, Nhà nước và đất nước ta từ nhiều phía, với nhiều thủ đoạn, ở nhiều mức độ và nhiều tính chất, cả bên trong lẫn bên ngoài, rất phức tạp. Theo đó, xuất hiện đủ loại thái độ và phương cách hành xử gây nên tình trạng trắng đen lẫn lộn, thật giả hỗn mang, rất khó nhận diện và rất nguy hiểm nhưng rất tinh vi. 
Có người, để ru ngủ và khiến không ít người lãng quên và mất cảnh giác, đã chỉ trích một cách ma mỵ rằng, chúng ta tưởng tượng ra cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận chính trị hiện nay và thổi phồng sự cấp bách cuộc đấu tranh này(!). Không! Chúng ta cũng không tự dựng lên những kẻ thù tư tưởng, lý luận chính trị, như ai đó nói, để huyễn hoặc sự quan trọng của chúng ta hay để khuếch trương lên sự phức tạp những công việc này. Chúng ta xây dựng sự thống nhất xã hội về tư tưởng chứ không phải “đồng phục tư tưởng”(!), kiến tạo nền lý luận trung thành và độc lập, sáng tạo của Việt Nam chứ không phải thứ “lý luận nhập khẩu”, “đầu Ngô mình Sở”(!), như những ai đó bôi nhọ và công kích. 
Chúng ta càng không mơ hồ, ảo tưởng, tự ru ngủ mình về “sự thống nhất trong đa dạng” một cách cực đoan nào đó, như họ cổ xúy, rồi rơi vào sự chiết trung theo kiểu “vỗ vai cùng chung sống giữa các tư tưởng, các trào lưu”(!) hay “đã nguội tắt dần cuộc đấu tranh ý thức hệ”(!) giữa các hệ tư tưởng, các thể chế, quốc gia, dân tộc, biểu hiện tập trung giữa các tư tưởng gia ở những chế độ khác nhau... Chúng ta cũng càng không buông tay, thúc thủ, an bài, hoặc bi quan, yếm thế nào đó, rồi rơi vào “vũng lầy” của sự hoang mang, vô định, như những ai đó mong đợi hiện nay. Chúng ta hiểu rằng, bản chất của những sự thật về những hình thái vận động và đấu tranh tư tưởng, lý luận đó đang trở thành phổ biến một cách hết sức phức tạp có thể bị lừa phỉnh hoặc bị che lấp bởi những trào lưu mới mà những kẻ thù tư tưởng của chúng ta chưa bao giờ buông bỏ sự chống phá thâm hiểm, thậm chí kháng cự quyết liệt. 
Cuộc đấu tranh về tư tưởng, lý luận chính trị của chúng ta hiện nay đang đối mặt, thậm chí bị chi phối, bị cản trở và phải đối diện với tối thiểu chính những điều đó. Đó là những trở lực chết người trên con đường kiến tạo nền tư tưởng thống nhất, lý luận kiên định, độc lập và sáng tạo bảo đảm dẫn dắt công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, dưới ngọn cờ của Đảng.
Lịch sử phát triển của cách mạng nước ta ngày càng cho thấy, càng ở những khúc quanh hay bước ngoặt của nó như hiện nay, điều đó càng hiện diện, càng muôn vẻ, phức tạp và khôn lường nhất. Và, hiện nay, cuộc đấu tranh này hiện diện trên vũ đài lịch sử nước ta nói chung, trên địa hạt tư tưởng, lý luận chính trị nói riêng, khiến chúng ta không thể thể lảng tránh, chối bỏ, hay thúc thủ, bàng quan, càng không dung thứ bất cứ một sự ngụy tạo nào... nếu muốn bảo vệ tiếp tục phát triển độc lập, sáng tạo nền tảng tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng đủ sức dẫn dắt và phát triển đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa. 
Mơ hồ hay buông lỏng cuộc đấu tranh này, chúng ta sẽ thất bại. Bản chất của những kẻ chống phá chúng ta không bao giờ thay đổi.
Và vì thế, cần thiết phải nói thêm rằng, hiện giờ, cuộc đấu tranh này càng nóng bỏng, mang ý nghĩa không khoan nhượng, thậm chí sinh tử hơn hết bao giờ.
Những vấn đề cốt tử có ý nghĩa mất còn trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận chính trị hiện nay
Nhìn toàn cục, hiện tại có thể hình dung 8 loại vấn đề cốt tử và chủ yếu mệnh hệ chung quanh vấn đề này, mà các phần tử chống phá tập trung mũi nhọn, bằng mọi thủ đoạn và hình thức đang ra sức công kích từ bên ngoài và gieo rắc mối hoài nghi, chia rẽ từ bên trong. Và, ở mức độ này hay tính chất khác, trong đội ngũ chúng ta có một số người “bị sập bẫy”, rồi phụ họa, thậm chí ủng hộ những biểu hiện, âm mưu, thủ đoạn ấy. 
Thứ nhất, công phá nền tảng tư tưởng chính trị và thủ tiêu ý thức hệ. 
Với đủ giọng điệu nhiều cung bậc, họ phê phán, công kích trực diện vào chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê-nin... hòng làm phân tâm, gây hoài nghi trong những người hoạch định chiến lược, bôi nhọ và cuối cùng đánh sập nền tảng chính trị và cơ sở tư tưởng của đường lối chính trị của Đảng. Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc và có sức công phá lớn, nhằm thẳng vào nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng và tác họa khôn lường, nhằm lật đổ Đảng từ những vấn đề căn bản, có ý nghĩa cốt tử. 
Chung quanh vấn này, nổi bật mấy loại chủ yếu: Tiếp tục công kích vào các loại vấn đề cơ bản thuộc hình thái kinh tế - xã hội, phương thức sản xuất, động lực phát triển xã hội, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phương pháp tư duy và phương pháp cách mạng,... Thủ đoạn mới là, họ chuyển từ sự bôi nhọ cái gọi là “du nhập ngoại lại” sang đánh tráo khái niệm, thay thế các khái niệm... nhằm cổ xúy cho cái gọi là “đảo lộn” tư duy, gây rối loạn về phương pháp luận. Thổi phồng những cái gọi là “chủ thuyết phát triển nhân loại mới”, đem đối lập C. Mác với V.I. Lê-nin; đối lập Hồ Chí Minh với V.I. Lê-nin, thổi phồng một cách cực đoan tư tưởng Hồ Chí Minh,... cốt phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vô hình hạ bệ tư tưởng Hồ Chí Minh, rốt cuộc nhằm phủ nhận, công phá và đánh sập nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng. 
Và, họ đánh lừa được không ít người. Có không ít loại ý kiến theo đuôi và phụ họa của những người non kém về chính trị, bạc nhược về tư tưởng. 
Thứ hai, bôi nhọ, xuyên tạc đường lối chính trị và công phá thể chế chính trị. 
Đây là “tử huyệt” mà các luận điệu thù địch tập trung sức công phá, ở nhiều mức độ: nhẹ thì tung hỏa mù, đánh lạc hướng, gây nên tình trạng nghi ngờ, mất phương hướng hành động; nặng thì không từ mọi chiêu bài, thủ đoạn nhằm phủ nhận tính cách mạng, cơ sở khoa học và bôi nhọ thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm xuyên tạc và phủ nhận đường lối chính trị của Đảng. 
Trong rất nhiều phương diện chung quanh vấn đề này, xin nhấn mạnh mấy loại luận điệu tập trung công kích trụ cột đường lối chính trị và thể chế chính trị Việt Nam: 1- Bài xích, phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 2- Cổ xúy đa nguyên chính trị, đòi “tam quyền phân lập”, vu khống chế độ toàn trị, dựng lên và thổi phồng “lỗi hệ thống”... nhằm xóa bỏ thể chế hiện tồn, 3- Tán dương và cái gọi là “khuyến nghị” thực thi phát triển “xã hội dân sự”; 4- Lợi dụng việc sửa đổi Hiến pháp và các luật nhằm làm sai lệch những vấn đề cơ bản nhất về chế độ sở hữu, về quyền con người, quyền dân tộc,... 
Chuyển hóa đường lối chính trị, thông qua việc chia rẽ, mua chuộc đội ngũ các nhà chính trị hoạch định đường lối, và là con đường ngắn nhất chuyển hóa chế độ. Lợi dụng “lợi ích nhóm” và các “nhóm lợi ích”, họ tán dương và dùng mọi giọng điệu để bôi nhọ, khoét sâu những vấn đề này nhằm phân hóa từ trong nội bộ Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, phá nát chiến lược cán bộ, tạo sự gây hấn, phân hóa giữa các loại cán bộ trong hệ thống chính trị của chúng ta. 
Thứ ba, tung hỏa mù về “đảng trị” và vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền.
Họ bài xích Đảng, với các mánh lới và giọng điệu vừa tinh vi, vừa trắng trợn: 1- Đảng tự cho mình đứng trên tất cả, nghị quyết của Đảng cao hơn và bất chấp Hiến pháp, chỉ cần Hiến pháp không cần Đảng; 2- Độc đảng tất yếu sẽ là chế độ toàn trị, cần phải đa đảng mới hy vọng có dân chủ, mới có chế độ dân chủ; 3- Cần lập các trường phái trong Đảng mới thực sự dân chủ, nếu Đảng muốn xây dựng nền dân chủ đích thực của đất nước; 4- Đảng tự cho mình quyền lãnh đạo đất nước, xưa nay có Đảng đâu mà dân tộc vẫn tồn tại và phát triển; 5- Đa thành phần kinh tế nhất định sẽ dẫn tới đa đảng chính trị; 6- Cần “phi chính trị hóa” và tôn trọng tính độc lập của các lực lượng vũ trang, không cần sự lãnh đạo của Đảng; 7- Giai cấp công nhân đã hết vai trò, tới lượt và chỉ có trí thức mới là lực lượng dẫn dắt xã hội thay vì giai cấp công nhân, trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; 7- Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phi chính đáng, phi chính danh...v.v. và v.v.. Vô vàn các giọng điệu hằn học, bôi nhọ, phủ nhận, xuyên tạc bất chấp mọi lý lẽ thông thường.
Thứ tư, chia rẽ phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. 
Sức mạnh của Đảng sẽ mất, nếu tách khỏi cơ sở xã hội - chính trị là nhân dân. Đó chính là pháp lý được ghi trong Hiến pháp, trong vị thế “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân” và đạo lý sống được thừa nhận trong xã hội, với tư cách là “đứa con nòi của giai cấp lao động” của Đảng. Chúng âm mưu đánh sập đạo lý của Đảng chúng ta với nhân dân, phủ nhận sự chính danh, chính pháp giữa Đảng với Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Các luận điệu đó, cốt chia rẽ, âm mưu kích động đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ và đảng viên của Đảng, dưới mọi hình thức. Chúng cổ xúy cho bảo trợ và tham gia các tổ chức “xã hội dân sự” tự phát. Chúng ngụy tạo, tô vẽ, thổi phồng những biểu hiện riêng lẻ, những khuyết điểm để thổi phồng quy kết thành bản chất của một đảng cầm quyền và đã làm phân tâm không ít bộ phận dân cư. 
Thứ năm, khoét sâu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền với thể chế xã hội chủ nghĩa nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại nhân dân. 
Đây là các duyên cớ để các luận điệu thổi phồng sự thật, khoét sâu sự ngăn cách thù oán do chúng tưởng tượng và dựng lên, để mưu đồ đối lập Đảng với tôn giáo, kích động sự kỳ thị giữa các dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, nhằm chia rẽ nội bộ các dân tộc, giữa đồng bào có đạo và không theo đạo, giữa các tôn giáo với nhau, đào sâu hố ngăn cách giữa đồng bào các tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Chúng thường gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo, kích động vấn đề nhân quyền, phá rối từ cơ sở, tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng bằng các hình thức “cách mạng màu”.
Các thủ đoạn thường thấy là, kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi hành lễ phi pháp luật, tụ tập đông giáo dân gây mất an ninh thực hiện cái gọi là “bất tuân dân sự”; chia rẽ, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số biểu tình gây bạo loạn... dưới chiêu bài nhân quyền, tự do, dân chủ; móc nối với các tổ chức quốc tế, với các thế lực thù địch từ nước ngoài để làm rối tình hình trong nước.
Họ kích động, hà hơi tiếp sức những người nhân danh “lòng yêu nước”, mưu toan khởi hấn, xuống đường biểu tình vô lối, để “đục nước béo cò”, “mượn gió bẻ măng”... mưu lợi cho mình và phe nhóm mình. 
Thứ sáu, thông qua vấn đề chính trị gia và quan hệ giữa các nhà lãnh đạo chính trị, giữa các lực lượng nhằm xâm hại thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là vấn đề xung yếu nhất. Ngụy tạo mâu thuẫn trong Bộ Chính trị, tưởng tượng sự chia rẽ Ban Chấp hành Trung ương Đảng với Quốc hội và Chính phủ; thổi phồng sự khác biệt, cao hơn là mâu thuẫn giữa các thế hệ lãnh đạo, các cá nhân lãnh đạo các cấp, nhất là cấp chiến lược... với âm mưu thúc đẩy tan rã nội bộ và tự tan rã thế chế. Họ ngụy tạo những trang điện tử giả danh cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước để tung tin giả, công kích nội bộ nhằm gây nghi kỵ lẫn nhau, tạo nên sự hỗn mang tư tưởng rất nguy hiểm. 
Âm mưu đó nham hiểm không kém thủ đoạn kích động tư tưởng “sứ quân”, “cát cứ”, gây chia rẽ vùng, miền, đòi “dân sự hóa” Quân đội nhân dân, ly gián Quân đội nhân dân với Công an nhân dân, “phi chính trị hóa” các lực lượng này, âm mưu cái gọi là thông qua “hạ bệ thần tượng” nhằm “bắn con chim đang bay”(!)... 
Thứ bảy, chung quanh vấn đề quan hệ quốc tế, võ đoán các nguy cơ cái gọi là “đu dây bên miệng hố”, kích động cái gọi là “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước khác, cốt phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta, cổ xúy cho chủ nghĩa ly khai, xâm hại nhân dân, phá vỡ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. 
Đây là một đích ngắm của đủ loại mưu đồ, đủ giọng điệu, với các phương tiện hiện đại, có sức công phá lớn và hết sức nguy hiểm.
Mục tiêu của chúng là thông qua “diễn biến hòa bình”, làm suy yếu Việt Nam từ bên ngoài, gây hằn thù trong các mối bang giao quốc tế của ta nhằm cô lập ta trong cộng đồng quốc tế. Kích động, chia rẽ các đối tác quốc tế với nhau, các đối tác quốc tế chiến lược với chúng ta... Nghĩa là, họ muốn thể chế của ta sụp đổ.
Bằng nhiều “cây cầu” (truyền thông giả mạo, sách báo, núp sau các tổ chức quốc tế, các tổ chức tôn giáo...), với thủ đoạn “mưa dầm thấm sâu”, “tổ mối đục ruỗng chân đê”... chúng dựng hư chuyện, thổi phồng hiện tượng riêng lẻ quy kết vô lối thành bản chất của Đảng, của chế độ... hòng hạ thấp, đánh sập vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Họ hà hơi tiếp sức cho những tổ chức đối lập trú ngụ ở ngoài biên giới quốc gia, âm mưu di trú quốc nội, gây bạo loạn, lật đổ chế độ. 
Thứ tám, các trào lưu tư tưởng, lý luận du nhập, thẩm thấu bằng mọi con đường, âm mưu gặm nhấm, công phá làm băng hoại dưới mọi hình thức, quy mô và mức độ tư tưởng, lý luận của chúng ta từ nền tảng. 
Đó là chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bá quyền với vô vàn hình thức... đang thâm nhập từ bên ngoài cấu kết với chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc, dưới nhiều biến thể, tồn tích rất lâu từ bên trong với âm mưu làm băng hoại nền tảng tư tưởng của chúng ta bằng đủ quy mô, tính chất và mức độ; làm chệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa; làm rã rời sự cố kết đồng thuận toàn dân tộc ta; đánh sập vị thế, năng lực và uy tín cầm quyền của Đảng ta và cô lập nước ta trên trường quốc tế. 
Những trào lưu tư tưởng, lý luận đó thâm nhập vào nước ta bằng các con đường giao lưu tư tưởng, thông qua hội nhập quốc tế, bằng thủ đoạn kinh tế, văn hóa... hết sức tinh vi, biến ảo; và chúng thường trú ngụ và phát tác từ các phần tử thoái hóa, biến chất, nằm ở tất cả các cấp của hệ thống chính trị, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến hòa bình” công phá từ bên ngoài thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ rất nguy hiểm. 
Tất cả nhằm thủ tiêu Đảng, cô lập đất nước ta và chuyển hóa thể chế chính trị một cách nhanh nhất, ngắn nhất và nguy hiểm nhất. 
Chúng ta cần làm gì và làm như thế nào? 
Vấn đề tư tưởng phải được giải quyết bắt đầu từ tư tưởng, trước khi bằng con đường tổ chức, pháp luật. 
Nhưng, không thể chỉ giải quyết triệt để những vấn đề tư tưởng, lý luận bằng chính vấn đề tư tưởng, lý luận một cách thuần túy, thậm chí rất suông. 
Trước hết, chúng ta phải có một cương lĩnh về hành động một cách có tư tưởng. Cương lĩnh hành động hiện nay chính là, khi tình hình đã khác trước, cần nhận diện đúng, phân định trúng và có đối sách phù hợp và hiệu quả. 
Thực tiễn cho thấy, không thể để tình trạng những người bàn về tư tưởng nhưng hành động phi tư tưởng, thậm chí trái tư tưởng, xỉ nhục tư tưởng. Kinh nghiệm đã và đang chỉ ra rằng, từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước chuyển ngắn, thậm chí rất ngắn, tới mức khôn lường, trở thành kẻ đối lập với nhân dân, với dân tộc, phản bội lại Đảng, phản bội thể chế. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, trong cuộc đấu tranh này, phải tự mình trở thành một nhà tư tưởng một cách ngang tầm và trong sạch. 
Tự mình phải làm công tác tư tưởng cho chính mình, và phải tự mình trong sạch; và trở nên đúng đắn, tự trọng và ngang tầm theo các quy định về nêu gương: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012, của Ban Bí thư khóa XI, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” và Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Chúng ta có tối thiểu hơn 4 triệu “nhà tư tưởng” là đảng viên. Đó là hành động mang tính tư tưởng nhất. Chúng ta không ảo tưởng về điều đó, nếu đảng viên thực sự là đảng viên, lãnh đạo thực sự ngang tầm trọng trách lịch sử. Chỗ nào vắng cán bộ, đảng viên, chỗ đó trận địa tư tưởng bị bỏ trống. Vì thế, việc tổng rà soát, sàng lọc nhằm làm trong sạch đội ngũ đảng viên là trọng sự rất cấp bách, không thể trì hoãn.
Càng không thể giải quyết những lỗi lầm tư tưởng chính trị bằng thứ tư duy đã đẻ ra nó; những vấn đề bất thường của tư tưởng chính trị phải được giải quyết bằng những phương pháp bất thường, tức vấn đề tổ chức và cán bộ. Chấm dứt tình trạng: Người có tư tưởng thì không có quyền được quyết định, người được quyền quyết định lại không có tầm tư tưởng. Đó là cách làm tư tưởng cụ thể nhất, chứ không rơi vào đạo lý suông, tư tưởng chính trị suông. Chọn người xứng đáng và ngang tầm là nhân tố quyết định thành bại công việc này.
Người đứng đầu các cấp trong bộ máy hệ thống chính trị phải là những người lĩnh nhiệm xứng đáng sứ mệnh công tác tư tưởng, lý luận của thế chế một cách gương mẫu và thật sự. Ai không làm tròn trọng trách đó thì nên từ chức hoặc không ngần ngại, buộc phải thay thế họ. Không thể để thảm họa: những ai nhúng chàm tư tưởng; đạo chích, đạo vị, đạo tâm... đi rao giảng về sự cao quý của tư tưởng, sự “soi đường cho quốc dân đi” của lý luận, sự trong sạch, liêm sỉ, liêm chính, nghĩa khí hay quốc sỉ của những người trên địa hạt tư tưởng, lý luận. Đó là tình trạng “a dua tư tưởng, lý luận”, tầm thường hóa tư tưởng, lý luận, “ngụy tư tưởng”, “ngụy lý luận”. Nói cách khác, đó là kiểu làm tư tưởng, lý luận như “mang giấy bọc lửa”. Như thế, vô hình làm phương hại công tác tư tưởng, lý luận của chúng ta; vô hình tiếp tay cho sự lan rộng của sự suy thoái tư tưởng chính trị, tệ hủ bại trong hành động thực tiễn phi tư tưởng, lý luận,... Như thế là, phản tư tưởng nhất, là sự hạ thấp, thậm chí hủy hoại nền móng tư tưởng, lý luận chính trị. 
Đòi hỏi cao đối với cán bộ lãnh đạo, nhất là các đồng chí giữ cương vị trọng trách trong bộ máy của Đảng, Nhà nước ở các cấp, các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, bộ trưởng, người đứng đầu các ngành, các địa phương, đơn vị và các cán bộ lãnh đạo khác tự giác rèn luyện tầm nhìn chính trị chiến lược, trung thành với lý tưởng, khép mình vào kỷ luật, giữ trọn vẹn liêm sỉ, tự mình trong sạch; làm gương trước nhân dân, trước cấp dưới về hành động chính trị, về danh dự, về sự dũng cảm hành động theo lời nói, về trách nhiệm công việc, về phẩm hạnh chính trị và đạo đức... trong thực thi đường lối của Đảng, vì lợi ích tối cao của nhân dân, của dân tộc và của Đảng. Đồng thời, chủ động tổng kết thực tiễn, phát triển đường lối chính trị của Đảng, làm giàu kinh nghiệm tổ chức thực tiễn mang tính lý luận. Sống và làm việc trong nhân dân để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa và tự chỉnh đốn mình. Hóa thân trong các phong trào hành động của nhân dân để dẫn dắt, qua đó để tổng kết kinh nghiệm, trau dồi khả năng và rèn dũa trình độ lý luận của chính mình nhằm phát triển phong trào. Lúc này, một bước tiến trong hành động có giá trị hơn một tá cương lĩnh, nói như C. Mác. Đó là con đường bảo vệ tư tưởng, phát triển lý luận của chúng ta một cách chủ động nhất, ngắn nhất và tự giác nhất. 
Tự chỉnh đốn mình đủ năng lực xử lý, nhất là đối thoại, tranh luận một cách dân chủ, bình đẳng và cầu thị với tất cả những ai quan tâm về công tác tư tưởng, với các trào lưu tư tưởng, lý luận từ mọi phía. Đó là hiện thân sinh động và sức sống mạnh mẽ của tư tưởng, lý luận chính trị, của công tác tư tưởng, lý luận, phát triển đường lối chính trị của Đảng dẫn dắt công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế hiện nay. 
Và, hơn hết bao giờ, phải chủ động hành động kiên quyết, vì sự sống còn đó.
Cương lĩnh hành động hiện nay là, tiếp tục kiến tạo một đội ngũ chiến lược gia tư tưởng, lý luận hay tối thiểu là các cán bộ tư tưởng, lý luận cấp chiến lược ngang tầm trọng trách của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế. Vẫn là tiếp tục công việc về tổ chức và cán bộ, nếu được tiến hành hiệu quả, thì chính là giải pháp phát triển tư tưởng, lý luận hữu hiệu nhất. Kinh nghiệm lịch sử tư tưởng và đấu tranh tư tưởng, lý luận ngày càng xác thực rằng, lý do tồn tại của tổ chức đảng, và các lãnh tụ xứng đáng với danh hiệu đó là, ngoài nhiều điểm khác, đảng và lãnh tụ còn phải thông qua một công tác lâu dài, kiên cường, thiên hình vạn trạng nhiều mặt của tất cả các đại biểu giác ngộ của giai cấp mình mà thu hoạch được những kiến thức cần thiết, - ngoài kiến thức và kinh nghiệm là tính nhạy bén chính trị cần thiết để giải quyết một cách chính xác và mau lẹ những vấn đề chính trị phức tạp. 
Nói một cách hình ảnh, đã đến lúc, về mặt tổ chức bộ máy, không thể để tồn tại những ông “Đông Quách”, những “con thò lò sáu mặt”, “ăn cây táo rào cây xoan nâu” trong đội ngũ, trước hết trong đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và nguyên cấp này, trước hết trên địa hạt tư tưởng, lý luận. Nếu để duy tồn, vô hình trung, tối thiểu đã làm phương hại theo kiểu “quả bí thối từ ruột thối ra”, thậm chí chặt cụt động lực của các nhà tư tưởng, lý luận; mặt khác sẽ thủ tiêu và tự thủ tiêu cả hai: cán bộ và bộ máy làm công tác tư tưởng, lý luận. Và, thậm chí làm băng hoại ngay cả bộ máy làm công tác tổ chức và kiểm tra, thanh tra và bảo vệ pháp luật vì “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trực tiếp đối với công tác tư tưởng, lý luận, khi trận địa tư tưởng, lý luận bị xâm hại và bị chi phối bởi những tệ nạn đó. 
Cần thiết rà soát, sàng lọc, để tái kiến tạo đội ngũ và hệ thống các bộ máy này, để tư tưởng, lý luận có khả năng dẫn dắt và bảo đảm phát triển công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đúng hướng. Đó là phương lược và nghệ thuật hiện thời. Cần toàn dụng đức trị và pháp trị trên phương diện này. Đội ngũ chúng ta phải tự mình trở nên mạnh mẽ, dũng cảm và kiên quyết ngang tầm yêu cầu của lịch sử! Đó chính là hiện thân và hành động tư tưởng, lý luận nhất. 
Đó là phương sách xây kết hợp phòng, chống chủ động và hiệu quả nhất trên địa hạt tư tưởng, lý luận!
Cương lĩnh hành động lúc này là, tổng soát xét, tiếp tục đổi mới toàn diện và căn bản hệ thống tổ chức, cơ chế vận hành và thể chế về công tác tư tưởng, lý luận chính trị. Tối thiểu có 3 loại công việc nổi bật:
Về hoàn thiện cơ chế vận hành: Đâu là tư tưởng, đâu là lý luận, đâu là tư tưởng lý luận chính trị? Ai làm, làm với ai, làm như thế nào? Các binh chủng tư tưởng, lý luận hiện nay ra sao: về chức năng, nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy và phương thức vận hành thế nào? Duy tồn tình trạng hiện nay liệu có còn tương thích không? Nếu không, thì sẽ làm gì? Phải chăng cấp bách cơ cấu lại chiến lược hệ thống đào tạo, truyền thông, tuyên giáo các cấp, các cơ quan nghiên cứu... theo hướng tập trung, thống nhất, rõ việc, gọn nhẹ, rõ trách nhiệm cá nhân phụ trách, trên cơ sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ độc lập từng cơ quan bảo đảm sự thống nhất giữa công tác tổng kết thực tiễn với phát triển tư tưởng, lý luận? 
Trên cơ sở đó, định biên, tuyển chọn dân chủ hóa nhằm kiến tạo đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận tương xứng theo hướng tinh hoa, chuyên nghiệp và văn hóa hóa. Sàng lọc nghiêm khắc và kiến tạo chặt chẽ theo hướng tinh lọc, ngăn chặn chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa cá nhân... bảo đảm sự trong sạch, tương thích đội ngũ này. 
Về đổi mới thể chế hoàn bị: Đâu là thể chế cơ bản, đâu là mắt xích chủ yếu? Đâu là thể chế bất biến, cái thể chế khả biến là đâu? Đâu là sức mạnh tổng hợp giữa công tác giáo dục - cơ quan hành động trên địa hạt tư tưởng, lý luận với công tác tổ chức và pháp luật... Theo đó, cần phân định rõ không chỉ về định tính mà cần định lượng cụ thể lực lượng làm công tác tư tưởng, lý luận, trước hết là cấu trúc lại hệ thống báo chí và đội ngũ những người làm báo, hợp thành binh chủng tư tưởng, lý luận chỉnh thể đổi mới và ngang tầm. Các thiết chế cần và đủ bảo đảm vận hành toàn bộ công tác này bao gồm những gì, chúng ra sao; những gì thuộc về chuyên ngành, những gì thuộc về liên ngành, tối thiểu là các lĩnh vực và phương tiện làm công việc tư tưởng, lý luận, tổ chức và pháp luật, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế trong “thế giới phẳng”, cố nhiên cả không “phẳng” hiện nay?
Theo đó, tiếp tục chỉnh đốn lĩnh vực báo chí truyền thông và các phương tiện truyền thông xã hội. Sẽ là khiếm khuyết, thậm chí thất bại, nếu thiếu hoặc buông lỏng loại công việc này. Kinh nghiệm ban hành và thực thi Luật An ninh mạng của Ô-xtrây-li-a vào tháng 2-2019, sự ra đời của ngành công nghiệp an ninh mạng của Xin-ga-po vào tháng 3-2019, bảy lĩnh vực quản lý mạng xã hội của Anh vào tháng 4-2019 mới đây... đã cho chúng ta những kinh nghiệm tham chiếu đáng suy ngẫm trên lĩnh vực này. Vì, những người chống phá tư tưởng, những kẻ thù lý luận đã và đang sử dụng những phương tiện ấy như những “cây cầu tư tưởng” đi thẳng vào trái tim khối óc của chúng ta, gây tác họa rất nguy hiểm ở không ít nơi, đối với không ít người, lại tỏ ra rất nhiệm màu. Họ âm mưu tạo nên tình trạng “mù màu về tư tưởng”, “hỗn loạn về lý luận” để làm rối tình hình chính trị, hạ bệ cơ sở lý luận chính trị mác-xít, nhằm phá hoại đường lối chính trị của Đảng; qua đó bôi nhọ, làm phá sản chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta. 
Đổi mới, xây dựng và hoàn thiện các thiết chế toàn diện, toàn vẹn, mạnh mẽ, và đồng bộ bảo đảm giữa tự do, dân chủ và pháp luật một cách minh bạch, công khai và nhân bản, trên bình diện tư tưởng, lý luận một cách chủ động và nghiêm khắc.
Về trách nhiệm cơ quan hoạch định chiến lược chính trị, cơ chế và thể chế và cơ quan có thẩm quyền quyết định: Đây là việc to lớn, đa diện của các cấp ủy, chính quyền các cấp.... Xin nói gọn: Cấp bách thực thi quyết sách của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng khóa XII về công tác này, một cách căn cơ, chiến lược, tổng hợp và khả thi, trong tầm nhìn tới năm 2030, trước mắt trên lộ trình tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Đó là những công việc cần kíp thực thi hiện nay đối với Đảng, và của chính công tác tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng. Không như thế không thể nói tới việc bảo vệ tư tưởng, lý luận, càng không thể nói tới việc phát triển độc lập hay sáng tạo đột phá về tư tưởng, lý luận, dù chỉ là một bước nhỏ!
Con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta đi, không gì lay chuyển được. Công tác tư tưởng, lý luận tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử cầm nhịp thống nhất toàn dân tộc, “soi đường cho quốc dân đi” trên con đường ấy.
Và, dù cho kẻ thù của chúng ta câu kết với những phần tử từ bên trong, điên cuồng công kích, phá hoại, Đảng ta đứng vững trên nền móng tư tưởng chính trị và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thâu hóa và góp phần phát triển tinh hoa tư tưởng, lý luận của nhân loại, với sự ủng hộ và bảo vệ của nhân dân, công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ dưới ngọn cờ của Đảng, dân tộc ta nhất định vượt qua mọi trở lực, như 89 năm qua, tiếp tục tiến lên, nhịp bước cùng thời đại. Không gì cản nổi!./.
Nhị Lê
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI ÂM MƯU, HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ “XÃ HỘI DÂN SỰ” ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, HÒNG CHUYỂN HÓA CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM



Những năm gần đây, khái niệm “xã hội dân sự” xuất hiện trên các diễn đàn, báo chí, truyền thông xã hội với tần suất ngày càng nhiều hơn. Sở dĩ được thảo luận nhiều, vì trong vòng hơn hai thập niên qua, “xã hội dân sự” được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá Đảng, Nhà nước ta
Hiện nay, vấn đề “xã hội dân sự” (XHDS) đã và đang được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Sau thất bại trong hoạt động chống phá Việt Nam ở các giai đoạn trước, hiện nay, các thế lực thù địch xem việc củng cố, thúc đẩy “XHDS” theo mô hình phương Tây là một hướng đi mới, là một trong những phương thức tác động cơ bản của chiến lược “diễn biến hòa bình” với mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Mục tiêu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” là tìm cách thúc đẩy sự xuất hiện các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập, làm suy yếu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, hình thành “XHDS độc lập về chính trị” là một “lối thoát” cho sự ra đời công khai, hợp pháp của các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, buộc Việt Nam phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Chúng ra sức cổ vũ cho hình thành ở Việt Nam một mô hình “XHDS độc lập về chính trị” kiểu phương Tây, nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. 
Hòng thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng tính chất chính trị, xã hội phức tạp của “XHDS” để tác động vào hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân bằng nhiều phương thức khác nhau, từ tuyên truyền lừa bịp, thổi phồng, cường điệu hóa vai trò của XHDS, cung cấp tài chính, phương tiện hoạt động đến gây sức ép với Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại. Các đối tượng chống đối nhân danh chiêu bài “XHDS”, “dân chủ”, “nhân quyền”... để tập hợp lực lượng, lập hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích dễ gây “ấn tượng” với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Hội tù nhân lương tâm”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”,... 
Thủ đoạn mà các đối tượng chống đối sử dụng phổ biến hiện nay là thông qua các trang web, diễn đàn trực tuyến, nhất là mạng xã hội để công khai tổ chức, tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia; sử dụng các phần mềm bảo mật để liên lạc, tổ chức huấn luyện, đào tạo trực tuyến cho thành viên; công khai viết “đơn kiến nghị” đòi thành lập đảng chính trị đối lập, tự do thành lập hội mà không tuân theo quy định pháp luật, đòi khởi kiện, vu cáo, xuyên tạc Nhà nước ta vi phạm các điều ước quốc tế về quyền dân sự... Ngoài ra, các đối tượng này còn tìm cách chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, lợi dụng các khuyết điểm trong quản lý đất đai, môi trường... để kích động khiếu kiện, tụ tập đông người, biểu tình, xuyên tạc tình hình, hạ uy tín cán bộ; thông qua các hoạt động này để tập hợp lực lượng, gây thanh thế, từng bước nhen nhóm và thành lập tổ chức chính trị đối lập... Tại các địa bàn chiến lược, các đối tượng chống đối đẩy mạnh xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo; kích động tư tưởng ly khai, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khơi gợi, khoét sâu mâu thuẫn dân tộc, tuyên truyền phát triển các tổ chức tôn giáo phi pháp, tụ tập “xưng vua”... 
Bên cạnh đó, dưới danh nghĩa đại diện các tổ chức “XHDS”, một số đối tượng chống đối đã tham gia các buổi điều trần ở nước ngoài, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, đề nghị can thiệp trả tự do cho các đối tượng chống đối trong nước bị bắt do vi phạm pháp luật... Đặc biệt, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận đảng viên, tình trạng yếu kém, sai phạm của một số cán bộ để thổi phồng, cường điệu hóa khuyết điểm, “hạ bệ” uy tín chính trị của Đảng, lôi kéo người dân tham gia các tổ chức mang danh nghĩa “XHDS” để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài rất quan tâm đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội ở nước ta và tìm cách xâm nhập, tác động, hướng lái hoạt động, chuyển hóa dần các tổ chức này khi chưa đủ điều kiện, thời cơ thành lập tổ chức đối lập. Thông qua các hoạt động, như triển khai dự án, tài trợ tài chính, tổ chức hội thảo với các NGO Việt Nam, một số tổ chức nước ngoài đã đi sâu xâm nhập, tìm hiểu nội bộ, xu hướng quan điểm của các NGO Việt Nam, kích động các tổ chức này thoát ly vai trò lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý của Nhà nước, cổ vũ quyền “tự do lập hội” theo tiêu chí phương Tây. Ngoài ra, một số tổ chức nước ngoài còn hỗ trợ tài chính cho một số NGO Việt Nam để xuất bản, phát hành tài liệu nghiên cứu, văn bản luật nước ngoài nhằm tuyên truyền quan điểm, pháp luật phương Tây đến với công chúng Việt Nam một cách công khai.
Các tổ chức phản động nước ngoài cũng tìm cách thúc đẩy hình thành “XHDS” tại Việt Nam với mục đích chống phá từ bên trong. Tổ chức “Bảo vệ người lao động” (tại Ba Lan) gia tăng hoạt động với ý đồ chuyển hướng xâm nhập vào trong nước, thúc đẩy hình thành các tổ chức “công đoàn tự do”. Tổ chức “Mạng lưới tuổi trẻ Việt Nam lên đường” đã tiến hành “Đại hội thanh niên sinh viên Việt Nam trên thế giới lần thứ V” vào tháng 1-2008 tại Ma-lai-xi-a. Tại “đại hội” này, các đối tượng tham gia cho rằng để tiến hành “cuộc cách mạng hòa bình” tại Việt Nam thì phải xây dựng được một “XHDS bền vững” và muốn thay đổi xã hội thì không chỉ trên phương diện chính trị, mà còn trên các phương diện kinh tế, luật pháp, trong mỗi cộng đồng dân cư. Qua đây cho thấy, các thế lực thù địch bên ngoài đặc biệt quan tâm đến việc lợi dụng “XHDS” để thực hiện âm mưu lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ðáng chú ý là, một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi “trưng cầu ý dân” về Ðiều 4 của Hiến pháp cũng như sửa đổi toàn bộ Hiến pháp, thúc đẩy hình thành “XHDS” và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai... Ðây là phương thức chống đối công khai rất nguy hiểm, nếu thiếu cảnh giác có thể tạo môi trường để các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức “XHDS” đưa ra những kiến nghị thay đổi thể chế, chuyển đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp tư sản.
Vì sao các thế lực thù địch, cơ hội chính trị gia tăng hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá?
Một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của “XHDS” trong các cuộc “cách mạng sắc màu” lật đổ chế độ XHCN. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ngay sau khi khởi xướng cải tổ với việc M. Goóc-ba-chốp chủ trương “công khai hóa” và “dân chủ hóa”, các tổ chức đoàn thể phi chính thức và các ấn phẩm tuyên truyền cho tự do hóa tư sản dưới nhiều hình thức đã mọc lên “như nấm sau mưa” ở Liên Xô. Ngày 28-12-1987, xã luận đăng trên báo Sự thật cho biết, Liên Xô khi đó đã có hơn 30.000 tổ chức, đoàn thể phi chính thức. Do thái độ ủng hộ của M. Goóc-ba-chốp, ngày càng có nhiều tổ chức đoàn thể xã hội chống đối Đảng, chính quyền Xô-viết được công khai hóa, hợp pháp hóa. M. Goóc-ba-chốp không những cho phép các đoàn thể phi chính thức tồn tại mà còn cổ vũ thành lập các đảng phái, từng bước thực hiện chế độ đa đảng. Các đảng đối lập ra đời và sau đó đã giành được chính quyền tại một loạt địa phương dưới cái gọi là “bầu cử tự do” là hệ quả trực tiếp của chính sách nêu trên. Những tổ chức này trắng trợn xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ, hạ bệ các nhà lãnh đạo Liên Xô trước đây, phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa xã hội, ngang nhiên hô hào chống chế độ và Nhà nước Xô-viết. Đây là một trong những nhân tố trực tiếp dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. 
Tại Ðông Âu ngay từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số nước đã hình thành các công đoàn, hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức XHDS” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Thông qua việc lôi kéo quần chúng, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, một số tổ chức Công giáo, được kích hoạt thêm bởi các chính sách “công khai hóa”, “dân chủ hóa” và chính sách đối ngoại với đồng minh của M. Goóc-ba-chốp, những tổ chức này nhanh chóng chuyển hóa thành tổ chức chính trị đối lập, đóng vai trò trọng yếu trong việc hạ bệ uy tín của nhà nước, thúc đẩy hình thành chế độ đa đảng và giành chính quyền thông qua cái gọi là “bầu cử dân chủ”. Các cuộc “cách mạng đường phố” tại các nước khu vực Trung Ðông - Bắc Phi hay “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” ở một số nước thuộc không gian hậu Xô-viết thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các NGO trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS trong nước lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ các chính thể hợp pháp, gây nên tình trạng khủng hoảng chính trị, thậm chí có nước còn lâm vào cảnh chia rẽ, xung đột triền miên, lãnh thổ bị chia cắt lâu dài.
Chúng ta không phủ nhận vai trò nhất định của các tổ chức xã hội, hiệp hội, quỹ, diễn đàn,... nhất là khả năng tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội tại cộng đồng hay nhóm xã hội cụ thể; tập hợp nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp trong xã hội phản ánh đến Đảng và Nhà nước; trực tiếp đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội do Nhà nước ủy quyền, hoạt động trong khuôn khổ quy định pháp luật. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng thiết lập các tổ chức xã hội đa dạng theo ngành nghề, lợi ích, nhu cầu, nhân đạo, hữu nghị, sở thích... và không ngừng hoàn thiện quy định pháp luật để phát huy vai trò của các tổ chức này thật sự có ích cho xã hội, cho người dân. Các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động tại nước ta thật sự có đóng góp cho cộng đồng, phát triển xã hội, tôn trọng pháp luật Việt Nam đều được tôn trọng, khuyến khích. 
Nhưng cần thấy rõ rằng, ở nhiều quốc gia, nhất là những nước đang phát triển, sự hình thành các tổ chức của “XHDS” thường chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có các lực lượng chính trị từ bên ngoài thông qua nhiều hình thức và con đường khác nhau. Vậy chúng ta cần nhận thức về “XHDS” như thế nào?
Cùng với thực tế tồn tại và phát triển ngày càng phong phú của các tổ chức hội quần chúng, thuật ngữ “XHDS”, “tổ chức XHDS” được thảo luận, bàn luận khá sôi nổi ở nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn đề chính trị, xã hội rất phức tạp, còn nhiều nhận thức khác biệt, thậm chí đối lập nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Hiện nay, đang tồn tại hai khuynh hướng nhận thức phổ biến về vấn đề XHDS: Một là, tuyệt đối hóa, đề cao quá mức vai trò của “XHDS”, cho rằng cần đẩy nhanh sự phát triển của “XHDS” ở Việt Nam, đồng nhất quá trình này với thực hiện dân chủ hóa, xem đây là “liều thuốc vạn năng” cho khắc phục những giới hạn của quản lý nhà nước và giải quyết tiêu cực trong đời sống xã hội phát sinh từ cơ chế thị trường; hai là, coi “XHDS” mang tính tiêu cực, “đối lập” với Nhà nước XHCN, là vấn đề nhạy cảm, nên né tránh, ngại đề cập và không khuyến khích nghiên cứu, tìm hiểu, thậm chí dựa vào các tổ chức xã hội hoạt động theo kiểu “bất tuân dân sự”, gây nên tình trạng vô chính phủ, bất ổn chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới rồi bài xích, phủ nhận sạch trơn vai trò các hội, quỹ, diễn đàn trong tham gia quản lý phát triển xã hội. Việc chưa thống nhất nhận thức khiến cho cách tiếp cận, ứng xử đối với vấn đề XHDS hiện nay của các cơ quan chức năng đang khá lúng túng. 
Bản chất và những đặc điểm của “xã hội dân sự” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá
Khái niệm “xã hội dân sự” gây nên nhiều tranh cãi tại Việt Nam, có người đặt nó đối nghĩa với “xã hội chính trị”, có người lại xem nó đối lập với “xã hội quân sự”. Nhiều người không thừa nhận khái niệm này vì nội hàm và ngoại diên không tường minh, bởi khó có thể định nghĩa một “xã hội” (dân sự) trong “xã hội” (tổng thể) mà nhân loại lâu nay đã phân định thành các phân hệ - lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Có người xem các hiệp hội, tổ chức xã hội chính, quỹ, diễn đàn... là những biểu hiện cụ thể của “XHDS”, nhưng người khác lại cho rằng đó chính là các thiết chế xã hội gắn với các thể chế tương ứng, đâu phải là một “xã hội”. Một định nghĩa về XHDS được chia sẻ rộng rãi: “XHDS là không gian xã hội công cộng nằm ngoài nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các định chế xã hội độc lập tương đối với nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội...”. 
Điều đó cho thấy, không có định nghĩa thống nhất về “XHDS” mà nó thường bị giải thích một cách chủ quan bởi ý chí của người muốn sử dụng khái niệm này. Các thế lực thù địch và cơ hội chính trị lợi dụng tính không rõ ràng, thiếu tính lịch sử - cụ thể của khái niệm này để giải thích nội hàm “XHDS” theo tiêu chí của các nước phương Tây. Trong các nền dân chủ đa đảng, ranh giới giữa một tổ chức của XHDS và đảng chính trị rất mong manh. Một tổ chức xã hội khi đủ điều kiện và đăng ký tham gia tranh cử vào nghị viện, nếu giành được một tỷ lệ phiếu nhất định trong các cuộc bầu cử (theo quy định của các nước rất khác nhau), thì được xếp vào đảng chính trị và nhận được hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước để hoạt động. Thậm chí nếu giành được số phiếu cao có thể trở thành đảng chính trị có vị thế trong đời sống chính trị đất nước. Còn các tổ chức xã hội không hội đủ số phiếu cần thiết, cùng với các hiệp hội, quỹ, diễn đàn, viện nghiên cứu độc lập... được xem là thành tố cấu thành của “XHDS”. Ngay bản thân tài chính của các tổ chức xã hội, viện nghiên cứu độc lập, quỹ, diễn đàn này, một mặt, dựa vào khả năng tự huy động; mặt khác, nhận đấu thầu các gói dịch vụ có nguồn gốc tài chính ngân sách để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Những tổ chức của “XHDS” có vị thế lớn đều có lực lượng chính trị này hay lực lượng chính trị khác đứng sau chi phối, gây ảnh hưởng, thông qua cung cấp tài chính và định hướng mục tiêu hoạt động. 
Trong các nước chuyển đổi chế độ chính trị ở Đông Âu, không gian hậu Xô-viết, Bắc Phi - Trung Đông, cũng như ở nhiều nơi khác, đã từng diễn ra các trường hợp một tổ chức của “XHDS” bằng các chiêu trò dân túy và sự hà hơi, tiếp sức từ bên ngoài, chỉ trong một thời gian ngắn chuyển hóa thành đảng chính trị thực hiện “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” rồi trở thành đảng cầm quyền. Các NGO nước ngoài nhân danh “XHDS” hoạt động trên lãnh thổ nước khác hoạt động rất ráo riết để cổ vũ cho thúc đẩy các hoạt động “cách mạng đường phố”, mà đứng sau đều chịu sự chi phối bởi các chính phủ đã cung cấp tài chính. Vì vậy, Tổng thống Nga V. Pu-tin rất mạnh tay với các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ nước Nga; nhiều nước khác cũng rất cảnh giác, thận trọng, tìm cách quản lý, kiểm soát các tổ chức này nếu không muốn gây nên nguy cơ bất ổn xã hội. 
Do các tổ chức xã hội có vai trò tích cực nhất định, nên các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã ra sức lợi dụng, tuyệt đối hóa đặc điểm này để tranh thủ quần chúng, tập hợp lực lượng một cách công khai nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Họ lợi dụng các kẽ hở về mặt pháp luật, các vấn đề tiêu cực trong xã hội, vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khi thời cơ chín muồi sẽ hình thành tổ chức chính trị đối lập tại Việt Nam. Có thể nhận dạng mấy điểm sau đây của XHDS:
Thứ nhất, dù những người cổ vũ cho XHDS tự cho rằng XHDS có tính “độc lập” với Nhà nước và không mang bản chất giai cấp, nhưng thực tế cho thấy, XHDS (bao gồm các tổ chức hội, hiệp hội, đoàn thể, tổ chức phi chính phủ, quỹ, diễn đàn...) đều mang tính chính trị, luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống Đảng và Nhà nước. “Xã hội dân sự” chính là môi trường mà trong chính bản thân các thành tố cấu thành cũng diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhóm lợi ích trên mọi phương diện, từ chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa... Do đó, các lực lượng, phe phái, đảng phái chính trị luôn tìm cách chi phối, vận động, lôi kéo lực lượng XHDS hoặc chính các thành tố của XHDS (hội, hiệp hội, đoàn thể, quỹ, diễn đàn...) để đạt được mục tiêu, lợi ích của mình đều bị chi phối bởi các thế lực chính trị hoặc bị chính trị hóa ở các mức độ, hình thức khác nhau. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng, thúc đẩy hình thành XHDS đối lập với Đảng, hoạt động ngoài sự quản lý của Nhà nước, tạo tiền đề cho can thiệp, lật đổ dưới danh nghĩa “chuyển hóa dân chủ”, đưa các lực lượng chống đối lên nắm chính quyền. 
Thứ hai, vốn mang tính đa dạng về lợi ích, thành phần, do đó XHDS cũng mang tính đa dạng, đa nguyên về tư tưởng. Đặc trưng này phản ánh tính phức tạp về tư tưởng, văn hóa trong đời sống XHDS. Đối với Việt Nam, sự hình thành của XHDS còn chứa đựng nguy cơ xuất hiện, hình thành hoặc du nhập những khuynh hướng tư tưởng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản, tiền đề trực tiếp dẫn đến đa nguyên về chính trị. 
Thứ ba, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, ý thức công dân, ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân còn hạn chế; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, quản lý của chính quyền còn nhiều lỗ hổng; lại có những đặc điểm phức tạp, đa dạng về tôn giáo, dân tộc, di tồn lịch sử của chế độ thực dân... Do đó, sự hình thành và phát triển các yếu tố của XHDS luôn tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng dẫn đến chia rẽ, xung đột, hỗn loạn, vô chính phủ, mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước.
Thứ tư, XHDS bao hàm nhiều tổ chức xã hội có tính đa dạng về thành phần, mục đích hoạt động, lợi ích, thiếu tính tổ chức chặt chẽ, do đó nó dễ bị các cá nhân, tổ chức có điều kiện chi phối, lợi dụng để thực hiện các mục đích riêng và tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự, ổn định xã hội. Tính chất đa dạng, phức tạp của XHDS cho thấy đây là khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không cao và thiếu tính nhất quán. Tổ chức XHDS hình thành chủ yếu dựa trên những mối quan hệ và liên kết mềm, tự nguyện, tự quản, tính thống nhất không cao nên dễ xảy ra nguy cơ các tổ chức này chỉ chạy theo lợi ích cục bộ mà không quan tâm đến lợi ích chung, toàn xã hội, tạo ra các “lệ” riêng, có thể gây cản trở đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, thậm chí có trường hợp bị biến tướng phục vụ cho lợi ích của cá nhân, tổ chức có điều kiện chi phối. Thực tế cho thấy, tuyệt đối hóa vai trò các tổ chức của XHDS, xem nhẹ quản lý của Nhà nước, chỉ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, tiền đề cho rối loạn, bất ổn. Do tính chất đa dạng và phức tạp này mà XHDS luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các đối tượng, tổ chức thù địch cả trong và ngoài nước mua chuộc, chi phối, lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối.
Thứ năm, một số tổ chức xã hội có vai trò, ảnh hưởng xã hội nhất định, số lượng thành viên đông đảo luôn trở thành mục tiêu tác động, chi phối, lợi dụng của các thế lực thù địch nhằm biến các tổ chức này thành các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Một bộ phận các tổ chức xã hội, đặc biệt là các hội, liên hiệp hội, tổng hội có tổ chức mang tính hệ thống cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang, với số lượng thành viên đông, có ảnh hưởng nhất định đối với quần chúng. Các tổ chức này trở thành mục tiêu lợi dụng của các thế lực thù địch để tìm cách tác động đến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua các hoạt động “vận động hành lang”, hội thảo, kiến nghị, nhất là những vấn đề hệ trọng, nhạy cảm, như chế độ sở hữu đất đai, an ninh mạng, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc... Do đó, nếu không có những quy định pháp lý đủ mạnh, thiếu hiệu lực quản lý của các cơ quan chức năng để các hoạt động “vượt rào” thì các tổ chức này rất dễ bị lợi dụng, biến thái và biến tướng thành các lực lượng hỗ trợ tích cực cho thúc đẩy “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thậm chí chuyển hóa thành tổ chức đối lập về chính trị. 
Một số vấn đề đặt ra trong đấu tranh với các quan điểm, âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự”
Một là, cần nhận thức đầy đủ về XHDS và có cách “ứng xử” phù hợp với vấn đề “XHDS”. Phải thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm khuyến khích, cổ vũ XHDS với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến XHDS chưa được nghiên cứu thấu đáo, hiệu lực và công cụ quản lý của Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân còn có những hạn chế. Do đó, nếu chúng ta buông lỏng, thả nổi cho sự hình thành, phát triển “XHDS” sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy phức tạp, khó kiểm soát, nhất là dưới góc độ quản lý nhà nước, cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ an ninh quốc gia. 
Hai là, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của XHDS mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Cần tổ chức nghiên cứu bài bản, có hệ thống về XHDS, các yếu tố của XHDS, nhất là làm rõ khái niệm, bản chất của XHDS; XHDS và các yếu tố cấu thành, biểu hiện cụ thể của XHDS; các hình thức của XHDS gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể, nhất là chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; cấu trúc của XHDS và quan hệ của XHDS với nhà nước, thị trường, tôn giáo, mạng xã hội, gia đình; vai trò, ưu thế và giới hạn, mặt tiêu cực của XHDS; yếu tố ngoại sinh và nội sinh của XHDS; các hình thức lợi dụng XHDS của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động có chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quản lý các tổ chức xã hội, các NGO, vừa phát huy mặt tích cực, vừa định hướng hoạt động lành mạnh phù hợp với thể chế chính trị, đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, triệt tiêu các yếu tố có thể bị lợi dụng để hình thành lực lượng chính trị đối lập, gây bất ổn chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân không bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo thông qua danh nghĩa tổ chức XHDS. 
Ba là, trong điều kiện có sự tồn tại khách quan của một số loại tổ chức có tính chất “XHDS”, cần tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức này, hạn chế những tác động tiêu cực của nó và có các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất của chế độ. Sự quản lý và định hướng có hiệu quả, bằng pháp luật của Nhà nước sẽ tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hòa của toàn xã hội. Mặt khác, cần củng cố, đổi mới, phát huy tính tích cực và chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để làm tốt chức năng đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trước tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa. 
Đồng thời, quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1), định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội, đoàn thể ở Việt Nam phải gắn liền với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn với đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ XHCN. 
Bốn là, các lực lượng nòng cốt các cấp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể được giao, vận dụng các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội và NGO Việt Nam, không để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tác động, chuyển hóa thành tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây. 
Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng khác đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, ngăn chặn hoạt động truyền bá tư tưởng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của XHDS theo mô hình, tiêu chí của phương Tây, cổ vũ thành lập các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc của tổ chức “XHDS”; phối hợp tuyên truyền, vận động các nhân sĩ, trí thức, học giả đang sinh hoạt tại các hội, liên hiệp hội, tổng hội nâng cao cảnh giác trước luận điệu của các thế lực thù địch về cái gọi là “hình mẫu lý tưởng” của “XHDS” phương Tây, cũng như tích cực tham gia đấu tranh tư tưởng - lý luận. Đồng thời, vạch rõ những điểm không phù hợp (cả về lý luận và thực tiễn) của “XHDS” theo hình mẫu phương Tây đối với xã hội Việt Nam; vạch rõ mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thông qua việc lợi dụng vấn đề “XHDS” để tác động, chuyển hóa chế độ chính trị tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sử dụng các biện pháp, phương tiện ngăn chặn, vô hiệu hóa các con đường, cách thức truyền bá vấn đề “XHDS” theo hình mẫu phương Tây vào Việt Nam, đặc biệt là thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, hợp tác, trao đổi về văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo... Đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài câu kết, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong nước thành lập các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc XHDS./.
-----------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149
Nguyễn Xuân Mười(*), Trần Xuân Dung(**)
(*) Trung tướng, TS, (**) Thiếu tướng, PGS, TS, Bộ Công an

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...