Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

Tuyên ngôn Độc lập: Thời khắc lịch sử và ý nghĩa trường tồn

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc và sự thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đến nay, vẫn vẹn nguyên giá trị.

Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội đã tạo nên chuyển biến nhảy vọt của Tổng khởi nghĩa, đồng thời tạo điều kiện để Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiếp tục chỉ đạo Tổng khởi nghĩa, xúc tiến chuẩn bị ngay cho việc ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiến hành các hoạt động đối ngoại.

Ngày 21/8/1945, nhiều ủy viên Trung ương Đảng đã về Hà Nội. Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) về tới Hà Nội.

Sau khi nghe báo cáo tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội, chiều 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tổ chức tại số nhà 48 phố Hàng Ngang, để bàn những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương của Ban Thường vụ mở rộng thành phần Ủy ban giải phóng dân tộc và sớm công bố danh sách của Ủy ban cho toàn dân biết, chuẩn bị bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức cuộc mít-tinh lớn ở Hà Nội để Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt nhân dân. Ngày ra mắt của Ủy ban cũng là ngày Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 27/8/1945, Ủy ban giải phóng dân tộc họp tại Hà Nội. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu ra được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Một số ủy viên Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác, có cả những người đã từng tham gia trong chính quyền cũ.

Hành động tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác của một số ủy viên Việt Minh được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân”.

Cũng trong ngày 27/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày hôm sau, danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được công bố trên các báo ở Hà Nội.

Xứng đáng là trung tâm giáo dục chất lượng cao, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị thầy và trò nỗ lực phấn đấu dạy tốt và học tốt hơn nữa với tất cả ý chí và khát vọng của mình, tiếp tục giữ vững vị trí ngôi trường có nhiều thành tích nhất cả nước về số lượng huy chương, giải thưởng trong các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế tại Lễ Khai giảng năm học 2022-2023 Trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), sáng 5/9.

Phát biểu tại lễ khai giảng, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi tới các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh trong cả nước nói chung, Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên nói riêng những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất, bước vào năm học mới với khí thế mới, đạt nhiều thành tích trong dạy và học.

Chủ tịch nước nêu rõ, giáo dục là nền tảng của sự phát triển bền vững, quyết định tương lai của dân tộc, của đất nước; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Giáo dục vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển của xã hội.

Từ khi nước nhà giành được độc lập đến nay, Đảng và Bác Hồ đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, coi đây là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước.

Sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhất là các thế hệ thầy cô giáo, đến nay, nền giáo dục nước ta đã có những chuyển biến tích cực, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề trong 2 năm học vừa qua do dịch Covid-19.

Trong bảng xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Đặc biệt, trong nhiều năm qua, các đoàn học sinh nước ta tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế luôn đạt những thành tích cao, góp phần khẳng định vị thế của nền giáo dục Việt Nam trên thế giới.

Thành tựu chung đó có sự đóng góp tích cực của mỗi thầy, cô giáo, mỗi em học sinh, của từng trường học, từng cơ sở giáo dục-đào đạo, từng cán bộ và đơn vị quản lý giáo dục, cũng như sự quan tâm chăm lo của các bậc phụ huynh, của mỗi gia đình, mỗi dòng họ và toàn xã hội, trong đó có Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên.

Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng về truyền thống và bảng vàng thành tích của các thế hệ thầy trò ngôi trường giàu thành tích nhất cả nước về đào tạo học sinh giỏi, đang dần khẳng định vị thế trong những trường THPT danh tiếng của khu vực và thế giới.

Nhà trường đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, nhiều học sinh đã trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý hàng đầu của đất nước, nhà khoa học hàng đầu của khu vực và quốc tế. Thành tích xuất sắc của nhiều thế hệ học sinh không chỉ mang lại niềm tự hào cho gia đình, nhà trường và đất nước mà còn khẳng định bản lĩnh, tài năng, trí tuệ của con người Việt Nam trên đấu trường quốc tế.

Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm học 2022-2023, Chủ tịch nước đề nghị toàn ngành Giáo dục nước nhà đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung chỉ đạo tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, hướng vào phát triển con người toàn diện cả năng lực và phẩm chất, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế-xã hội, khoa học và công nghệ của đất nước, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.

Cùng với đó, hoàn thiện các cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, phù hợp từng loại hình đào tạo; sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách, bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công bằng những thành quả tốt đẹp của nền giáo dục nước ta.

Chủ tịch nước cũng yêu cầu tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo đúng hướng, hợp lý; thực hiện bổ sung đủ biên chế giáo viên trong giai đoạn từ năm 2022-2026 theo đúng Kết luận của Bộ Chính trị; nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học; đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Với Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên, Chủ tịch nước đề nghị thầy và trò nỗ lực phấn đấu dạy tốt và học tốt hơn nữa với tất cả ý chí và khát vọng của mình, tiếp tục giữ vững vị trí ngôi trường có nhiều thành tích nhất cả nước về số lượng huy chương, giải thưởng trong các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, xứng đáng là trung tâm giáo dục chất lượng cao, đào tạo được nhiều nhân tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, tô thắm thêm bảng vàng thành tích và truyền thống quý báu đã được các thế hệ đi trước dày công tạo lập, vun đắp qua 57 năm xây dựng và trưởng thành.

Chủ tịch nước mong học sinh nhà trường cũng như tất cả học sinh trong cả nước thực hiện thật tốt 5 điều Bác Hồ dạy, tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, nối tiếp các thế hệ cha anh, phấn đấu không ngừng học hỏi, tiếp thu tinh hoa tri thức của nhân loại, bồi đắp trí tuệ, nhân cách, hoàn thiện bản thân, tự khẳng định mình để mai sau lập thân, lập nghiệp và cống hiến thật nhiều cho đất nước, để Việt Nam chúng ta vững bước tiến tới “đài vinh quang” và cùng “sánh vai với các cường quốc 5 châu”, như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.

Từ những thành công của Trường THPT Chuyên Khoa học tự nhiên và nhiều trường chuyên khác, Chủ tịch nước đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo và toàn ngành Giáo dục quan tâm đổi mới mô hình trường chuyên, lớp chọn cho phù hợp, hiệu quả hơn để ngày càng đào tạo được nhiều học sinh giỏi quốc gia, quốc tế cũng như phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho tương lai đất nước.

Tại Lễ khai giảng năm học 2022-2023, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh trống khai giảng năm học mới và tặng quà các học sinh đoạt giải cao trong kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế và giáo viên nhà trường.

Nguồn: Báo ND

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được xác định là nội dung trọng tâm của đổi mới chính trị tại Việt Nam. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tích cực thảo luận, lấy ý kiến đóng góp để hoàn thiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với XHCN, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung XHCN trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng XHCN chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ… Những luận điệu trên  thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ sớm, gắn với các nhà tư tưởng nổi tiếng như Socrates (469-399 Tr.CN), Aristoteles (384-322 Tr.CN), Cicero (l06-43 Tr.CN), John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hegel (1770 - 1831) v.v… Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.

Những yếu tố cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền là xã hội có dân chủ, đất nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà các quốc gia khác nhau sẽ xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể một cách thích hợp.

Tại Việt Nam, mô hình mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, đây là bộ máy quyền lực của chính quần chúng nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đại đa số người dân trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Việt Nam, Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ. Tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Việc Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Sau 35 năm thực hiện đổi mới, kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm), cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững, là tiền đề quan trọng để đất nước phát triển. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm bình quân trên 1,4%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục cũng đạt được nhiều thành tựu. Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao và được bầu giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức quốc tế. Đây là những minh chứng rõ ràng khẳng định Việt Nam đang phát triển đúng hướng.

Quá trình phát triển cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết, trong đó có vấn đề tham nhũng, suy thoái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hoá, xã hội còn diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề tồn tại kéo dài khiến dư luận bức xúc, ảnh hưởng tới sự uy nghiêm của luật pháp và niềm tin của người dân vào thể chế. Tuy nhiên, những tồn tại đó có nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập, mở cửa, luật pháp chưa đầy đủ, còn những kẽ hở bị lợi dụng; công tác quản lý Nhà nước còn những yếu kém, còn tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái, nhũng nhiễu.

Vấn đề là Đảng, Nhà nước ta nghiêm túc nhìn nhận hạn chế, thiếu sót, đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài để chấn chỉnh, đặc biệt là việc xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Vì vậy, không có lý do gì để các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” để giở trò “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, xuyên tạc tình hình, bôi nhọ Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Những chiêu trò xuyên tạc lịch sử trong dịp Quốc khánh 2/9 của các thế lực thù địch

 Xuyên tạc, bôi lem về giá trị, ý nghĩa lịch sử Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 của dân tộc Việt Nam vốn là chiêu bài “truyền thống” của các thế lực xấu, cứ đến dịp lại khui lên kiểu “bình cũ, rượu mới”.

Song, có những luận điệu ngay từ cách đặt vấn đề đến lý giải cho thấy sự ngô nghê của người viết, dường như họ cố tình không nhìn thấy gì cả, không nghe thấy gì cả, cứ phết lên đó gam màu càng đen, càng xám là được, bất chấp sự thể ra làm sao.

Chẳng hạn, bài viết trên trang mạng của tổ chức Việt Tân đặt câu hỏi khôi hài “Ngày 2/9 nên gọi là ngày gì?”. Bằng việc đưa ra những hiện tượng tiêu cực trong xã hội rồi người viết đả kích rằng “dân chỉ là bầy cừu làm thuê mà không hề có một tổ chức nào bảo vệ”; “đừng nhìn dân như một bầy cá thể yếu ớt”! Trong một bài viết khác về suy ngẫm ngày 2/9, cũng bằng việc phân tích kiểu đánh tráo khái niệm, bản chất, dẫn dắt với những lý lẽ sai lệch, người viết đả kích “vậy sau khi giành được chính quyền, chính quyền đó có về tay nhân dân không?”! Thậm chí, bài viết này còn xuyên tạc rằng: “Đến ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam chẳng có một quyền gì”! Từ đó, đánh lái thành “cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân, hơn 70 năm qua vẫn chưa xong”…

Đọc những câu chữ trên cho thấy rõ tư duy của những người cố tình viết lấy được, nói lấy được, kiểu như đã nhận đặt bài của tổ chức, cá nhân nào đó, cầm “xèng” rồi thì phải “trả  bài” sao cho càng lộng ngôn, càng xuyên tạc, miệt thị cay độc càng có tiền.

Cổ suý tư tưởng chống phá nói trên, một số mạng hải ngoại phân tích kiểu râu ông cắm cằm bà, tiếp cận các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực hiện nay trong bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước rồi phán rằng, hiện thực đất nước là “gam màu xám xịt”. Họ cho rằng, 77 năm sau Quốc khánh 2/9/1945, Việt Nam vẫn trì trệ, lạc hậu vì “sự bảo thủ của Đảng”, coi Việt Nam “cũng chẳng có vị thế gì” trên bản đồ quốc tế, thậm chí còn cho rằng, ngày nay các nước không muốn kết bạn với Việt Nam vì “sợ cộng sản”! Rõ ràng, với cái cách xảo biện như thế, một mặt cho thấy động cơ chống phá đến cùng của một số cá nhân, tổ chức, song cũng phơi bày sự thật là họ cũng đã “hết cách”, xoay đi xoay lại chỉ bài vở cũ, kiểu như “cứ rượu xong là chửi”!

Ở đây, cần thấy rằng:  

Thứ nhất, về ý nghĩa, bản chất của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9, bất cứ nhìn từ góc độ nào cũng phải tôn trọng sự thật khách quan của lịch sử và điều này đã được sử sách nước ta cũng như thế giới ghi nhận. Với Cách mạng Tháng Tám, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Từ đây, đất nước, xã hội và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Thứ hai, từ thành quả của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam đã phấn đấu, đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Hiện thực đó được thể hiện bằng bức tranh sống động trong giai đoạn đổi mới hiện nay, điều mặc nhiên ai cũng thấy rõ. Các quyền con người được khẳng định trong Hiến pháp và cụ thể hoá từ thực tiễn và chính người dân ghi nhận, hưởng thụ, không thể bôi lem, biến tấu kiểu “đến ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam chẳng có một quyền gì”!

Thứ ba, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và quốc tế đánh giá, coi Việt Nam như thế nào, hãy để sự thật khách quan lên tiếng, không thể tẩy trắng kiểu “không có vị trí gì”!

Sự thực là, cũng trong những ngày đầu tháng 9 này, phái đoàn Việt Nam đang tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cảnh sát Liên hợp quốc lần thứ ba (UNCOPS), diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc tại New York từ 30/8-3/9, gửi đi thông điệp Việt Nam sẵn sàng tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế. Tại khóa họp 50 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc diễn ra tháng 6 vừa qua, Việt Nam cùng Bangladesh và Philippines đã đồng tổ chức phiên thảo luận chuyên đề về đảm bảo quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đồng thời giới thiệu dự thảo Nghị quyết năm 2022 về biến đổi khí hậu và quyền con người, tập trung vào quyền lương thực và biến đổi khí hậu. Đó chỉ là hai trong rất nhiều hoạt động quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia, thể hiện rõ nét Việt Nam là một đối tác tích cực, có trách nhiệm với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế.

Cũng trong dịp Quốc khánh này, các nước đã chúc mừng, đánh giá cao thành tựu, vị thế của Việt Nam. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres khẳng định, Việt Nam là nhân tố quan trọng đóng góp vào hòa bình, ổn định trong khu vực. Theo người đứng đầu Liên hợp quốc, “Việt Nam cho thấy những cam kết mạnh mẽ của một quốc gia luôn tích cực nỗ lực xây dựng lòng tin và đối thoại, làm cầu nối tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột trên thế giới”. Đánh giá của Tổng Thư ký Liên hợp quốc phản ánh sự tin tưởng, kỳ vọng vào những đóng góp trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế, đồng thời cũng cho thấy vai trò và vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.

Việc Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm kỳ ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020-2021 là một trong những minh chứng điển hình. Việt Nam được đánh giá đã thể hiện vai trò chủ động, cân bằng, trách nhiệm khi đưa ra những đề xuất, đóng góp thiết thực vào hoạt động của Hội đồng Bảo an, chung tay giải quyết những thách thức toàn cầu. Nổi bật là việc khi đại dịch COVID-19 bùng phát và lây lan trên toàn cầu, Việt Nam chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy để Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết thành lập Ngày Quốc tế phòng, chống dịch bệnh vào 27/12 hằng năm; cùng với Đức khởi xướng và trở thành nước sáng lập Nhóm Bạn bè của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, ra mắt cuối tháng 6/2021. Tại buổi lễ kỷ niệm 1 năm ngày thành lập Nhóm diễn ra ở New York tháng 6 vừa qua, đại diện nhiều nước đã hoan nghênh sáng kiến của Việt Nam cũng như các nước đồng sáng lập nhóm, góp phần đề ra cam kết của đông đảo thành viên Liên hợp quốc, các nước thành viên UNCLOS đối với Công ước vốn lâu nay được coi là “Hiến pháp của đại dương”.

Từ tháng 6/2014 đến tháng 8/2022, có 512 lượt sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp Việt Nam được cử đi làm nhiệm vụ ở phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei... Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc phụ trách các hoạt động hòa bình Jean-Pierre Lacroix đã cảm ơn Việt Nam về sự ủng hộ mạnh mẽ cũng như những đóng góp tích cực đối với các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Ông Lacroix đánh giá cao tính chuyên nghiệp, sự tận tụy, nỗ lực, hy sinh của các binh sĩ Việt Nam khi phải thực hiện nhiệm vụ trong những môi trường khó khăn; đặc biệt bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam tại Nam Sudan đã đóng vai trò quan trọng trong thành công chung của phái bộ Liên hợp quốc tại quốc gia châu Phi này.

Chính sự sẵn sàng và tinh thần trách nhiệm khi tham gia đóng góp vào công việc chung của cộng đồng quốc tế đã giúp Việt Nam tạo dựng được lòng tin, liên tiếp được bầu vào nhiều tổ chức đa phương quan trọng như Hội đồng Chấp hành của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Hội đồng Khai thác bưu chính của Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC)... Đây cũng là động lực để Việt Nam ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, đại diện cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điều này cũng thể hiện sự tự tin của Việt Nam trong việc gánh vác các trọng trách của quốc tế.

Đánh giá về những thành tựu đối ngoại của Việt Nam, Đại sứ Philippines Kridelka, Trưởng phái đoàn thường trực Bỉ tại Liên hợp quốc khẳng định: “Việt Nam có tiếng nói mạnh mẽ và có được lòng tin của thế giới, nhất là ở châu Á, châu Phi và cả châu Âu cũng như Mỹ”. Trong các phát biểu khi tham dự lễ kỷ niệm 77 năm Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhiều đại diện chính phủ, tổ chức quốc tế đã đề cao vị thế và coi trọng hợp tác với Việt Nam.

Sự tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế đã cho thấy một Việt Nam tự tin, sẵn sàng gánh vác nhiều trọng trách quốc tế vì hòa bình và phát triển bền vững. Đó là hiện thực khách quan, do quốc tế ghi nhận, đánh giá chứ không phải tự mình nói về mình. Vậy mà vẫn có những thành phần viết, nói theo kiểu không nghe, không biết, không thấy thì đủ hiểu động cơ của họ như thế nào.

Việt Nam-Lào vững bước đồng hành trên con đường phát triển

Nhìn lại lịch sử mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào qua hơn 9 thập niên, chúng ta tự hào về mối quan hệ mẫu mực, vô cùng trong sáng, hết mực thủy chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.

Là hai nước láng giềng gần gũi, có đường biên giới chung dài hơn 2.300km, cùng uống chung dòng nước sông Mekong, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, quan hệ gắn kết anh em giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào đã được hình thành và hun đúc trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung son sắt, trong sáng, hiếm có trong quan hệ quốc tế.

60 năm trước, ngày 5/9/1962, Việt Nam và Lào đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong quan hệ hai nước.

Đây không chỉ là sự kiện lịch sử quan trọng, là bước ngoặt mới trong thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của lực lượng cách mạng hai Đảng, hai nước, mà còn khẳng định sự gắn bó vận mệnh của hai dân tộc trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong hơn một thập niên sau đó, quân đội và nhân dân hai nước tiếp tục dành cho nhau sự hỗ trợ và sẻ chia to lớn cả về tinh thần cũng như nhân lực và vật lực, trên tinh thần “Hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”.

Để hỗ trợ cách mạng Lào, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã cử hàng vạn cán bộ, chiến sĩ sang phối hợp, giúp đỡ và sát cánh chiến đấu cùng quân đội và nhân dân Lào.

Để giúp cho công cuộc thống nhất đất nước của Việt Nam, Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào cũng đã hết lòng hết sức hỗ trợ Việt Nam xây dựng “Đường Hồ Chí Minh huyền thoại”.

Sự giúp đỡ lẫn nhau vô cùng to lớn và cao đẹp đó đã trở thành sức mạnh to lớn, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của mỗi nước đi đến thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.

Sau khi hòa bình lập lại, quan hệ giữa Việt Nam và Lào bước sang trang sử mới, từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập, chủ quyền là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Xuất phát từ nhu cầu hợp tác sâu rộng và cấp thiết giữa hai nước trong tình hình mới, ngày 18/7/1977, Việt Nam và Lào đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, tạo cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc để hai nước không ngừng mở rộng quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện.

Đây cũng là tiền đề để hai nước ký kết hàng loạt văn kiện và thỏa thuận hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục-đào tạo…

Trong thời kỳ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hai Đảng, hai nước Việt Nam-Lào anh em tiếp tục kề vai, sát cánh trong công cuộc Đổi mới, cùng đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, an toàn và trật tự xã hội, mang lại cuộc sống ngày càng ấm no và bình yên cho nhân dân mỗi nước.

Nhìn lại lịch sử mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào qua hơn 9 thập niên kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đặc biệt là sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1962 và ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác năm 1977 đến nay, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về mối quan hệ mẫu mực, vô cùng trong sáng, hết mực thủy chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.

Tự hào khi chứng kiến bất chấp tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, thuận lợi và thách thức đan xen, tác động mạnh đến hai nước, nhưng quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Souphanouvong trực tiếp đặt nền móng, chẳng những không bị ảnh hưởng, mà còn ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đem lại hiệu quả và nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước trên mọi lĩnh vực, trở thành mối quan hệ đặc biệt, là di sản quý báu và là nhân tố quyết định đối với sự thành công trong công cuộc cách mạng ở mỗi nước.

Đặc biệt trong những năm gần đây, ngay cả khi đại dịch COVID- 19 đặt ra những thách thức và khó khăn chưa từng có, nhờ sự phối hợp linh hoạt và hình thức đa dạng, nhiều thỏa thuận quan trọng mang tính chiến lược, định hướng cho quan hệ hai nước duy trì được tiến độ và bảo đảm hiệu quả, giúp cho quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước tiếp tục phát triển vững chắc, ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả.

Quan hệ chính trị không ngừng được củng cố và nâng cao, từ "quan hệ hữu nghị truyền thống" thành "quan hệ hữu nghị vĩ đại" từ tháng 2/2019, ngày càng trở nên tin cậy, gắn bó, tiếp tục giúp định hướng cho các lĩnh vực hợp tác khác.

Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng-an ninh tiếp tục là trụ cột vững chắc trong quan hệ Việt Nam-Lào, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định, an ninh chính trị mỗi nước.

Hợp tác kinh tế trở thành nền tảng lâu dài trong quan hệ hai nước, ngày càng khởi sắc, mở rộng, đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Việt Nam tiếp tục là một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Lào...

Không chỉ hợp tác toàn diện và ngày càng đi vào chiều sâu trong khuôn khổ song phương, tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt giữa Việt Nam và Lào còn được khẳng định trên bình diện đa phương.

Hai nước chia sẻ nhiều điểm tương đồng, ủng hộ lẫn nhau và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, Tiểu vùng Mekong mở rộng...

Trong diễn văn đọc tại Thủ đô Hà Nội ngày 18/7/2022 nhân dịp kỷ niệm 45 năm hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn luôn ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện công cuộc đổi mới của Lào; đồng thời hết sức coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa hai Đảng, hai nước chúng ta. Chúng tôi luôn luôn mong muốn hợp tác, hỗ trợ đất nước Lào với tinh thần giúp bạn là giúp mình, xem đây là nhiệm vụ chiến lược; mong muốn cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào không ngừng bồi đắp tin cậy chính trị, đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng, tăng cường kết nối hai nền kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng hợp tác giáo dục đào tạo, cùng nhau xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập sâu rộng”.

Trong diễn văn đọc tại thủ đô Viêng Chăn cùng ngày nhân sự kiện này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith cũng nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào luôn kiên quyết và sẽ cùng với các đồng chí Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống làm cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào-Việt Nam mãi mãi trường tồn, tăng cường và nâng cấp sự hợp tác trong các lĩnh vực ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho người dân hai nước”.

Với những cam kết mạnh mẽ của lãnh đạo cấp cao nhất cùng quyết tâm của người dân hai nước gìn giữ và vun đắp cho quan hệ Việt-Lào, trên cơ sở của những kết quả đáng tự hào mà hai nước đã đạt được trong suốt những năm tháng qua, tin tưởng rằng, quan hệ hữu nghị vĩ đại Việt Nam-Lào trong tương lai sẽ không ngừng được củng cố, phát triển, năng động, hiệu quả và thiết thực hơn, ngày càng đáp ứng lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân hai nước và mãi mãi trường tồn với thời gian.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...