Thứ Năm, 13 tháng 8, 2020

CHIÊU TRÒ MỚI CỦA TRUNG QUỐC NHẰM ĐỊNH NGHĨA LẠI VÙNG BIỂN LIÊN QUAN ĐẾN HOÀNG SA

 


Một phiên bản sửa đổi quy định hàng hải của Trung Quốc định nghĩa lại vùng biển giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1-8.

Đây là một chiêu trò mới của Trung Quốc, bất chấp những quy định của luật pháp quốc tế, nhằm mục đích siết chặt thêm quyền kiểm soát trên Biển Đông.

Bình mới rượu cũ

Theo tin từ tờ South China Morning Post, những thuật ngữ mới mà Trung Quốc dùng trong phiên bản sửa đổi quy định hàng hải có từ năm 1974 là "gần bờ" thay vì "xa bờ" (tiếng Anh là "coastal" thay vì "offshore"). 

Bản sửa đổi mang tên chính thức là “Các quy tắc kỹ thuật để kiểm tra tàu biển trong các tuyến nội địa”. Từ "nội địa" được dùng ở đây cũng gây nhiều chú ý bởi khu vực hàng hải này được Trung Quốc tự đặt ra từ năm 1974  với gọi là “Khu vực hàng hải Hải Nam - Tây Sa” (tên Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam). 

Phạm vi giới hạn vùng biển của khu vực này từ 2 điểm trên đảo Hải Nam đến 3 điểm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Theo giới quan sát, ý đồ của Trung Quốc là dùng luật của nước mình để áp đặt lên các vùng biển ở Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế. 

Động thái này phản ánh ý đồ "biến vùng không thể tranh chấp (như quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) thành vùng có tranh chấp" rồi “đưa càng nhiều vùng tranh chấp càng tốt vào trong quyền kiểm soát” của Trung Quốc. 

Thực chất là Trung Quốc muốn tạo cơ sở pháp lý để tăng cường quản lý vùng nước thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và vùng nước nằm giữa quần đảo Hoàng Sa và đảo Hải Nam theo "quy chế quản lý vùng ven biển". Từ đó, Bắc Kinh sẽ củng cố yêu sách Tứ Sa bằng cách nội luật hóa.

Động thái của Trung Quốc không đơn thuần là nhằm đẩy mạnh giao thông liên lạc và du lịch giữa Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, mà còn mang ý nghĩa rộng hơn là kể từ nay, tàu biển Trung Quốc có thể thoải mái đi đến Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam vì vùng biển đó chỉ là vùng “ven bờ”. 

Đây chính là thủ đoạn để gia tăng quyền khống chế Biển Đông", hãng RFI bình luận. Trong khi đó, Zhang Jie, một chuyên gia về Biển Đông thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cũng thừa nhận, động thái này được thiết kế để tăng cường quản lý Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam bằng luật pháp trong nước của Trung Quốc. 

Đồng quan điểm này, TS Swee Lean Collin Koh, chuyên gia quốc phòng thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore), nhận định, hành động này không gây bất ngờ, đặc biệt sau khi Bắc Kinh thông báo lập quận hành chính đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Nhưng nó cho thấy sự bất chấp tất cả của Bắc Kinh để phục vụ cho mưu đồ độc chiếm Biển Đông.

Những suy tính đầy tham vọng

Một số nhà phân tích còn thẳng thắn chỉ rõ rằng, đây là bước phát triển mới của quyết định trái pháp luật và đầy tranh cãi của Trung Quốc hồi tháng 4 về việc thành lập hai quận đảo riêng rẽ quản lý Hoàng Sa và Trường Sa  thuộc chủ quyền của Việt Nam. 

Trong bài phân tích hồi tháng 5, cơ quan Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) tại Washington từng cảnh báo, quyết định này của Trung Quốc sẽ cho phép Bắc Kinh cải thiện việc quản lý hành chính và thúc đẩy các chính sách mới của nước này về Biển Đông. 

Vì thế, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, cộng đồng quốc tế cần cực lực lên án, chỉ trích và bày tỏ lập trường cứng rắn hơn nữa với Bắc Kinh.

Theo tin từ tờ The Drive, Trung Quốc đang không ngần ngại thực hiện bất cứ biện pháp gì liên quan đến vấn đề Biển Đông. Vì thế, chỉ một ngày sau khi thực thi phiên bản sửa đổi quy định hàng hải, Bắc Kinh đã cho phép các máy báy chiến đấu Su-30MKK Flanker lượn đi lượn lại trên bầu trời Biển Đông. 

Chưa hết, một cuộc tập trận mô phỏng quá trình cất, hạ cánh vào ban đêm, những cuộc tấn công tầm xa và tấn công các mục tiêu trên biển... cũng nhanh chóng được thực hiện như lý giải của phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Trung Quốc là để tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu. 

Báo chí Trung Quốc góp phần tuyên truyền rộng rãi bằng cách liên tục cho đăng tải những hình ảnh với lời giới thiệu về sức mạnh của Không quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - một cách trả đũa khôn khéo sau loạt cuộc tập trận hải quân ở Biển Đông của Mỹ và các đồng minh, bao gồm cả Australia. 

Thêm vào đó, hành động trên thực địa của Trung Quốc, như một nhà bình luận nhận xét, là cách để Bắc Kinh "dằn mặt" các quốc gia khác, đặc biệt là Canberra vì cuộc đấu khẩu trên Twitter giữa hai Đại sứ Australia và Đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ về các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông cũng như tuyên bố của Australia về việc không công nhận bất kỳ một yêu sách lãnh thổ, lãnh hải nào của Trung Quốc trên Biển Đông. 

Gần đây, Australia đã tiếp nối hoạt động của các quốc gia khác khi đệ trình một Công hàm ngoại giao lên Liên hợp quốc (LHQ), nói rằng các tuyên bố này là "không có cơ sở pháp lý".

Và nguy cơ trận chiến pháp lý mới

Đánh giá về những diễn biến hiện nay trên Biển Đông, TS Gerhar Will thuộc Viện Khoa học và Chính trị Đức (SWP) cho rằng, sau Tuyên bố chung của ASEAN về vấn đề Biển Đông hồi tháng 7, "Trung Quốc đang cư xử theo kiểu nước lớn và sử dụng quyền lực chính trị một cách liều lĩnh nhằm đạt được vị trí thống trị tại khu vực và trên toàn thế giới". 

Thực tế là có vài quốc gia đã lo sợ khi bị Trung Quốc dọa nạt và chủ trương hòa hiếu và im lặng trước cách hành xử phi pháp của Trung Quốc. "Nhưng họ càng nhún thì Trung Quốc càng lấn lướt và hành động quá mức này đã phản tác dụng, khiến Trung Quốc bị cô lập và giảm sút uy tín. 

Các lý lẽ mà nước này đưa ra trong vấn đề Biển Đông, nhất là yêu sách "đường lưỡi bò" và "Tứ sa" ngày càng bị phản bác nhiều hơn và lộ rõ nhưng sơ hở về việc thiếu tính pháp lý", bài báo trên hãng CNN có đoạn viết.

Thêm vào đó, như nhận định của TS Gerhard Will, việc hàng loạt quốc gia từ Malaysia đến Philippines, Việt Nam, Indonesia, Mỹ, Australia... đệ trình Công hàm ngoại giao lên LHQ về vấn đề Biển Đông cho thấy, quan hệ ngoại giao kiểu mà Trung Quốc mong muốn không còn phù hợp với tình hình hiện tại. 

Đặc biệt, sự cứng rắn của Mỹ, nhất là sau tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo và cả Phó Ngoại trưởng chuyên trách Đông Á về việc Washington có thể ứng phó bằng các biện pháp cấm vận đối với những quan chức và doanh nghiệp Trung Quốc dính líu đến hành động cưỡng ép ở Biển Đông, Bắc Kinh cần phải tính kỹ hơn về những cách thức "tháo các quả bom tức giận" này. 

Được biết, hồi giữa tháng 7, Ngoại trưởng Mike Pompeo khẳng định, các yêu sách của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi tại hầu hết Biển Đông cũng như chiến dịch bắt nạt của nước này để kiểm soát các nguồn tài nguyên đó là hoàn toàn phi pháp. 

Ông Mike Pompeo còn cảnh báo những lợi ích chung ở Biển Đông đang “gặp phải sự sự đe dọa chưa từng thấy” từ Trung Quốc và thế giới sẽ không cho phép Bắc Kinh ứng xử Biển Đông như đế chế hàng hải của riêng mình. 

"Chúng tôi ủng hộ cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ tự do trên biển và tôn trọng chủ quyền, và bác bỏ bất cứ đòi hỏi nào nhằm áp đặt “chân lý thuộc về kẻ mạnh” ở Biển Đông hoặc ở khu vực rộng lớn hơn”, Ngoại trưởng Mike Pompeo nhấn mạnh.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Phan-loai-lai-khu-vuc-hang-hai-chieu-tro-moi-cua-Trung-Quoc-de-tang-cuong-kiem-soat-Bien-Dong-606191/

TÁI DIỄN THỦ ĐOẠN PHAO TIN COVID-19 ĐỂ CHỐNG PHÁ NHÀ NƯỚC

 


Trong khi các loại thuốc đặc trị COVID-19 chưa ra đời, các loại vaccin phòng ngừa vẫn đang được các quốc gia nỗ lực nghiên cứu, trong đó có Việt Nam thì làn sóng COVID-19 thứ hai đang diễn ra nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới với sự bùng phát mạnh, lan tỏa nhanh.

Một số quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ... các ca nhiễm mới bùng lên trong cộng đồng, số ca tử vong tăng lên và gây nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, số ca nhiễm gia tăng kể từ cuối tháng 7 và môt số ca đã tử vong. Đó cũng là lúc Việt Nam bước vào cuộc chiến chống COVID-19 mới. 

Tuy nhiên, các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng “nước đục thả câu”, tìm cách vu khống tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, lấy cớ miệt thị chính quyền, đả phá chế độ. Các đối tượng sử dụng chiêu bài xuyên tạc thông tin về tình hình dịch bệnh, hướng lái dư luận theo mưu đồ mà chúng đã sắp đặt. Hoạt động của số này vẫn thông qua hình thức đăng tải các tin, bài viết, bình luận, chia sẻ, tán phát các video, tài liệu... trên Internet.

Lợi dụng “khoảng trống thông tin”

Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, các kênh truyền thông, báo chí tiếp tục khẳng định vai trò tuyên truyền, cung cấp thông tin cùng nhân dân cả nước ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự phức tạp của tình hình tại các “ổ dịch” lớn, cùng với nhiều yếu tố mang tính chủ quan, khách quan dẫn đến các nguồn thông tin còn có độ trễ nhất định. Đó là lúc các đối tượng phản động, chống đối chớp thời cơ, tuyên truyền thông tin sai sự thật, công kích công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong phòng chống dịch bệnh.

Lợi dụng “khoảng trống thông tin” khi các kênh truyền thông chính thức nhà nước chưa đưa tin, các đối tượng chống đối đã triệt để tận dụng bằng những thông tin sai sự thật, lồng ghép những ý đồ, bịa đặt về tình hình dịch bệnh diễn ra tại Việt Nam nhằm gây nên sự hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Với sự bịa đặt, gán ghép thông tin, chúng đã đưa ra các kịch bản làm cho cộng đồng mạng mất phương hướng, thậm chí có những người còn a dua, phụ họa thêm cho các hành vi sai trái đó.

Thủ đoạn gán ghép, quy chụp

Vẫn với phương thức “bình cũ, rượu mới”, số đối tượng phản động, chống đối đưa tin về tình hình dịch bệnh theo lối nửa tin, nửa ngờ để phục vụ âm mưu, ý đồ chống phá Nhà nước. Một số website, fanpage facebook, blogspot của tổ chức khủng bố “Việt Tân”; một số nhóm chống đối “Nhật ký yêu nước”; “Thanh niên Công giáo”; “Dân luận”... đăng tải thông tin bịa đặt về dịch bệnh ở Việt Nam. Trang “Việt Tân” đăng tải thông tin cho rằng người Trung Quốc liên tục vượt biên trái phép sang Việt Nam, đã lái vấn đề theo hướng: “Dư luận đặt nghi vấn, sự việc người Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam bất hợp pháp là việc rất nghiêm trọng và đã bắt đầu xảy ra từ đầu năm, có nghĩa là trong thời điểm đại dịch Vũ Hán đang bùng phát tại Trung Quốc mà cho đến giờ này mới báo cáo... 

Cho đến giờ này, chưa thấy nhà nước CSVN có những biện pháp cụ thể nào rõ ràng để ngăn chặn người Trung Quốc trốn sang Việt Nam”. Đó là cách tổ chức khủng bố “Việt Tân” hướng lái nhằm vu cáo Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát người nhập cảnh, kiểm soát tình hình dịch COVID-19. Thực tế, thời gian qua, tất cả các lực lượng chức năng đã nỗ lực để kiểm soát các đường mòn, lối mở, kiểm soát các hoạt động xuất, nhập cảnh, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn, xử lý các hành vi xuất, nhập cảnh trái phép, tiến hành phân luồng, cách ly người nhập cảnh 14 ngày theo quy định. Việc một số đối tượng, nhóm người nhập cảnh trái phép, cơ quan chức năng đã rà soát, xử lý và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch chứ không phải phớt lờ, bỏ mặc như thông tin các đối tượng  tung ra.

Trang fanpage “Thanh niên Công giáo” (giả mạo đại diện Người Công giáo) đăng tải thông tin sai sự thật, công kích, hạ bệ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch. Các đối tượng phản động, chống đối sử dụng các trang web có máy chủ đặt ở nước ngoài; khai thác các tính năng bình luận, chia sẻ, livestream; thăm dò ý kiến dư luận qua mạng xã hội; tạo các bài viết mang tính giật gân, gây sốc để thu hút sự chú ý, quan tâm của dư luận. Bằng nhiều cách, các đối tượng lợi dụng tình hình dịch bệnh xảy ra tại Việt Nam để vu cáo với các luận điệu: Việt Nam thiếu minh bạch trong tình hình dịch bệnh; che giấu số lượng ca nhiễm bệnh, tử vong; lan truyền các tài liệu sai sự thật về dịch bệnh COVID-19...

Sau khi xảy ra một số ca tử vong có liên quan COVID-19, nhiều đối tượng đã so sánh với ca bệnh 91 (bệnh nhân người Anh, đã được chữa khỏi), từ đó đặt câu hỏi về “mức độ quan tâm” chữa trị giữa người trong nước và nước ngoài. Mục đích hòng đánh lận sự thật, cho rằng ca bệnh khó như 91 còn chữa được, tại sao lại để một số ca bệnh trong nước tử vong. Đây là kiểu so sánh rất khập khiễng, đánh vào tâm lý người đọc, nếu thiếu tỉnh táo sẽ bị dẫn dắt theo ý đồ chống phá của kẻ xấu.

Một mặt, xung quanh vấn đề này, nhiều đối tượng cơ hội chính trị, các đối tượng giả mác dân chủ, những thành phần định kiến, chống đối chế độ đã bộc lộ rõ sự ích kỷ, thù hằn cá nhân với xã hội đã khiến họ “hả hê” khi số liệu thống kê về ca tử vong liên quan COVID-19 tại Việt Nam tăng lên. Điều đó đã chứng tỏ họ chờ đợi để được đếm từng con số người tử vong, lấy làm vui khi các ca mắc bệnh tăng nhanh chóng, từ đó xuyên tạc, chế giễu, mỉa mai chế độ. Nổi lên trong số đó là đối tượng H.V.H (H là đối tượng chống đối cực đoan và đã từng bị TAND TP. Hồ Chí Minh tuyên phạt 4 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”), đã sử dụng tài khoản facebook cá nhân để tán phát những nội dung xuyên tạc, gây sự hoài nghi về những nỗ lực của đội ngũ y, bác sỹ trong việc cứu chữa các bệnh nhân mắc COVID-19. H.V.H đánh lận vấn đề: “ca phi công người Anh còn đòi ghép phổi vì phổi đông đặc, nhưng đùng 1 cái bệnh nhân này ra viện và về Anh không kèn, không trống. Rồi bệnh nhân già Thụy Sỹ cũng ung thư sao điều trị hết và về nước an toàn?”. Nhằm đánh lạc hướng dư luận, thu hút sự chú ý, H đã miệt thị rằng: “Với tình hình này của thông tin về SARS CoV-2 thì tôi cũng phải chào thua về mọi thông tin từ Bộ Y tế Việt Nam”.

Thực tế, việc so sánh như vậy là kiểu quy chụp, đánh lận rất lố bịch. Ngay cả những người không giỏi về y học cũng hiểu rằng, phi công người Anh mới chỉ mới 43 tuổi, bệnh lý nền là béo phì. Là phi công nên trước đó được rèn luyện sức chịu đựng dẻo dai, thể trạng tốt hơn rất nhiều, do đó khả năng hồi phục cao hơn. Trong khi đó, các bệnh nhân tử vong vừa qua đều cao tuổi, bệnh lý nền là đái tháo đường, suy thận giai đoạn cuối, tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy tim giai đoạn cuối, nhồi máu cơ tim diễn tiến nặng…

Liên quan đến các ca tử vong, PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, nhiều bệnh nhân COVID-19 diễn biến rất nặng, có nhiều bệnh mạn tính, tuổi cao đặc biệt là có thời gian nằm điều trị ở các khoa Hồi sức cấp cứu, lọc máu lâu ngày. “Các bệnh nhân này đã suy các cơ quan quan nội tạng trong quá trình điều trị trước đây. Hệ thống miễn dịch, sức đề kháng suy yếu. 

Có những bệnh nhân suy thận mạn chạy thận chu kỳ trên 10 năm; nhiều bệnh nhân suy tim, bệnh nhân ung thư; nhiều bệnh nhân cao tuổi, có bệnh nhân đã 100 tuổi... Nay bệnh nhân bị mắc thêm COVID-19 làm cho cơ hội tiến triển của các bệnh mạn tính tăng lên, trở thành những bệnh nhân nhiễm COVID-19 nặng và rất nặng” - PGS Khuê phân tích. Theo đó, có thể thấy rằng các bệnh nhân mắc COVID-19 tử vong là do các biến chứng trên nền bệnh lý rất nặng, hiểm nghèo.  

Xét dưới góc độ chuyên môn về y học, những đối tượng như H.V.H không phải là không hiểu vấn đề. Tuy nhiên, họ đã cố tình lập lờ đánh lận, điều này đã chứng tỏ bản chất chống phá chế độ, cố tình suy diễn, đánh lạc hướng dư luận. 

Với những ai nếu cảm thấy Việt Nam chống dịch COVID-19 chưa đủ tốt thì hãy xung phong tới tuyến đầu như Đà Nẵng để được chứng kiến những nhọc nhằn, vất vả của đội ngũ y, bác sỹ, đã không quản hiểm nguy, tận tụy cứu chữa các bệnh nhân; những cố gắng phòng dịch của các chiến sĩ Công an, Quân đội... Hãy thể hiện bằng hành động của mình vào công cuộc chống dịch. Đừng vì những đồng tiền nhơ bẩn mà bán rẻ lương tâm, trở thành các “anh hùng bàn phím”, lợi dụng tình hình dịch bệnh bồi bút xuyên tạc, quy chụp, tư duy cực đoan, miệt thị chế độ. 

Mỗi người hãy thể hiện trách nhiệm của mình bằng việc có ý thức khi tiếp nhận thông tin, sử dụng mạng xã hội để không lan truyền các thông tin sai trái làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch COVID-19. Việc tham gia vào môi trường mạng xã hội không nên biến mình thành “con rối” để các đối tượng thù địch phản động điều khiển, hướng lái.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Tai-dien-thu-doan-phao-tin-COVID-19-de-chong-pha-Nha-nuoc-606611/

NHỐT QUYỀN LỰC TRONG “LỒNG CƠ CHẾ”

 


LTS - Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng cũng gặp phải những lực cản không nhỏ. Trong đó, việc lợi dụng quyền lực của một số tổ chức, cá nhân đã làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cản trở không nhỏ đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay không chỉ là vấn đề cơ bản, chiến lược, mà còn mang tính cấp thiết, nhằm triệt tiêu những hệ lụy xấu do sự tha hóa quyền lực mang lại. Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết: Nhốt quyền lực trong “lồng cơ chế”, của Đại tá, ThS. Ngô Đình Phiếm và Đại tá, ThS. Nguyễn Minh Sơn.

I. Quyền lực và sự tha hóa quyền lực

Nguồn gốc của quyền lực

Quyền lực xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người, là: “Cái sức có thể dùng để bắt người ta theo mình”1. Trong xã hội, quyền lực là quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy. Thực chất quyền lực là năng lực, khả năng của một tổ chức hay cá nhân, tác động đến những cá nhân, tổ chức khác phải thực hiện ý chí của mình thông qua các phương tiện, phương thức nào đó. Có nhiều loại quyền lực: chính trị, lập pháp, hành chính, tư pháp, kinh tế, thông tin,… trong đó, quyền lực chính trị là quan trọng nhất, bao trùm, chi phối đến mọi hoạt động của đời sống xã hội.

Quyền lực không phải ngẫu nhiên mà có, muốn có là được, mà do tranh đấu mới có được. Trong quá trình vận động, phát triển, từ khi có giai cấp, xã hội loài người được phân chia thành giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, quyền lực được tập trung ở một nhóm người hay thậm chí một người. Hoạt động của quyền lực được biểu hiện thông qua việc định hướng, quản lý, điều hành xã hội, bảo vệ lợi ích của tầng lớp chủ nô, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản. Nhà nước của giai cấp thống trị (nhà nước nô lệ, nhà nước phong kiến, hay nhà nước tư sản) dẫu dưới bất cứ hình thức nào, về bản chất là thực thi quyền lực do giai cấp thống trị ủy quyền và tập trung vào “thiểu số của thiểu số”, chứ không đại diện cho đa số. Dưới chế độ tư hữu, quyền lực của nhân dân bị tước đoạt, tình trạng lạm quyền, lộng quyền xảy ra thường xuyên.

Khi giai cấp công nhân ra đời, lập ra chính đảng Mác xít chân chính, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, lãnh đạo nhân dân đánh đổ quyền lực của giai cấp tư sản thống trị. Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công ở một loạt quốc gia, thì quyền lực xã hội được trao về cho nhân dân. Nhân dân trao cho chính đảng của giai cấp công nhân (với tên gọi khác nhau, như: đảng cộng sản, đảng công nhân, đảng lao động,…) quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội; thành lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa và ủy quyền cho Nhà nước thay mặt nhân dân để quản lý, điều hành xã hội; mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quyền lực ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội có 03 thành tố: Đảng, Nhà nước, Nhân dân; trong đó, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước giữ vai trò quản lý, Nhân dân giữ vai trò làm chủ. Đây là vấn đề nguyên tắc. Việc tổ chức như thế nào để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mỗi nước.

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích tranh đấu để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, cho dân tộc Việt Nam và khát vọng độc lập, tự do, hòa bình, phát triển của nhân loại. Với cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng khoa học, hình thức đấu tranh phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng, ủy thác quyền lãnh đạo nhân dân đánh đổ ách thống trị của bọn phong kiến và thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ khi trở thành đảng cầm quyền (năm 1945), để thực thi quyền lực, đảm bảo quyền lực thuộc về Nhân dân, Đảng ta đã thiết kế, tổ chức thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Đây là sự sáng tạo của Đảng, phù hợp với bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vừa khẳng định vai trò, vừa chỉ ra tính biện chứng khách quan của các thành tố nêu trên. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa hay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì đều là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”2. Để quyền lực của Nhân dân được biểu hiện trong thực tiễn cuộc sống, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tổ chức xây dựng, ban hành Hiến pháp, pháp luật; tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát và các bộ, ngành chức năng ở Trung ương, địa phương một cách khoa học, phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước và thông lệ quốc tế. Hiến pháp Việt Nam năm 1946 khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 nhấn mạnh: (1). Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (2). Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, v.v. Trên thực tế, quyền lực của Nhân dân ta được thể hiện trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mỗi người dân Việt Nam trực tiếp thể hiện quyền lực thông qua việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân về: ứng cử, bầu cử; sống, tự do, dân chủ, học hành, đi lại, tổ chức giám sát quyền lực đã được trao cho chính quyền, v.v. Các quyền, như: quản lý, điều hành, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc,… thì Nhân dân trao cho các cơ quan, tổ chức do Nhân dân lập nên, bầu lên, thậm chí trao quyền cho một nhóm, cá nhân đại diện để thực hiện. Các cơ quan, tổ chức, nhóm người, cá nhân được Nhân dân trao quyền lực phải thực hiện đúng, có hiệu quả những chức trách, nhiệm vụ được giao theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, đất nước. Khi nắm giữ quyền lực trong tay, nếu thiếu tu dưỡng, rèn luyện sẽ dễ dẫn đến tha hóa quyền lực thì hậu quả sẽ khôn lường.

Nguy hại của sự tha hóa quyền lực

Có quyền lực đã khó, kiểm soát được quyền lực càng khó hơn. Quyền lực không được giám sát là quyền lực sẽ bị tha hóa. Đó là tất yếu và không có ngoại lệ, thời nào cũng vậy. Thực tế cho thấy, nếu quyền lực bị biến thành “của riêng”, là tha hóa quyền lực. Tha hóa quyền lực, là việc thực hiện không đúng, không đầy đủ, không hết hoặc vượt quá quyền lực được trao trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn. Nó thường biểu hiện ở việc: lạm quyền (làm những việc vượt quá quyền hạn của mình); lộng quyền (làm việc ngang ngược vượt quá quyền hạn của mình, lấn cả quyền hạn của người cấp trên); lợi dụng quyền lực (là dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để mưu lợi riêng không chính đáng); không thực hiện hay thực hiện không hết quyền lực được trao. Thực tiễn cho thấy, xã hội ngày càng văn minh thì sự tha hóa quyền lực càng tinh vi, làm biến tướng bản chất, mục đích của quyền lực, trở thành công cụ để phục vụ cá nhân hay “nhóm lợi ích” nào đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa quyền lực, nhưng trực tiếp là từ chủ nghĩa cá nhân, lợi ích của cá nhân, gia đình và “nhóm lợi ích”. Và những người nắm quyền bị tha hóa, bị trượt dài trước hết là do bản thân họ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bị cám dỗ, chèo kéo, mua chuộc, thậm chí bị ép buộc,… luôn đặt lợi ích của mình lên trên hết, làm cái gì cũng tính xem mình có lợi ích gì trong đó không?

Quá trình tha hóa quyền lực có thể biến một người tốt thành kẻ xấu, từ người khiêm tốn thành kẻ ngông cuồng, từ người thanh liêm thành kẻ tham lam, xa xỉ, v.v. Nhìn vào các vụ án và số cán bộ các cấp bị kỷ luật thời gian qua, có thể thấy rõ không ít trong số đó là những người có quá trình phấn đấu với nhiều thành tích được ghi nhận, có người được phong danh hiệu anh hùng, nhận nhiều khen thưởng, trải nghiệm qua nhiều chức vụ, có người đi lên từ gian khổ, hy sinh, v.v. Vậy mà khi được trao quyền, họ đã để cho bàn tay nhúng chàm, sai lầm và tội lỗi, thậm chí mặc nhiên thực hiện các hành vi sai phạm, tội phạm để phục vụ cho lợi ích của bản thân, bè nhóm mà không chút kiêng dè. Bởi, cả quyền lực và lợi ích đều có sức mê hoặc, nó làm cho người ta mờ mắt, bất chấp những điều cấm kỵ, chà đạp lên luật pháp, coi thường dư luận xã hội. Khi đó quyền lực được trao bị biến thành phương tiện để họ thực hiện hành vi vi phạm, tội phạm. Xin nêu một ví dụ điển hình nhất: vụ án “nhận hối lộ” xảy ra tại Bộ Thông tin và Truyền thông đã được tòa án xét xử công khai tháng 12/2019. Theo dõi diễn biến phiên xét xử, nhiều người bị ám ảnh bởi ba chữ: “Cậu ký đi”. Trên cương vị là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông tại thời điểm thực hiện Dự án mua AVG, ông Nguyễn Bắc Son bị các cơ quan điều tra, truy tố xác định có vai trò “chủ mưu”. Khai tại tòa, các bị cáo Trương Minh Tuấn, Lê Nam Trà, Phạm Đình Trọng đều khẳng định ông Son trực tiếp chỉ đạo, buộc họ phải ký vào các văn bản nhằm thực hiện bằng được thương vụ này. “Cậu ký đi”! Đó là mệnh lệnh của thủ trưởng, nó có tính áp chế quyền lực. Về lý thuyết, các thuộc cấp có thể từ chối ký vào văn bản nếu nhận thấy sự sai trái và không phù hợp pháp luật. Nhưng trong thực tế, thử hỏi mấy ai dám trái ý người đứng đầu, hơn nữa khi người đứng đầu ấy là bộ trưởng? Đây là vụ án cho thấy, hậu quả khôn lường của sự tha hóa quyền lực, bởi nó “dắt cả dây” vào vòng tội lỗi, đồng thời với sự “đục khoét” tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Như vậy có thể thấy sự tha hóa quyền lực dẫn đến hậu quả không chỉ gây hại cho chính người giữ quyền mà còn gây hại cho người thân, đồng chí, đồng đội, cho xã hội. Và hệ quả là vô cùng nguy hiểm nếu người đó giữ trọng trách cao trong Đảng, Nhà nước - nó là một trong các nguy cơ đối với sự an nguy của chế độ.

ĐÌNH PHIẾM - MINH SƠN
_______________

1 - Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, H. 2005, tr. 1626.

2 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 698.

(Số sau: II. Quan điểm của Đảng ta về kiểm soát quyền lực và những hiệu ứng tích cực)

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/nhot-quyen-luc-trong-long-co-che/15733.html

QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG Ở VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI CHUẨN MỰC QUỐC TẾ


Hiện nay, có một số người lợi dụng không gian mạng, thường xuyên phát tán thông tin sai trái, nhằm chống phá Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khi bị các cơ quan chức năng nhắc nhở, bắt giữ, xử lý theo quy định của pháp luật, lập tức họ lu loa rằng, Luật An ninh mạng của Việt Nam hà khắc, bóp chết tự do, dân chủ. Nhưng họ đã nhầm! Quyền con người trên không gian mạng ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.

1. Không gian mạng

Hiện nay, có nhiều quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về không gian mạng hay còn gọi là không gian ảo. Đây là môi trường nhân tạo, con người không trực tiếp gặp nhau, nhưng lại có thể trao đổi thông tin, liên lạc với nhau qua một hệ thống mạng, được kết nối toàn cầu - mạng toàn cầu, trên cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các vùng, khu vực và toàn cầu. Khoản 3, Điều 1, Luật An ninh mạng năm 2018 của nước ta xác định: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”.

Nghiên cứu về không gian mạng và môi trường mạng ở nước ta cho thấy, hai quan niệm này rất gần nhau. Khoản 3, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quan niệm: “Môi trường mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua cơ sở hạ tầng thông tin”. Mà “Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu” (Khoản 4, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin).

Như vậy, không gian mạng hay môi trường mạng, cách nói khác nhau, nhưng về bản chất không khác nhau vì đều là không gian ảo, nơi con người có thể liên lạc, kết nối, trao đổi, giao tiếp với nhau. Sự phát triển không gian mạng (môi trường mạng) phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng thông tin ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung, không gian mạng rất rộng lớn, hệ thống các mạng đang được sử dụng bao gồm: trình duyệt web (Google, Chrome, Mozilla Firefox , Opera, Safari...); trang web tin tức (VnExpress, Tin tức, Zing news, VTC News...); mạng xã hội (Facebook, Twitter, YuMe, Instagram, Zing me, Youtube, Skype, WeChat, Google Plus, Go.vn...); tìm kiếm, tra cứu (Google map, Bing, Google Docs...); tiện ích (chuyển tiền, việc làm, email, thiệp điện tử...); trang mạng mua bán, kinh doanh, học tập, âm nhạc, giải trí1.

2. Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và việc hạn chế quyền của cá nhân, công dân trên không gian mạng

Quyền của công dân trên không gian mạng. Môi trường mạng là không gian rộng lớn, cá nhân, công dân và bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng đều có thể tự do bày tỏ quan điểm chính kiến, kết nối trao đổi với nhau. Đó là quyền tự do của cá nhân: quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin (tự do tìm kiếm, tiếp nhận và trao đổi thông tin) trên môi trường mạng. Đây là quyền tự do cơ bản của công dân được pháp luật quốc tế, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ.

Điều 11, Luật Báo chí năm 2016 quy định quyền tự do ngôn luận trên báo chí (báo giấy, báo hình, báo nói, báo chí điện tử - không gian mạng). Các quyền này của công dân bao gồm: (1). Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; (2). Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (3). Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.

Tương tự quyền tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến của công dân trên không gian mạng, công dân có quyền tiếp cận thông tin từ chính môi trường mạng. Luật Tiếp cận thông tin quy định, quyền của công dân được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin. Luật An ninh mạng quy định một trong những nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng là “bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Khoản 3, Điều 4, Luật An ninh mạng).

Như vậy, với hành lang pháp lý hiện nay, cá nhân, công dân có quyền tự do được sử dụng không gian mạng vì lợi ích cá nhân; có quyền được bảo vệ các quyền và tự do của mình từ phía các cơ quan công quyền và chủ động tự thực hiện (thực hành) quyền tự do cá nhân trên không gian mạng.

Nghĩa vụ, trách nhiệm công dân trên không gian mạng. Phù hợp với chuẩn mực quốc tế, mỗi cá nhân, công dân trong khi sử dụng, thực hiện các quyền và tự do của mình thì phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội, đối với quốc gia, dân tộc mà mình đang sống. Nghĩa là khi sử dụng, thực hiện quyền và tự do cá nhân không được làm ảnh hưởng hay xâm phạm an ninh quốc gia; trật tự công cộng, đạo đức xã hội; quyền và tự do của người khác. Vấn đề này theo chuẩn mực quốc tế được gọi là hạn chế quyền con người để bảo đảm vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích cộng đồng trong một xã hội dân chủ; vì các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, vì quyền và tự do của người khác.

Cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế thực hiện quyền và tự do cá nhân, Luật An ninh mạng và các luật khác có liên quan đã quy định bằng các hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, Luật An ninh mạng quy định 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8) bao gồm:

Thứ nhất: - Sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, gồm: (1). Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 Luật An ninh mạng) và hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng (quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật An ninh mạng); (2). Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; (3). Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán; (4). Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; (5). Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (6). Hành vi khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;

- Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

- Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;

- Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

- Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;

- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Thứ hai: Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Thứ ba: Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

Thứ tư: Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

Thứ năm: Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

Thứ sáu: Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.

3. Luật pháp quốc tế về nhân quyền

Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 và hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966 (Công ước về quyền dân sự và chính trị - ICCPR; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa - ICESCR), cùng các nghị định thư bổ sung tạo thành Bộ luật quốc tế về quyền con người - là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người hiện nay. Điều 2 của bản Tuyên ngôn năm 1948 quy định quyền con người: “không phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội…”2. Đồng thời, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân: “1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Trong khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”3.

Từ nguyên tắc quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm nêu trong bản Tuyên ngôn, hai Công ước năm 1966 đã phát triển và cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể theo hướng xác định những quyền nào phải được thực hiện ngay. Đó là các quyền đòi hỏi nhà nư­ớc phải bảo đảm thực hiện ngay lập tức. Vì đấy là ranh giới, là “ngư­ỡng” của sự có hay không có quyền con ng­ười - quyền tuyệt đối. Quyền cần được thực hiện dần dần, từng bước, là các quyền đòi hỏi nhà nước từng bước có chính sách cụ thể để nâng cao đời sống, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân - quyền tương đối và các quyền có thể bị hạn chế - hạn chế quyền.

Nguyên tắc hạn chế quyền được quy định trong cả hai Công ước năm 1966 như sau:

Điều 4, ICECSR quy định nguyên tắc các quốc gia thành viên có thể đặt ra những giới hạn trong việc thực hiện quyền con người, với các điều kiện: Những hạn chế đó phải được quy định trong luật; không được trái với bản chất của các quyền có liên quan và vì lý do duy nhất nhằm thúc đẩy lợi ích chung trong một xã hội dân chủ. ICCPR quy định cụ thể các quyền con người có thể bị hạn chế và các lý do cho việc có thể áp đặt các hạn chế bao gồm: An ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng; Quyền và tự do của người khác.

Trên cơ sở các nguyên tắc chung như trên, cả hai Công ước quy định cụ thể một số quyền bị hạn chế; trong đó, có quyền tự do ngôn luận (Khoản 2, 3, Điều 19 ICCPR) quy định: “2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ.

3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:

a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,

b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.

4. Sự phù hợp giữa quyền con người trên không gian mạng ở Việt Nam với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền

Viện dẫn nội dung cơ bản trên cho thấy, giữa luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế về quyền con người cho thấy, cả hai đều có những điều khoản quy định quyền con người gồm: quyền tuyệt đối, quyền tương đối và quyền bị hạn chế. Những quyền bị hạn chế của Việt Nam được luật pháp quy định đều vì: An ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng; Quyền và tự do của người khác nên phù hợp với luật pháp quốc tế về nhân quyền.

Vậy nên, không có bất cứ lý do gì, những kẻ vi phạm pháp luật Việt Nam trên không gian mạng lại lu loa, lớn tiếng rằng, Việt Nam vi phạm tự do ngôn luận, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “bóp chết” những tiếng nói “dân chủ” hay cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Thực chất, đây là những người vi phạm pháp luật Việt Nam nên họ phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật. Trong một xã hội dân chủ thì pháp luật phải được thượng tôn, điều đó đúng với mọi quốc gia dân chủ, không riêng gì Việt Nam.

_____________

1 - http://tuyengiao.vn -  Nâng cao ý thức làm chủ và bảo vệ không gian mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2 - Viện nghiên cứu quyền con người - Một số văn kiện của Liên hợp quốc về quyền con người trong quản lý tư pháp, Nxb CAND, H. 2009, tr. 14.

3 - Sđd, tr. 14.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/quyen-con-nguoi-tren-khong-gian-mang-o-viet-nam-phu-hop-voi-chuan-muc-quoc-te/15853.html

“TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” - HỆ QUẢ CỦA BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ KHÔNG VỮNG VÀNG

 


Thực tế đã chứng minh bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của mỗi Đảng nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ PHẢI THỰC SỰ VỮNG VÀNG

Theo Đại Từ điển tiếng Việt, bản lĩnh là khả năng và ý chí kiên định của con người trước mọi hoàn cảnh. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị là tố chất không thể thiếu, mang tính quyết định tạo nên sự kiên định, khả năng độc lập, tự chủ trong hành động.

Bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên được cấu thành và chịu tác động bởi nhiều yếu tố, như: trình độ lý luận chính trị; quan điểm, lập trường chính trị; phẩm chất chính trị; năng lực chính trị; dũng khí chính trị… Bởi vậy, để bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, đạt đến trình độ cao, có khả năng tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của bản thân, người cán bộ, đảng viên phải trải qua quá trình rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu thường xuyên, kiên trì và bền bỉ.

Trước những bước ngoặt hay những tình huống nhạy cảm, phức tạp về chính trị, cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ không nao núng, không chao đảo, ngả nghiêng mà luôn giữ vững lập trường, làm chủ tư duy của bản thân, có những quyết định chính xác để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Thực tế đã chứng minh bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của mỗi Đảng nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Ý thức rõ về điều đó nên trong nhiều văn kiện, đặc biệt Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trước bất kỳ tình huống nào”(1).

Thực tiễn đã khẳng định, trong suốt hành trình hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định đưa đất nước ta, nhân dân ta tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích lịch sử trong thế kỷ XX và 20 năm đầu thế kỷ XXI.  

Trước những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, về cơ bản toàn Đảng, toàn dân ta có sức “đề kháng” tốt, bản lĩnh chính trị luôn vững vàng, nhận thức đúng về bản chất cách mạng, khoa học và kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực, chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất mọi bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” hòng chống phá cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta vấp phải không ít hạn chế, khuyết điểm, đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng… Trước những tác động tiêu cực, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã nao núng, chao đảo, ngả nghiêng, thậm chí thay đổi hẳn về quan điểm, tư tưởng lập trường. Do không làm chủ bản thân nên không ít cán bộ, đảng viên đã có những quyết định, hành động sai trái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đảng ta đã thi hành kỷ luật hơn 100 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Số ít cán bộ, đảng viên, trong đó có người từng giữ những chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, một thời được trọng dụng nay “trở cờ” quay lưng với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.

Điển hình phải nhắc tới là trường hợp Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống. Khi còn công tác vị giáo sư này luôn phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng và trở thành Nhà giáo Nhân dân, một chuyên gia đầu ngành đóng góp nhiều công sức cho công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo trong lĩnh vực xây dựng. Nhưng do bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng mà sau khi nghỉ hưu, thay vì đóng góp một phần nào công sức, trí tuệ vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo, là tấm gương sáng để con cháu noi theo, chỉ vì những ích kỷ cá nhân, lại thêm bị kẻ xấu kích động, lôi kéo, ông đã lên mạng xã hội tuyên bố rời bỏ Đảng, sau nữa là liên tục viết bài tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước… Tương tự là trường hợp ông Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ. Sau khi nghỉ hưu, ông Chu Hảo chuyển sang công tác ở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với cương vị là Tổng Biên tập, Giám đốc Nhà xuất bản Tri thức. Là một đảng viên lâu năm, gia đình có truyền thống cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước nhưng ông Chu Hảo đã có những vi phạm rất nghiêm trọng. Ngoài cho xuất bản 5 cuốn sách có nội dung sai phạm về chính trị tư tưởng, trái quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, cơ quan chức năng đã thẩm định, kết luận và xử lý cấm phát hành, qua báo chí, mạng xã hội và thực tiễn ông Chu Hảo còn nói, viết và làm trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.v.v.

Tuy tính chất, mức độ ở từng vụ việc, ở từng đối tượng khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản, chủ quan, lớn nhất khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là do bản lĩnh chính trị không vững vàng. Bản thân từng đồng chí thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên đã dẫn đến nói, viết và làm trái quan điểm, đường lối của Đảng. Đứng trước các vấn đề, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp trong đời sống xã hội, họ đã thiếu kiên định, thiếu sáng suốt, lựa chọn sai đường hướng, phương pháp tư duy dẫn tới sai lầm trong hành động và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hay nói một cách khác, thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả tất yếu của bản lĩnh chính trị không vững vàng. Vấn đề này cũng đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra là: “Do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài;…” .

PHẢI THƯỜNG XUYÊN NÊU CAO Ý THỨC RÈN LUYỆN, TU DƯỠNG

Trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đáng chú ý là từ mặt trái của cơ chế thị trường, tác động xấu từ các quan điểm sai trái, từ sự kích động, lôi kéo, móc nối của các thế lực thù địch. Đúng như nhận định của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: “Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa”. Đồng thời, chúng còn “cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn”. Đặc biệt, chúng tìm mọi phương kế tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; gieo rắc vào cán bộ, đảng viên tư tưởng hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài học đắt giá rút ra từ thực trạng như đã nêu trên là mọi cán bộ, đảng viên dù đảm nhiệm công việc gì, trên cương vị nào, trọng trách gì cũng phải thường xuyên nêu cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng. Chỉ có thông qua tự rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu mỗi cán bộ, đảng viên mới không ngừng bồi đắp nâng cao bản lĩnh chính trị, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” cho bản thân trước mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài.

Để không thoái hóa, biến chất, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị thật sự kiên định, vững vàng. Dưới góc nhìn chính trị tư tưởng, sự vững vàng về bản lĩnh, ý chí, niềm tin có vai trò rất quan trọng quyết định “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của toàn Đảng. Bản lĩnh chính trị không phải tự nhiên mà có, không phải có được trong một sớm một chiều, mà đó là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập, nghiên cứu, rèn luyện thường xuyên, kiên trì và bền bỉ. Những tác động xấu từ mặt trái của xã hội, từ các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng là không hề nhỏ. Hằng ngày, hằng giờ những tư tưởng, quan điểm sai trái, những yếu tố tiêu cực len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, tác động đến mọi đối tượng. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến bản lĩnh chính trị đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta phải có những giải pháp đồng bộ, thống nhất và quyết liệt. 

Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đó là phải coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhằm củng cố và tăng cường bản lĩnh chính trị trong Đảng, bồi đắp lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin khoa học, tạo sự thống nhất cao cả về ý chí và hành động trong toàn Đảng để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai đoạn. Quan trọng là vậy nhưng trên thực tế thời gian qua không ít cấp ủy, cán bộ lãnh đạo các cấp nhận thức chưa đúng, chưa thống nhất, nên chưa thấy hết trách nhiệm của mình với công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Do đó, muốn đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng thì trước tiên phải đổi mới nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của công tác này. Trên cơ sở thống nhất nhận thức, mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên cần xác định đây là trách nhiệm chính trị của mình.

Mặt khác, việc tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, duy trì chế độ học tập, sinh hoạt chính trị ở không ít địa phương, cơ sở lâu nay vẫn nặng về hình thức. Vấn đề đặt ra đối với mỗi tổ chức Đảng hiện nay là phải đổi mới mạnh mẽ về phương pháp tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phù hợp môi trường, điều kiện công tác của cán bộ, đảng viên, có chiều sâu, khoa học và hiệu quả thiết thực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền phải tập trung làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta.

Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng được thể hiện tập trung ở chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng phải tập trung cao độ vào xây dựng ý thức, niềm tin và cổ vũ, khích lệ ý chí, quyết tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân để đưa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Hiệu quả thực hiện nghị quyết của Đảng trên thực tế đó chính là thước đo bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn Đảng. Cơ sở nền tảng cho sự vững vàng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự kết hợp giữa trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ với kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thực tiễn. Để có bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, từng cán bộ, đảng viên vừa phải tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, vừa phải lăn lộn vào phong trào hành động cách mạng để thử lửa, tôi luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Không chỉ có khả năng và “sức đề kháng” tốt, trên cơ sở bản lĩnh chính trị vững vàng, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chủ động, tích cực tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời kỳ mới./.

_________________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.199.

Phùng Kim Lân

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa-he-qua-cua-ban-linh-chinh-tri-khong-vung-vang-129199

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...