Thứ Hai, 9 tháng 10, 2023

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

CT&PT - Trong bản Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần căn dặn nhắc nhở: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”1. Kế thừa và phát triển quan điểm, tư tưởng của Người, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhấn mạnh: “… thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị”2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết là hệ thống những quan điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân, lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các giai tầng trong xã hội, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc để thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng ở từng thời điểm, giai đoạn, đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Một là, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của đoàn kết đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và dựng xây, kiến thiết đất nước. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết là vấn đề chiến lược, là nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”3. Trên cơ sở đó, Người chỉ rõ tầm quan trọng của tinh thần đoàn kết “Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”4.

Từ nghiên cứu, khảo nghiệm các phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã khái quát, đúc kết vấn đề đoàn kết của cách mạng Việt Nam là một chân lý, vấn đề sống còn của dân tộc “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”5. Như vậy, trong chiều sâu quan điểm, tư tưởng của Người, đoàn kết giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi hoạt động của con người, nhất là trong đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng, vì đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh. Muốn có được sức mạnh thì phải đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc “thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Kẻ địch dù có hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”6.

Hai là, chỉ ra nội dung, cách thức, phương pháp thực hiện đoàn kết.

Đây là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ở mỗi giai đoạn, thời kỳ đang đặt ra. Với nhãn quan chính trị nhạy bén và uy tín, ảnh hưởng của bản thân, Người đã chỉ ra những nội dung, cách thức, phương pháp đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân rất đúng đắn, phù hợp, hiệu quả, đánh thức, khơi dậy được ý chí, sức mạnh, bản lĩnh con người Việt Nam nhằm thực hiện nhiệm vụ tối cao là giành độc lập dân tộc. Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác… Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”7. Đó là tư tưởng nhân văn sâu sắc, tất cả vì con người, vì sự nghiệp cách mạng chung của đất nước mà Người là hiện thân, tiêu biểu của chủ nghĩa nhân văn đã quy tụ, tập hợp được đông đảo các thành phần, lực lượng tạo thành sức mạnh vô địch cho mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đề ra chống đế quốc và phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho muôn dân.

Để đoàn kết hiệu quả, thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ các tầng lớp, giai cấp trong xã hội phải luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Khi thực hiện đoàn kết, Người bao giờ cũng lấy điểm chung, thống nhất để gắn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân với nhau. Bởi theo Người, mỗi giai cấp, tầng lớp có thể có lợi ích riêng, khác biệt, song phải xác định lợi ích nào là cao nhất, thu hẹp đến mức thấp nhất những mâu thuẫn, bất đồng trong mỗi giai cấp, tầng lớp nhân dân. Trong đó, độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của đoàn kết, là vấn đề bất di bất dịch không thay đổi, là tư tưởng chủ đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết phải mang tính rộng rãi, lâu dài, ổn định, bền vững và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Người khẳng định, đoàn kết không phải là vấn đề nhất thời, mà là nội dung cơ bản, lâu dài mang tính ổn định, bền vững mãi mãi. Bởi, nếu chỉ đoàn kết ở một giai đoạn, thời điểm khi cách mạng thành công, không đoàn kết nữa thì đất nước sẽ rối ren, mỗi người một suy nghĩ, một hướng, không thực hiện được các yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi. Do đó, để đoàn kết lâu dài và mang tính ổn định, bền vững thì phải có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất để trong thì vận động, liên minh quần chúng nhân dân; ngoài thì liên minh với các dân tộc, giai cấp bị áp bức, bóc lột. Đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thật thà vì đồng chí, đồng đội, vì Nhân dân, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không phải đoàn kết để mưu lợi cho lợi ích cá nhân, chủ nghĩa cá nhân có hại cho nước, cho dân. Do đó, Người yêu cầu, đoàn kết là giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, trưởng thành, phục vụ cho nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội; cùng với đó, Người cũng đặt ra vấn đề đoàn kết quốc tế, giúp đỡ, hỗ trợ các dân tộc, giai cấp bị áp bức, bóc lột vì sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giữ vững, củng cố và tăng cường đoàn kết trong Đảng để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước. Một trong những bài học kinh nghiệm được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ là: không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và là nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề đoàn kết để khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhiều lần khẳng định “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để nói lên sự đoàn kết, nhất trí cao trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị. Nhờ tinh thần đoàn kết, nhất trí cao cho nên dù đứng trước những khó khăn, thách thức, Đảng ta vẫn là một khối thống nhất, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt hoạt động, lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra bước nhảy vọt về chất trên mọi phương diện, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thời cơ, vận hội đan xen với nguy cơ, thách thức. Thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta phải quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về đoàn kết trong Đảng.

Mỗi đảng viên cần thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, như: Quy định số 08 -QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị “Về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”… Trên cơ sở đó, có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm và ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên để gương mẫu, tự giác trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện các kết luận và quy định của Đảng trên mỗi cương vị công tác, lĩnh vực phụ trách; mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương cần thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước vào từng lĩnh vực, hoạt động để xây dựng chương trình kế hoạch hành động phù hợp, hiệu quả, khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo, hết lòng, hết sức vì sự nghiệp cách mạng chung của Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Hai là, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Những nguyên tắc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng để củng cố, giữ vững đoàn kết trong mọi hoạt động, tăng sức mạnh, vị thế, uy tín của tổ chức cơ sở đảng trong quản lý, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Theo tinh thần này, đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị, địa phương phải nắm chắc những chỉ thị, quy định, văn bản, hướng dẫn của Đảng và Nhà nước về các nội dung có liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị như: công tác cán bộ, chế độ, chính sách cho cán bộ, sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ theo tiêu chuẩn, quy định của Đảng; nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò của trí tuệ tập thể nhưng có sự phân công cá nhân phụ trách; thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình; đánh giá đảng viên, kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên; quản lý đảng viên sinh hoạt ở nơi cư trú…

Phát huy vai trò, tiền phong gương mẫu của cán bộ chủ trì trong việc chấp hành chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, nhất là triển khai nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; nắm chắc kế hoạch kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và triển khai tổ chức thực hiện theo đúng tiến độ đã xác định; thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp sinh hoạt Đảng theo hướng ngắn, gọn, có trọng tâm, trọng điểm và bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin cho cán bộ, đảng viên; duy trì thường xuyên các chế độ, nề nếp sinh hoạt Đảng; làm tốt công tác giáo dục chính trị, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cơ quan, đơn vị, địa phương.

Ba là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên và người đứng đầu.

Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu phải phát huy tính tiền phong gương mẫu của mình, chấp hành nghiêm đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nói và làm theo đúng Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng; cán bộ chủ trì ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương là hạt nhân, trung tâm của đoàn kết, nơi quy tụ, tập hợp sức mạnh của đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vào thực hiện các nhiệm vụ được giao; giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, dám làm, dám nhận trách nhiệm đối với khuyết điểm, hạn chế của cấp dưới. Xây dựng phong cách làm việc dân chủ và quyết đoán của người lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị, địa phương; việc gì có lợi cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thì phải làm, việc gì không có lợi thì phải tránh.

Luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cấp dưới và giải quyết hài hòa các mối quan hệ, bảo đảm chủ trương, biện pháp của lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị, địa phương đưa ra đều nhận được sự đoàn kết, ủng hộ nhất trí của cấp dưới, không phán xét chủ quan và phải đánh giá công tâm, khách quan, không thiên vị khi đánh giá năng lực làm việc, phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp dưới… Người đứng đầu phải phát huy được ưu điểm, thế mạnh của cấp dưới; đồng thời uốn nắn, nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có tư tưởng gây chia rẽ nội bộ, mất đoàn kết, vì lợi ích nhóm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 622.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 95.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 217.

4, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 244.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 120.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 151.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 158.

Nguồn: Tạp chí CT và PT

Hồ Chí Minh với việc lựa chọn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam qua tác phẩm “Thường thức chính trị”

 CT&PT - Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Với tấm lòng yêu nước nồng nàn, trí tuệ và tầm nhìn thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là lý tưởng, lẽ sống được Người khẳng định trong các cương lĩnh, đường lối của Đảng và nhiều bài nói, bài viết, trong đó có tác phẩm “Thường thức chính trị”. Đó cũng là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

ho-chi-minh-voi-viec-lua-chon-con-duong-phat-trien-cua-dan-toc-viet-nam-qua-tac-pham-thuong-thuc-chinh-tri-chinh-tri-va-phat-trien-1696586474.jpg

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Thường thức chính trị” gồm 50 bài viết, ký bút danh Đ.X đǎng trên nhiều số báo Cứu quốc.

1. Quan điểm Hồ Chí Minh về lựa chọn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam qua tác phẩm “Thường thức chính trị” là: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân

Với hành trang là lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm “làm bất cứ việc gì đề sống và để đi”1 nhằm thực hiện hoài bão tìm ra con đường cứu nước, cứu dân; đồng thời, mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”2. Việc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, thể hiện tầm nhìn chiến lược và phù hợp với xu thế thời đại, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân lao động.

Hiện thực hóa con đường cách mạng vô sản vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập (1930 - 1945), Đảng và Nguyễn Ái Quốc xác định: độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, trước hết và trên hết; đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là phương hướng tiến lên. Chánh cương vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”3. Trong thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám (1939 - 1945), trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (5/1941), khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”4. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu chính là quan điểm đúng đắn, sáng tạo, quyết định đến thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khi đất nước giành được độc lập, trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”5. Thực hiện quyết tâm ấy, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với quyết tâm: “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, toàn thể dân tộc Việt Nam đã anh dũng chiến đấu đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù.

Trong bối cảnh toàn quân và toàn dân đẩy mạnh chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Thường thức chính trị”, đăng trên báo Cứu quốc, dưới bút danh Đ.X từ ngày 16/1 đến 23/9/1953. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tính chất của xã hội Việt Nam là “thuộc địa và phong kiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp”6. Như vậy, trong bước thứ nhất của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; đồng thời, phát huy mọi khả năng của giai cấp tư sản để xây dựng và phát triển đất nước như Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội (Luận cương cách mạng Việt Nam)7, do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội đại biểu lần thứ hai (1951) của Đảng đã khẳng định: “Nước ta là một nước nông nghiệp, kỹ nghệ không phát triển. Muốn mau phát triển kỹ nghệ, xóa bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, thế tất phải khuyến khích tư sản dân tộc kinh doanh và giúp đỡ tư bản tư nhân phát triển trong một thời gian khá lâu. Đồng thời kiểm soát và tiết chế họ, đưa họ vào con đường phát triển theo lối tư bản nhà nước, không thể nói đến cải tạo xã hội, xóa bỏ mọi hình thức bóc lột ngay”8.

Sau khi hoàn thành bước thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới (tức là cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân hiện nay)”9. Con đường phát triển của dân tộc được đề cập trong tác phẩm “Thường thức chính trị” là sự kế thừa tinh thần của Đại hội đại biểu lần thứ hai (1951) của Đảng: “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”10 và như Chính cương Đảng Lao động Việt Nam xác định: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. “Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc”11.

Nội dung “cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong thời điểm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã được Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng xác địnhlà “đánh đuổi đế quốc xâm lược, trừ diệt bọn phản quốc, xóa bỏ những di tích phong kiến, kiến thiết một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, phát triển chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam, do con đường dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội”12Báo cáo Chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội xác định nhiệm vụ của Đảng là “đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội”13.

Tính chất “dân chủ nhân dân” thực chất là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Để hoàn thành dân chủ nhân dân thì phải thực hiện các nội dung chính trị, kinh tế, văn hóa dân chủ nhân dân như Đại hội đại biểu lần thứ hai (1951) của Đảng đã chỉ rõ:

- “Chính trị dân chủ nhân dân nước ta hiện nay là củng cố Nhà nước nhân dân, củng cố cơ sở chính trị của chính quyền là Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế”14.

- “Kinh tế dân chủ nhân dân là kinh tế của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.., gồm có kinh tế nhà nước,.. bộ phận hợp tác xã,… bộ phận kinh tế nhỏ,.. bộ phận kinh tế tư bản tư nhân... Ngoài ra, còn bộ phận tư bản nhà nước gồm những xí nghiệp do tư bản tư nhân cùng chung vốn với Nhà nước kinh doanh, hoặc các xí nghiệp và tài nguyên của Nhà nước nhượng cho tư nhân kinh doanh có điều kiện”15.

- “Văn hóa dân chủ nhân dân của ta có ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng”16.

2. Kiên định con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh lựa chọn là sự phát triển tất yếu của dân tộc Việt Nam

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, năm 1959, trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi, Hồ Chí Minh đã nhắc lại nhận định sáng suốt của Đảng ngay từ năm 1930: Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa17. Trong những năm 1960, con đường cứu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh luận giải khái quát, sâu sắc hơn: Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới. Có thể thấy, tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, như đồng chí Phạm Văn Đồng đã khẳng định: Trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm cơ bản nhất, là cốt lõi, là nguồn gốc, là hạt nhân chi phối hệ tư tưởng cũng như hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là trục bất di, bất dịch của cách mạng Việt Nam, vững chắc như non sông đất nước Việt Nam18.

Kiên định với mực tiêu đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”19, với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tinh thần, khát vọng và niềm tin của Người đã trở thành quyết tâm sắt đá, sức mạnh to lớn của của cả dân tộc làm nên Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bước vào thời kỳ đổi mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hiểm nguy, khi chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái trào ở Liên Xô, Đông Âu; khi đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành công cuộc đổi mới từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo đúng tâm nguyện của Người. Đặc biệt, cùng với việc không ngừng bổ sung lý luận về thời kỳ quá độ, những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng cũng được Đảng bổ sung hoàn thiện hơn. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng đã xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 6 đặc trưng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm có 8 đặc trưng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Như vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung hai đặc trưng mới, đó là: khẳng định mục tiêu quan trọng nhất của sự nghiệp đổi mới là xây dựng một nước Việt Nam: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; đồng thời, đề cao dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng, Nhà nước đã ban hành Quy chế Dân chủ ở cơ sở (sau là Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở). Trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá thực tiễn công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “Dân là gốc”, Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu của Đảng. Đây là sự kiên định, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đại hội đã phát triển, hoàn thiện cơ sở lý luận về vai trò, vị trí của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đó là, Nhân dân làm chủ đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua cơ chế: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Để đảm bảo phát triển đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và đảm bảo phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, các kỳ Đại hội của Đảng chủ trương giải quyết hài hòa các mối quan hệ lớn. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định 8 mối quan hệ lớn: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng bổ sung thêm mối quan hệ giữa “Nhà nước và thị trường”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng bổ sung: giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Cùng với việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng luôn chú trọng bảo đảm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước, giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”20. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính nguyên tắc trong quá trình hơn 90 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cũng là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc: “Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta”21.

Trong tình hình phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết chúng ta càng phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Trong mối quan hệ biện chứng đó, độc lập dân tộc là mục tiêu, tiền đề và là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, không có độc lập dân tộc thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội; còn xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhằm tăng cường nguồn lực vật chất kỹ thuật ngày càng dồi dào hơn, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc để giữ vững độc lập dân tộc.

Con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trong tác phẩm “Thường thức chính trị” là sự kế thừa con đường cách mạng vô sản đã được Đảng và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xác định ngay từ khi thành lập Đảng và trong quá trình đấu tranh giành độc lập (1930 - 1945). Kiên định con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng và Nhân dân ta vững bước đi lên, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhằm xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc như sinh thời Bác hằng mong muốn.


1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 14.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 30.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 2-3.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 113.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 2-3.

6, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 254, 254.

7, 8, 10, 11, 12, 14, 15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 40, 90-91, 40, 434, 76, 103, 106, 109.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 7, tr. 40.

17, 19. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 9, tr. 581, 532.

18. Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Báo Nhân dân, ngày 07/01/1998.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 148.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 179.

Nguồn: Báo ĐT Chính trị và PT

Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam

CT&PT - Đầu thế kỷ XX, sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam, với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp tài tình, sáng tạo trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp. Sự phát triển sáng tạo đó của Hồ Chí Minh là một nội dung cơ bản, được Người cùng Đảng ta hiện thực hóa trong lãnh đạo, chỉ đạo, đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam và đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.

Trong bất kỳ chế độ xã hội nào từ khi xuất hiện giai cấp đến nay, vấn đề dân tộc và giai cấp luôn là những vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề dân tộc đối với bất kỳ chế độ xã hội nào đều dựa trên lập trường, quan điểm giai cấp.

Từ thực tiễn xã hội Việt Nam, trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và giải quyết hợp lý vấn đề dân tộc và giai cấp, tạo ra động lực cho cách mạng. Điều này, phản ánh sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong nhận thức, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam.

1. Quá trình Hồ Chí Minh xác lập quan điểm giải quyết mỗi quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với hành trang ban đầu là chủ nghĩa yêu nước. Trải qua hành trình đầy gian khó trong 10 năm (1911 - 1920), để tìm tòi, khảo nghiệm con đường cứu nước, Người đã đặt chân đến nước Pháp ( nơi có cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu và điển hình nhất); nước Mỹ (nơi tiêu biểu về cách mạng giải phóng dân tộc); nước Anh (nơi đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp) và rất nhiều nước ở châu Phi, Mỹ Latinh... Quá trình đó đã mang lại những tư liệu vô cùng quý giá cho Nguyễn Ái Quốc, qua đó, Người nhận ra rằng: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”1. Trong quãng thời gian đó, việc khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước mà Nguyễn Ái Quốc đi qua được Người chú ý bằng việc quan sát thực tế đời sống xã hội; gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với những con người cụ thể ở các xã hội; tiếp cận nghiên cứu các tài liệu, báo chí ở thư viện và phương tiện truyền thông; tham gia vào các hoạt động ủng hộ người da đen chống nạn phân biệt chủng tộc, bảo vệ quyền con người; tham gia vào các câu lạc bộ của các tổ chức chính trị xã hội... Trong cuốn Hồ Chí Minh - Tiểu sử có đề cập: “Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, anh đã có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử... Anh thường đi xe điện ngầm tới khu Háclem (Harlem) để tìm hiểu nguồn gốc lịch sử, cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và kỳ thị chủng tộc của người da đen”2.

Mặc dù vậy, tất cả các trải nghiệm trên chưa mang đến cho Nguyễn Ái Quốc con đường cứu nước đúng đắn. Đánh giá về cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, trong cuốn Đường Kách mệnh (năm 1927), Nguyễn Ái Quốc viết: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”3. Điều đó cũng có nghĩa rằng, cả cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp chưa giải quyết triệt để vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, nhằm mang lại độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Tháng 7/1920, sau khi đọc Sơ thảo những Luận cương của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên Báo Nhân đạo (L’Humanité) ở Paris, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường cách mạng vô sản. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển về chất trong lập trường của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người tập trung nghiên cứu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp cũng như mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa. Theo Người, sự nghiệp của người bản xứ gắn chặt với cách mạng vô sản ở chính quốc, và kẻ thù của giai cấp cũng như của dân tộc chính là chủ nghĩa đế quốc. Người dùng hình tượng con đỉa hai vòi khi nói về chủ nghĩa đế quốc và để giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp thì “người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi4.

Có thể khẳng định rằng, trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo nghiệm thực tiễn sinh động ở trong nước và trên thế giới, Người rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”5. Như vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đây chính là sản phẩm của trí tuệ, phẩm chất thiên tài Hồ Chí Minh.

2. Quan điểm phản ánh sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam

Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam của Hồ Chí Minh, so với chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện trên các quan điểm sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong xem xét, giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội của các nước phương Đông

Do tính chất của thời đại, nên việc C. Mác và Ph. Ăngghen bàn nhiều hơn về đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản là điều dễ hiểu. Lúc đó, các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh, chưa ảnh hưởng tới sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Do đó, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước chính quốc. Đây còn là quan điểm của không ít các Đảng Cộng sản chính quốc tham gia Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trước mắt cho các nước phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước tiên phải là đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có điều kiện để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, trông chờ vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu, để được trả lại quyền độc lập dân tộc cho các nước thuộc địa.

Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên khẳng định giá trị, vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, nhằm giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Người không ngừng đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, “tả khuynh”, “hữu khuynh” của một số Đảng Cộng sản Tây Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí, cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa và cho rằng: Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mạnh của chính mình, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân lao động thế giới, để đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.

Có thể thấy rằng, ngay từ khi trở thành người cộng sản (tháng 12/1920), Hồ Chí Minh đã kết hợp đúng đắn trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Song, nét độc đáo của Hồ Chí Minh chính là tạo ra sự khác biệt với các quan điểm khi đó còn phổ biến trong Quốc tế Cộng sản, đó chính là đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu ở các dân tộc thuộc địa, nhưng trên quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân.

Hồ Chí Minh quan niệm, vấn đề dân tộc và giai cấp gắn bó chặt chẽ với nhau, có quan hệ biện chứng, thống nhất, song để giải quyết triệt để vấn đề dân tộc phải dựatrên lập trường giai cấp công nhân. Vị trí, vai trò từng vấn đề không ngang bằng nhau, nhưng có giải quyết triệt để vấn đề dân tộc (giành độc lập dân tộc) thì mới mang lại mọi quyền lợi cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Trong thư Kính cáo đồng bào ngày 06/6/1941, trước biến chuyển mau lẹ của tình hình, Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”6. Chỉ có đứng trên lập trường giai cấp công nhân thì mới giải quyết tận cùng vấn đề dân tộc, nhằm đem lại quyền độc lập dân tộc theođúng nghĩa của nó. Tư duy sáng tạo đó của Hồ Chí Minh đã mở đường cho các dân tộc thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng trên con đường đấu tranh thoát khỏi sự áp bức, nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làngNgười khẳng định: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”7.

Thứ hai, Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp trên cơ sở đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản

Đây là sự kế thừa biện chứng lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp, song gắn với điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh coi trọng cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc, song, dù cách mạng giải phóng dân tộc là vấn đề trước tiên ở các nước thuộc địa thì nó cũng không tách khỏi quỹ đạo cách mạng vô sản. Bởi lẽ, nếu tách rời quỹ đạo đó, kẻ thù sẽ nhanh chóng cô lập và đàn áp. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong cách mạng vô sản, nhưng không có nghĩa lệ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Người, cách mạng giải phóng thuộc địa phải thấm nhuần tinh thần tự lực cánh sinh. Từ đó, cần chú ý giải quyết ba vấn đề: Dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, phải tùy tình hình và điều kiện để giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp, song luôn hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930 do Hồ Chí Minh khởi thảo ghi rõ: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”8.

Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp  dân tộc phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam. Thực tiễn xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX cho thấy: Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp và chính sách khai thác thuộc địa của chúng đã làm cho tình hình xã hội biến đổi sâu sắc. Giai cấp công nhân Việt Nam - lực lượng xã hội mới hình thành và phát triển, họ là sản phẩm của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa do quá trình khai thác thuộc địa, đại diện cho phương thức sản xuất mới. Giai cấp công nhân Việt Nam ở thời điểm những năm 20 của thế kỷ XX số lượng còn nhỏ bé (khoảng 22 vạn người), chiếm t lệ nhỏ trong dân cư, nhưng đã sớm có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới. Đồng thời, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng hết sức thuận lợi: phần lớn xuất thân từ nông dân nên giữ được mối quan hệ khăng khít, mật thiết với nông dân (giai cấp chiếm đa số trong xã hội với khoảng 95% dân số) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; giai cấp công nhân ra đời trước giai cấp tư sản và chưa hề đi theo hay chịu ảnh hưởng tư tưởng cải lương của giai cấp tư sản. Bên cạnh đó, trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến bị đè nặng bởi ách áp bức dân tộc và áp bức giai cấp, kẻ thù dân tộc cũng chính là kẻ thù của giai cấp. Bởi vậy, giai cấp công nhân Việt Nam vừa đại diện cho lợi ích chung của dân tộc, vừa có nguyện vọng giải phóng dân tộc, nguyện vọng dân chủ và nguyện vọng giải phóng giai cấp. Trên lập trường của chiến sĩ cộng sản chân chính, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc kẻ thù giai cấp chính là kẻ thù của dân tộc Việt Nam; kẻ thù cần phải đánh đổ là bộ máy cai trị tàn bạo, thối nát ở Việt Nam, nơi mà chúng mượn danh nghĩa đi “khai hóa văn minh” để áp bức, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tủy.

Kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp với dân tộc của Hồ Chí Minh là sự khác biệt hoàn toàn so với các phong trào cứu nước trước đó như: khuynh hướng dân chủ tư sản hay phong kiến. Dù các phong trào đó gây được tiếng vang và tổn thất nhất định cho kẻ thù, nhưng cuối cùng đều thất bại bởi những hạn chế trong tập hợp lực lượng; thiếu tổ chức lãnh đạo có khả năng đảm đương sứ mệnh lịch sử của dân tộc; chưa kết hợp giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp một cách triệt để.

Thứ ba, Hồ Chí Minh kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu n­­ước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng

Là nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính. Đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Người đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc khác, đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần vị quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”9. Do đó, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu n­ước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng là vấn đề tất yếu khách quan. Theo Hồ Chí Minh, kết hợp chủ nghĩa yêu n­ước với chủ nghĩa quốc tế vô sản chính là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính không tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tinh thần yêu nước là một bộ phận của tinh thần quốc tế, đồng thời phải phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện việc kết hợp đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, chúng ta cần phải đấu tranh với những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sôvanh và các thứ chủ nghĩa cơ hội khác; chúng ta không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do của nước mình, mà còn phải đấu tranh cho độc lập, tự do của các nước khác. Vì thế, chỉ khi đứng trên lập trường giai cấp vô sản, mới hiểu rõchủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dẫn theo lời của Giáo sư Giugơlát trong Tình hình thế giới và trong nước tháng 6 và tháng 7 năm 1949: “chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”10 là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính. Đó chính là truyền thống được hun đúc quahàng nghìn năm lịch sử; là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc mà Việt Nam là một nước điển hình cho tinh thần đó. Nó khác hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên án vì tính chất áp bức, bóc lột, vô nhân đạo, phi nghĩa khixâm lược các quốc gia, dân tộc khác. Điều này được Người nhấn mạnh trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (ngày 11/02/1951): “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”11.

3. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp soi sáng sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sự cống hiến của Người cho sự nghiệp giải phóng dân tộc không chỉ được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, mà thực tiễn cách mạng thế giới đã cho thấy, sự phát triển sáng tạo của Người về giải quyết mối quan hệ giữadân tộc và giai cấp là hoàn toàn đúng đắn, khoa học, mang tính cách mạng, triệt để. Bên cạnh đó, trong xem xét, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Người thường nêu vấn đề: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc khác.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó dự báo, nhất là tình hình dân tộc, tôn giáo, xung đột dân tộc, sắc tộc ngày càng gay gắt. Cuộc xung đột giữa Nga và Ucraina vẫn đang rất căng thẳng và để lại nhiều hệ lụy trong đời sống quốc tế, tác động tiêu cực đến sự phục hồi kinh tế thế giới sau đại dịch Covid-19; định hình về một trật tự thế giới mới đa cực thay cho đơn cực. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế vẫn bị các nước lớn chi phối, lợi ích quốc gia dân tộc là vấn đề mà mọi quốc gia - dân tộc đều quan tâm giải quyết. Trong nước, kinh tế nước ta giữ được đà tăng trưởng khá, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Song, nước ta vẫn đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội, nhất là âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc tình hình dân tộc, giai cấp, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm làm suy giảm sức mạnh tổng hợp của đất nước…

Trong tình hình mới, sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp vẫn vẹn nguyên giá trị. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc vẫn là một động lực cơ bản của đất nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng giá trị trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp của Hồ Chí Minh, cần khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính; phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàndân tộc trên cơ sở giải quyết hài hòa lợi ích các giai tầng trong xã hội, bảo đảm độc lập dân tộc thực sự và bền vững; hoàn thiện chính sách với các giai cấp, tầng lớp, chính sách dân tộc phù hợp thực tiễn; thực hiện tốt đoàn kết quốc tế vì mục tiêu “nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế” và “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, coi đó là nguồn động lực cơ bản để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Có thể khẳng định, sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam chính là đánh giá cao sức mạnh chủ nghĩa dân tộc chân chính. Người coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy; giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp vô sản; kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế; xác định kẻ thù của giai cấp cũng chính là kẻ thù của dân tộc. Đó chính là những cống hiến to lớn, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của một nhà lãnh tụ đã hiến dâng trọn đời mình cho dân tộc Việt Nam và nhân loại cần lao.


1, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 287, 441.

2. GS. Song Thành (Chủ biên): Hồ Chí Minh - Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 59.

3, 7, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 296; t. 4, tr. 64; t. 6, tr. 161.

4. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 296, 130.

6, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 230, 1.

9, 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 39, 38.

Thượng tá, TS. TRỊNH QUỐC VIỆT

Nguồn: báo ĐT Chính trị và PT

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, tiêu cực vào thực tiễn cuộc đấu tranh hiện nay

 CT&PT - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm vấn đề phòng, chống tham ô, tiêu cực. Người coi tệ tham ô là thứ “giặc nội xâm”, dù không mang gươm, mang súng, nhưng vô cùng nguy hiểm, sẽ làm mất cán bộ, bào mòn, suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng chống tham ô, bài viết đề xuất phương hướng vận dụng tư tưởng của Người vào công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay.

van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-phong-chong-tham-o-tieu-cuc-vao-thuc-tien-cuoc-dau-tranh-hien-nay-chinh-tri-va-phat-trien-1695788743.jpg
 

1. Quan điểm Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tham ô

Trực tiếp sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng chế độ dân chủ mới, Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú trọng việc phòng, chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực. Người chỉ rõ, tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, tham lam, là “trộm cướp”.

Người chỉ rõ những biểu hiện, các hành vi tham ô: “Tham ô là gì? Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”1.

Đặc trưng bản chất của hành vi tham ô là biến “của công” thành “của tư”. Theo Hồ Chí Minh, “của công” chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước; “của công” thành “của tư” tức là tài sản chung khi không nhằm phục vụ mục đích chung mà chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập thể, một địa phương. Bất cứ hành vi lấy “của công” làm “của tư” nào cũng đều là hành vi tham ô. Đây chính là hình thức tham ô trực tiếp. Trong hình thức này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, đảng viên - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Người dân thường không có chức vụ, nếu “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” cũng có thể coi là chủ thể của hành vi tham ô.

Hồ Chí Minh còn chỉ ra một hình thức tham ô tinh vi, rất khó nhận thấy trong cuộc sống đời thường, đó là tham ô gián tiếp. Người nói về tham ô gián tiếp: “Thí dụ một cán bộ, Chính phủ, nhân dân trả lương hàng tháng đều cho, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân”2.

Đây là hình thức tham ô tuy không nhanh chóng gây hậu quả vật chất như những hành vi trực tiếp chiếm đoạt tài sản công, nhưng tham ô gián tiếp xảy ra hằng ngày, thường xuyên, liên tục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu lực quản lý của Nhà nước, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, là một trong những mối nguy hại lớn đối với sự nghiệp cách mạng.

Nguyên nhân sinh ra tham ô. Theo Hồ Chí Minh, nguyên nhân sâu xa sinh ra tệ nạn tham nhũng là chủ nghĩa cá nhân. Bởi theo Người, chủ nghĩa cá nhân là một thứ trở lực nằm ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi con người. Người giải thích, chủ nghĩa cá nhân thường đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, chỉ muốn hưởng thụ, đãi ngộ, còn công việc thì lười nhác, so bì hơn thiệt, công thần, địa vị. Người chỉ rõ sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, mà tham ô, lãng phí là một biểu hiện: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành”3. “Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng, mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi. Tất cả những lỗi lầm nói trên đều là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân”4.

Người còn chỉ ra một số nguyên nhân khác dẫn đến tham ô, tiêu cực như: do trình độ non kém, thiếu kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ; độc đoán đưa ra những quyết định sai lầm gây tốn kém tiền công quỹ của Nhà nước hoặc do chủ ý “ném tiền qua cửa sổ”, coi của công là “của chùa”; do thói ăn uống, biếu xén, tiêu xài xa hoa, lãng phí; do chế độ cũ để lại.

Về tác hại của tham ô. Tham ô là lỗ hổng trực tiếp làm thất thoát, thiệt hại tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Sinh thời, Người luôn coi tham ô, lãng phí và quan liêu là ba kẻ thù hết sức nguy hiểm, là “bạn đồng minh của thực dân, phong kiến”. Người chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”, nó là “Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”5.

Trong ba kẻ thù trên, tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Người xếp tham ô ngang hàng với tội phản quốc. Người nhấn mạnh: “Đồng bào luôn luôn vui lòng đóng góp, bộ đội luôn sẵn sàng hy sinh để kháng chiến, kiến quốc. Trong lúc đó, một bọn không có lương tâm, tham ô, lấy của công làm của tư, hoặc lãng phí, tiêu xài bừa bãi; chúng làm thiệt hại đến bộ đội, đến nhân dân, đến Chính phủ và đoàn thể. Như vậy, không khác gì giúp cho giặc phá hoại ta”6. Tham ô còn làm tha hóa, suy thoái đạo đức cách mạng, phá hoại tinh thần trong sạch, ý chí vượt khó của cán bộ, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Về biện pháp phòng, chống chống tham ô. Xuất phát từ tác hại của tham ô mà việc phòng, chống tệ nạn này là một yêu cầu tất yếu khách quan, mang tính cấp thiết của cách mạng. Hồ Chí Minh coi đây là “một cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu”7. Để phòng, chống có hiệu quả những tệ nạn đó, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các biện pháp, trong đó Người đề cập một số biện pháp sau:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham ô. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, quyết định đến hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô. Người nêu rõ: “Cũng như ở các mặt trận khác, muốn thắng ở mặt trận này, ắt phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”8. Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến thành bại của cuộc đấu tranh PCTN.

Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về tác hại, sự nguy hiểm của căn bệnh tham ô, tham nhũng cũng như ý nghĩa của công tác phòng, chống bài trừ, tiêu diệt nó. Theo Người, đây là biện pháp quan trọng hàng đầu trong cuộc chiến chống tham nhũng. Người quan niệm: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”9. Người chỉ ra mục đích của việc tuyên truyền, giáo dục là nhằm nâng cao nhận thức, phát huy tinh thần tích cực, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo Người, phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao tính tự nguyện, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, có như vậy mới mang lại hiệu quả lâu dài và triệt để. Qua công tác tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp nêu gương tốt, lên án các hành vi tham ô, lãng phí, góp phần vào việc ngăn chặn nạn tham ô, lãng phí. Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải khai hội đủ mặt mọi người trong cơ quan, đơn vị, trường học, v.v.. để giải thích rõ ràng, nói đi nói lại, cho mọi người đều hiểu: Tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân cho nước thế nào? Vì sao phải chống những nạn ấy?”10.

Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là thứ vi trùng rất độc, là kẻ thù nguy hiểm gây ra mọi sai lầm, tội lỗi trong đó có tệ tham ô, lãng phí, quan liêu. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc dẫn đến nhiều sai lầm, khuyết điểm. Hồ Chí Minh đã nhiều lần cảnh báo: “Chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”11.

Cùng với công tác giáo dục, rèn luyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ban hành sắc lệnh trừng trị nghiêm khắc những người cố tình vi phạm. Ngày 26-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Quốc lệnh, quy định cụ thể 10 điều thưởng và 10 điều phạt, cho quân và dân biết rõ những điều nên tránh, những việc nên làm. Trong đó điều phạt thứ 8 đã quy định: “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”. Năm 1950, giữa lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, tòa án đã xét xử nguyên đại tá Trần Dụ Châu, mức án tử hình vì tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu.

Để phòng, chống tham ô hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu nhân dân phải biết phát huy quyền làm chủ của mình. Người cho rằng: “Quan tham vì dân dại”, nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”. Theo Người, phòng, chống tham ô, tiêu cực không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước của các cơ quan chức năng mà còn là trách nhiệm của nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Để giành lấy thắng lợi, chúng ta phải nắm vững chính sách của Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, phải dựa vào lực lượng của quần chúng, phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, phải thật sự mở rộng dân chủ”12.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-phong-chong-tham-o-tieu-cuc-vao-thuc-tien-cuoc-dau-tranh-hien-nay-chinh-tri-va-phat-trien-2-1695789229.jpg
 

Một là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục các quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân phòng, chống tham nhũng (PCTN)

Triển khai thực hiện toàn diện và nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác PCTN. Chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả và kiểm tra việc thực hiện các quy định của Đảng, nhà nước về PCTN. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ và người dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng và tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh PCTN; nâng cao hiểu biết, kiến thức pháp luật về PCTN cho cán bộ và người dân. Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công PCTN ở các cơ quan, đơn vị, địa phương.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu phải thực sự coi công tác PCTN là một trọng tâm công tác lớn của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; xác định rõ các lĩnh vực trọng tâm, địa bàn trọng điểm để tập trung chỉ đạo. Lựa chọn bố trí những cán bộ có năng lực, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức làm công tác PCTN. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc; đưa công tác PCTN vào chương trình công tác tháng, quý, năm, kết quả công tác PCTN trở thành một trong các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng ngay trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Nâng cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong việc chủ động tự phát hiện hành vi tham nhũng trong cơ quan, đơn vị, địa phương, qua đó kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng.

Hai là, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để PCTN trong cán bộ, công chức
Đây là giải pháp rất quan trọng trong hệ thống các giải pháp PCTN hiện nay. Bởi vì, kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng, đồng thời, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Trên thực tế, Đảng đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện… và phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách và kiểm tra cả các tổ chức tiến hành kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”13.

Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ cương, kỷ luật đảng, kiên quyết ngăn chặn, phòng chống các biểu hiện lạm quyền, lộng quyền và lợi dụng quyền lực của cán bộ là một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng trong PCTN.

Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc: Chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN; thực hiện quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện kiểm tra, giám sát, thanh tra, thực hiện kiến nghị của kiểm toán, xử lý các vụ việc; tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng, tiêu cực; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; những điều đảng viên không được làm; kê khai tài sản, thu nhập.

Trong quá trình thực hiện, cấp ủy đảng, cơ quan kiểm tra các cấp phải bám sát tình hình thực tiễn ở địa phương, đơn vị để kịp thời điều chỉnh nội dung, đối tượng, phạm vi kiểm tra, giám sát cho phù hợp với tình hình thực tế ở từng địa phương.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN

Đây là nội dung, biện pháp rất quan trọng để ngăn chặn, loại bỏ ngay từ trong suy nghĩ, tham muốn về tham nhũng, tiêu cực, để cán bộ, công chức “không dám” tham nhũng, tiêu cực. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”14. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ, về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoàn thiện quy định chặt chẽ để ngăn chặn những người có chức, quyền hạn “không thể” lợi dụng để trục lợi; quy định về cho thôi, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý khi cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị, địa phương xảy ra các vụ việc tham nhũng; quy định về điều chuyển, thay thế cán bộ khi có dư luận hoặc có biểu hiện tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, uy tín thấp; tiếp tục thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật.

Hoàn thiện cơ chế, quy định về quản lý kinh tế. Trong đó, chú trọng hoàn thiện các quy định trong quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách; các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước.

Xây dựng quy chế công minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên giữ chức vụ cao trong tổ chức đảng và chính quyền; xây dựng quy chế làm việc, thực thi công vụ ở nhưng vị trí trực tiếp giải quyết yêu cầu của công dân và doanh nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy định về xử lý tài sản tham nhũng, đưa ra các biện pháp kiên quyết, mạnh mẽ và cứng rắn hơn. Xây dựng cơ chế bảo vệ và biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên và nhân dân dũng cảm tố cáo, phát hiện những hành vi tham nhũng. Đồng thời, có cơ chế xử lý nghiêm những người bao che, ngăn cản việc PCTN hoặc lợi dụng sự việc để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ.

Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở đảng viên: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””15. Mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở vị trí công tác nào cũng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ cách mạng. Thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Hệ quả là mắc vào các tệ nạn, mà điển hình là tệ tham nhũng, từ đó vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”16. Vì vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cốt là để giữ vững gốc của người cách mạng. Việc tu dưỡng, rèn luyện của bản thân phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi điều kiện hoàn cảnh; phải có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, không khuất phục, sa ngã trước cám dỗ của tiền tài, vật chất, địa vị, danh vọng. Muốn vậy, mỗi cán bộ phải kiên định, tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân trong chính bản thân mình, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên, lên trước. Trong lãnh đạo, chỉ đạo cũng như trong cuộc sống thường ngày phải luôn đề cao đức tính liêm khiết, thanh liêm của người cán bộ, đảng viên.

Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp, vai trò của nhân dân trong giám sát đối với cán bộ, đảng viên

Tăng cường, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở và hoạt động của ban thanh tra nhân dân trong PCTN. Các cấp ủy, chính quyền tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng nâng cao vai trò, trách nhiệm trong PCTN; chú trọng đăng tin bài định hướng đúng đắn dư luận xã hội, duy trì việc xây dựng kế hoạch, bố trí chuyên trang, chuyên mục và thời lượng hợp lý để tuyên truyền, nhằm cung cấp kịp thời, đúng pháp luật cho công chúng những thông tin có liên quan đến tham nhũng; thực hiện có hiệu quả Quy định số 65-QĐ/TW ngày 03-02-2017 của Ban Bí thư về chỉ đạo, định hướng cung cấp thông tin tuyên truyền PCTN, nhất là chủ động thông tin về kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm; về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm trong xử lý tham nhũng; gương người tốt, việc tốt, tích cực, dũng cảm đấu tranh PCTN.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN. Trên cơ sở đó, cụ thể hoá, thể chế hóa tư tưởng của Người vào hoạt động thực tiễn của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Mỗi người đề cao, coi trọng danh dự, bổn phận với gia đình, dòng họ và nhân dân sẽ tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân, không sa vào tham nhũng, tiêu cực. Thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, “tự gột rửa mình” là cách tốt nhất để tránh xa những cám dỗ vật chất, tiền tài, địa vị, danh vọng. Nâng cao phẩm chất, nhân cách của người cán bộ là cách tốt nhất để PCTN, qua đó xứng đáng với niềm tin của nhân dân.


1, 2, 5, 6, 8, 9, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.355, 345, 357, 452, 358, 361, 358.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, 2011, tr.547.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, 2011, tr.469.

7, 12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, 2011, tr.421, 421.

11, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, 2011, tr.609, 601.

13. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.197.

14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, 2011, tr.127.

Nguồn: Báo ĐT Chính trị và phát triển

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...