Thứ Ba, 12 tháng 12, 2017

ĐẤU TRANH, PHÒNG NGỪA VỚI CÁC BIỂU HIỆN
ĐÒI THỰC HIỆN ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP
Khánh Anh
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó có biểu hiện “đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Việc chỉ rõ thực chất, tác hại, sự cần thiết phải đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng” và khẳng định vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những vấn đề cấp thiết nhằm góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đồng thời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch rất quan tâm đến việc chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch thường xuyên tuyên truyền, kích động, kêu gọi tán dương, cổ xúy cho quan điểm “đa nguyên, đa đảng”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Mục tiêu của những luận điệu hô hào, cổ xúy đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" không gì khác là hạ thấp và đi tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam, bằng những lời lẽ hết sức mị dân. Họ cho rằng chỉ có “thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo”; chỉ có "đa nguyên, đa đảng" thì xã hội mới có dân chủ thực sự... Thực chất của luận điểm trên là muốn gây ra những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính trị - xã hội không ổn định, kinh tế suy giảm, văn hóa xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội nảy sinh và ngày càng gia tăng, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
“Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người nhận thức có phần còn hạn chế, từ đó có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, có thể dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và có thể đi đến mất dần niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện chế độ nhất nguyên chính trị, một Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo xã hội Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự lựa chọn đúng đắn của chính nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật, phản ánh những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng giao phó trọng trách trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó không phải là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn. Bằng sự thể nghiệm xương máu trong cuộc đấu tranh cách mạng với bao khó khăn, gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam, mà nhân dân ta đã chọn và thừa nhận: Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mới đảm bảo cho xã hội Việt Nam phát triển tiến bộ.
Lịch sử cách mạng Việt Nam trong gần 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy: Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn xứng đáng với sự lựa chọn, giao phó của lịch sử, sự tin cậy của nhân dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng đã đưa dân tộc ta từ một dân tộc không có độc lập đến một dân tộc độc lập có tên trên bản đồ thế giới; đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ đến dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển. Chính trị-xã hội của đất nước ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa-xã hội có bước phát triển. Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định đảm bảo cho xã hội Việt Nam được từng bước phát triển bền vững vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng mà là phải thực hiện tốt hơn nữa vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm cho xã hội ngày càng phát triển bền vững theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, cần quan tâm làm tốt một số vấn đề sau đây:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhất là năng lực đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo trên cơ sở trung thành và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm của các nước phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là “đầy tớ” trung thành của nhân dân. Tích cực đấu tranh ngăn ngừa, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hai là, Đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động và phát triển, nhất là tăng cường cải cách hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, nhất là phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là “công bộc” của dân.
Ba là, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương cần kịp thời ban hành và thực hiện tốt những chủ trương, chính sách “hợp lòng dân” nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, những căn cứ cách mạng trước đây và những gia đình, những người có nhiều công lao đóng góp cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với những chế độ, chính sách phù hợp.
Bốn là, chăm lo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh và bền vững, đi đôi với bảo đảm cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là thu hẹp dần khoảng cách phân hóa giàu nghèo.
Năm là, quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, cả người Việt Nam ở trong nước và những người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; tạo nên sự đồng thuận xã hội rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được thụ hưởng mọi thành quả lao động mà chính mình đã sáng tạo ra.

Sáu là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, nhất là trong bộ máy Đảng và Nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm trong sạch bộ máy, trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm khắc, dứt điểm các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng gây hậu quả lớn nhằm củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, BÓP MÉO
VAI TRÒ CỦA CÁC KÊNH THÔNG TIN TRUYỀN THÔNG CHÍNH THỐNG
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
                                         Long Vĩ
  Gần đây trên các trang mạng xã hội có đăng bài “Tại sao Việt Nam không thể kìm hãm Facebook” của Nam Việt. Xuyên suốt bài viết là những lập luận, dẫn chứng nhằm tuyệt đối hoá vai trò của Facebook trong việc cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời khách quan hơn so với hệ thống thông tin truyền thông chính thống của Đảng và Nhà nước ta. Đây là nhận định hết sức phản động cần phê phán, bác bỏ.
  Thứ nhất, những chứng cứ mà Nam Việt đưa ra là hoàn toàn sai trái, bịa đặt phản ánh rõ sự thiếu cập nhật thông tin theo dõi về các diễn biến của tình hình chính trị - xã hội Việt Nam thời gian qua.
  Nam Việt cho rằng: Việc độc giả Việt Nam nhận được những thông tin chủ yếu từ Facebook, chứ không phải là từ các phương tiện truyền thông chính thống, đã chứng minh sự phát triển của mạng truyền thông xã hội có hơn một nửa số người Online của tổng hơn 90 triệu người dân. Như chúng ta đã biết, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động sâu sắc, toàn diện tới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh mặt tích cực do Facebook đem lại đó là: cung cấp thông tin một cách kịp thời, nhanh chóng góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người; mở rộng, lan toả thông tin, kết giao bạn bè, quảng bá sản phẩm, hỗ trợ công tác tuyên truyền nhanh chóng, hiệu quả. Thì, mặt trái của Facebook cũng không thể xem thường đó là: Những thông tin trên Facebook ít được kiểm chứng xác thực, có nhiều thông tin không chính xác, gây hậu quả xấu cho cá nhân và xã hội. Lạm dụng quá mức vào Facebook sẽ dẫn đến đắm chìm trong thế giới ảo, thờ ơ, dửng dưng với mọi người, không muốn và không biết cách giao tiếp, chia sẻ với mọi người xung quanh, thậm chí mất niềm tin nơi cuộc sống đời thực, dẫn đến mặc cảm trong cô đơn, trầm cảm, thu mình lại, làm gia tăng tệ nạn xã hội, những hành vi bạo lực, lừa gạt tiền bạc, tình cảm, tài sản… Hơn nữa, các thế lực thù địch hiện nay đang triệt để lợi dụng Facebook để thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tung lên Facebook rất nhiều thông tin khác nhau, gây hoang mang, nhiễu loạn thông tin, thật - giả, tốt - xấu, trắng - đen lẫn lộn rất khó phân biệt. Còn mạng thông tin chính thống, ở đó là những người có tri thức, được tuyển chọn một cách kỹ càng, có quá trình trải nghiệm cuộc sống, công việc, rất biết phận biệt đúng – sai, tốt – xấu, nên – chăng,… Vả lại họ được đào tạo là những người công bộc của dân “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm. Việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Do đó, chỉ có theo dõi mạng thông tin truyền thông chính thống mới cung cấp, đem lại cho người đọc, người nghe, người xem thông tin chính xác, có độ tin cậy cao. Việc bao biện, thanh minh, cổ suý, tuyệt đối hoá vai trò Facebook và hạ thấp vai trò mạng truyền thông chính thống của Nam Việt là hoàn toàn sai trái, phản động, cần phải hết sức cảnh giác, lên án và bác bỏ.
  Thứ hai, mạng thông tin truyền thông chính thống là địa chỉ tin cậy, phản ánh chính xác, kịp thời về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước.
  Đối với mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều có hệ thống thông tin truyền thông chính thống để phục vụ cho việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của quốc gia, dân tộc mình. Đối với Việt Nam chúng ta, hệ thống thông tin truyền thông chính thống đã trở thành công cụ, phương tiện hữu ích, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc; là tiếng nói của nhân dân, cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Qua hệ thống thông tin truyền thông chính thống đã củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, tạo sự đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nỗ lực phấn đấu, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các gương người tốt, việc tốt; bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, các giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; phê phán, đấu tranh với cái xấu, cái ác, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực trong mọi lĩnh vực; góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường sự đoàn kết, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, cả nước hiện có 857 cơ quan báo chí, trong đó có 199 cơ quan báo chí in (86 báo trung ương, 113 báo địa phương), 658 tạp chí (521 tạp chí T.Ư, 137 tạp chí địa phương), một hãng thông tấn quốc gia; 105 báo, tạp chí điện tử (83 báo, tạp chí điện tử của cơ quan báo chí in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập). Tổng cộng, có 248 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí; 67 đài phát thanh truyền hình (02 đài quốc gia); 183 kênh chương trình phát thanh truyền hình quảng bá (106 kênh truyền hình, 77 kênh phát thanh quảng bá); 75 kênh chương trình truyền hình trả tiền. Do vậy, những trang mạng thông tin không chính thống dù có phát triển như thế nào đi chăng nữa sẽ không bao giờ thay thế được những phương tiện thông tin truyền thông chính thống của Đảng, Nhà nước ta.
Đặc biệt trong điều kiện bùng nổ thôn tin như hiện nay, thông tin càng nhanh nhạy, càng phong phú càng tốt, tuy nhiên thông tin cũng phải trung thực, chính xác, toàn diện và không thổi phồng hoặc bôi đen. Tức là thông tin có sự cân nhắc hiệu quả xã hội, vì lợi ích chung, không vì giật gân, câu khách, không mơ hồ, mất cảnh giác, để lộ bí mật quốc gia…. Trong quá trình đó, vẫn có người cố ý cho rằng, mạng xã hội facebook, zalo, youtube hay báo chí phương Tây là trung thực, tự do và đòi các kênh thông tin tuyên truyền và báo chí cách mạng phải làm như các trang mạng xã hội và báo chí phương Tây. Thực ra các cơ quan thông tin đại chúng lớn trên thế giới đều được các tập đoàn tư bản lớn hoặc chính phủ đỡ đầu và bảo trợ vê tài chính; phần lớn các cơ quan truyền thông đều nằm trong tay tư nhân và chịu sự kiểm duyệt của họ. Sự trung thực và tự do của nó là sự trung thực và tự do có lợi cho các ông chủ tư nhân bỏ tiền nuôi dưỡng nó. Đó chính là sự khác biệt về bản chất giữa các trang mạng xã hội và nền báo chí tư sản với các kênh thông tin, truyền thông của Đảng, Nhà nước ta và báo chí cách mạng.
Do đó, vấn đề giữ vững định hướng chính trị tư tưởng cho báo chí và các kênh thông tin tuyên truyền chính thống – mà ở đây là ĐLDT gắn liền với CNXH – làm cho các kênh thông tin tuyên truyền chính thống và báo chí tự ý thức, tự giác ngộ vì điều đó, không ngừng cổ vũ và bảo đảm cho thông tin tuyên truyền chính thống phát hiện và góp phần đấu tranh làm giữ vững ổn định chính trị - xã hội đất nước càng trở thành nhiệm vụ cấp bách, nặng nề đối với Đảng ta. Về mặt này, các thế lực thù địch và cả những người thiếu thiện ý vẫn thường công kích rằng chúng ta đã chính trị hóa báo chí và truyền thông, rằng Đảng đã nắm lấy báo chí và truyền thông mà không để cho tư nhân làm báo chí và truyền thông, có nghĩa là đã tước bỏ quyền tự do báo chí, thông tin. Sự thật ai cũng biết, trên thế giới dù có nói ra hay không, các thế lực chính trị, các tổ chức, các tập đoàn kinh tế đều sử dụng báo chí và truyền thông như những công cụ phục vụ lợi ích của mình. Dù các chính trị gia, các nhà tư tưởng phương Tây có cổ xúy bao nhiêu cho “tính khách quan”, “tự do”, “dân chủ”,… của báo chí và truyền thông thì trên thực tế không ai không sử dụng báo chí và truyền thông vào mục đích chính trị, coi đây là vũ khí lợi hại, là “phương tiện dẫn vào trái tim, khối óc con người”; “là cây cầu dẫn thẳng vào trận địa”,… Thực tế đó, không cho phép chúng ta mơ hồ hay dao động, mất phương hướng

Tóm lại, những âm mưu, thủ đoạn của Nam Việt sẽ chẳng đánh lừa được ai, bởi đa số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân luôn tin tưởng các phương tiện thông tin truyền thông chính thống của Đảng, Nhà nước. Chỉ có các thế lực thù địch lợi dụng Facebook để tuyên truyền, xuyên tạc, chống Đảng, Nhà nước hạ bệ uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước mới phủ nhận vai trò của các phương tiện truyền thông của Đảng, Nhà nước ta mà thôi./.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...