Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2019

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN CỦA ĐẢNG TA



Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quan điểm, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh là nội dung được Đảng ta xác định có vị trí quan trọng hàng đầu.
Tuy cách thể hiện có khác nhau, nhưng qua từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Yếu tố cốt lõi để tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc đó chính là nền QPTD vững mạnh.
Cơ sở để Đảng ta xác định và nhất quán thực hiện quan điểm, đường lối ấy chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thực tiễn từ lịch sử dựng nước, giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa giữ nước của nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
 Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”. Xuất phát từ luận điểm ấy, ngay sau cách mạng Tháng Mười Nga thành công, để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ V.I.Lê-nin đã yêu cầu: "phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chiến đấu của nhà nước"(1).
Theo tư tưởng, quan điểm của V.I. Lênin sức mạnh bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước là sức mạnh tổng hợp, trong đó vai trò của quần chúng nhân dân rất quan trọng. Trong các tác phẩm đề cập đến vấn đề này, V.I Lê nin đều thống nhất quan điểm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử”.  Sức mạnh QPTD theo tư tưởng của V.V. Lênin không phải là chiến lược chung chung, trừu tượng mà bao hàm những thành tố rất cụ thể, sức mạnh quốc phòng là sức mạnh tổng hợp, sức mạnh toàn diện trong đó quân đội giữ vai trò nòng cốt. Nói về tăng cường sức mạnh của nền QPTD, VI.Lê nin chỉ rõ rằng phải xây dựng được quân đội mạnh làm nòng cốt. VI.Lê nin khẳng định: “Muốn bảo vệ chính quyền của công nông... chúng ta phải có Hồng quân mạnh mẽ... Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch”...
Kế thừa và phát triển truyền thống mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đồng thời vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành nên tư tưởng quân sự. Chính bằng tư tưởng quân sự ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dẫn đường, chỉ lối quân và dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh chính là xây dựng nền QPTD vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn, do đó để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và duy trì, phát triển hoạt động của chính quyền chuyên chính vô sản, không có con đường nào khác là phải bằng sức mạnh tổng hợp của nền QPTD.
Ngay trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tư tưởng ấy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: " Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: chúng ta phải xây dựng nền QPTD, toàn diện. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền QPTD phải là nền quốc phòng mang tính chất nhân dân, nền quốc phòng của dân, do dân xây dựng nên, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng.
Mặt khác theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh xây dựng nền QPTD phải gắn liền với thế trận chiến tranh nhân dân phải có lực lượng vũ trang với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) làm nòng cốt, có hậu phương vững mạnh. Cùng với đó Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền quốc phòng hiện đại, xây dựng nền QPTD phải gắn liền với xây dựng nền an ninh nhân dân .
Quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng nền QPTD mà Đảng ta đã xác định những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện, thiết thực. Tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước được tăng cường, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, trên thực tế còn không ít những vấn đề đặt ra, đáng chú ý là bên cạnh sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, ngay trong nội bộ cũng có những quan điểm chưa đúng, những nhận thức lệch lạc về sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc; về đường lối xây dựng nền QPTD... Do nhận thức lệch lạc, chưa đầy đủ và hiểu chưa đúng nên quá trình thực hiện đường lối xây dựng nền QPTD còn nhiều tồn tại, hạn chế. Đáng chú ý là trong thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với xây dựng, củng cố quốc phòng – an ninh, nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương chỉ nhấn mạnh hiệu quả kinh tế mà xem nhẹ yếu tố quốc phòng – an ninh. Do quá trình triển khai cơ quan chức năng, chủ đầu tư và các tổ chức, cá nhân có liên quan không chú ý tới những tác động đến bảo đảm quốc phòng – an ninh và an toàn cộng đồng, nên không ít công trình, dự án phải đình chỉ. Đặc biệt, nhiều khu rừng, cánh rừng từng “che bộ đội”, “vây quân thù” trong kháng chiến, tạo vành đai xanh bảo vệ biên giới trong hòa bình, nay đang bị tàn phá không thương tiếc... 
Thực trạng ấy Đảng và Nhà nước ta đã thấy rõ, chỉ ra và có nhiều giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt đấu tranh ngăn chặn, khắc phục.
Đặc biệt, sau khi thẳng thắn đánh giá thực trạng, phân tích cụ thể nguyên nhân, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đã chỉ rõ những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một trong những biểu hiện được Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra là: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối QPTD và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với biểu hiện ấy, Ban Chấp hành Trung ương xác định tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả nhiều giải pháp. Một trong những giải pháp quan trọng, phải làm thường xuyên là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ về xây dựng nền QPTD.
Cùng với tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối, cần phân tích làm cho nhân dân hiểu rằng xây dựng nền QPTD vững mạnh là yêu cầu khách quan của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN chứ không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân hay tổ chức nào. Đây là một chủ trương chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do đó, cần làm cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp và một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải xây dựng nền QPTD và an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành nhận thức đúng, ý thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với việc xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân. 
Để huy động được mọi nguồn lực, phát huy trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng cùng tham gia xây dựng nền QPTD, chúng ta phải làm cho nhân dân hiểu rõ nền QPTD mà Đảng ta chủ trương xây dựng đó là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xây dựng nền QPTD gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Việc xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam không nhằm mục đích nào khác là tự vệ chính đáng, là để chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Đây chính là thể hiện sự khác biệt về bản chất trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam cũng như các quốc gia có độc lập, chủ quyền đi theo con đường XHCN với các quốc gia khác.  
Sức mạnh của nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp được tạo nên bằng nhiều yếu tố như: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học, đối ngoại, quân sự, an ninh,... cả ở trong nước, ngoài nước, cả của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Chỉ có thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục làm cho nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ những vấn đề cơ bản đó, chúng ta mới góp phần xây dựng niềm tin, nâng cao trách nhiệm và ý chí, quyết tâm trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân. Đây cũng là biện pháp quan trọng để chúng ta phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QPTD gắn với nền an ninh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

KHÔNG CÓ VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÓ “QUÂN ĐỘI TRUNG LẬP”, “ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ”



 “Quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” là một trong những thủ đoạn nham hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đây là luận điểm vô chính trị, phản khoa học, lừa bịp đã có từ lâu, nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm vô hiệu hóa và làm lạc hướng quân đội cách mạng. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của quân đội trong lịch sử đã khẳng định: Không có “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị”.
THỰC CHẤT LUẬN ĐIỂM "QUÂN ĐỘI TRUNG LẬP", "ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ"
Chính trị của quân đội, thực chất là vấn đề bản chất giai cấp của quân đội, nó trả lời cho câu hỏi: Quân đội đó do giai cấp nào tổ chức, nuôi dưỡng, sử dụng và lãnh đạo? Nó phục vụ cho giai cấp nào, bảo vệ quyền lợi của ai? Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ấy cho ai, vì ai? Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, trong xây dựng quân đội của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào, bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, vấn đề chính trị luôn được đặt lên vị trí cao nhất, chiếm “ngôi đầu”; là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển của quân đội ấy, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ chính trị - xã hội và vận mệnh của quốc gia dân tộc. Xét về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực, phục vụ cho mục đích chính trị của một giai cấp, nhà nước nhất định. Tính chất chính trị của quân đội thể hiện tập trung và rõ nét ở mục tiêu chiến đấu, tổ chức lực lượng, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của quân đội; phụ thuộc vào quan điểm, đường lối chính trị của giai cấp, nhà nước, đảng chính trị tổ chức ra quân đội.
Hiện nay, thông qua cái gọi là “bức thư tâm huyết,” “kiến nghị của công dân”,… một số người đã lên tiếng “kiến nghị” rằng “các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức chính trị nào, đảng phái nào”, “quân đội chỉ cần tuân theo pháp luật”, “quân đội cần đứng ngoài chính trị”... Trắng trợn hơn, có kẻ còn viết bài đặt câu hỏi với cán bộ, chiến sĩ quân đội rằng: “Các anh còn ngủ đến bao giờ?”… Bản chất của những luận điệu trên là nhằm “phi đảng hóa”, “phi chính trị hóa”, tách quân đội ta ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội nhân dân.
Trong thế giới đương đại, quan điểm “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” thường xuất hiện ở các nước có cấu trúc đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, nhất là khi sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị.
Ở Thái Lan, chính phủ và các đảng phái chính trị đều ra sức tranh thủ sự ủng hộ, hậu thuẫn về chính trị của quân đội. Trong nền chính trị với cấu trúc lưỡng đảng ở Mỹ, quân đội Mỹ không hề đứng ngoài chính trị. Chỉ tính từ năm 1990 đến nay, quân đội Mỹ đã liên tục can dự vào đời sống chính trị của nhiều nước, ở  nhiều khu vực, kể cả tiến hành chiến tranh để can thiệp vào tình hình chính trị, kích động làn sóng “Mùa xuân Ả Rập”…
Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do việc xóa bỏ quy định của Hiến pháp về vai trò lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo quân đội của Đảng Cộng sản.
Thực tiễn cho thấy, ở những nước có sự tồn tại của nhiều đảng phái chính trị, việc thực hiện cái gọi là “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” đã dẫn tới tình trạng mâu thuẫn, xung đột, mất đoàn kết nội bộ và bất ổn chính trị - xã hội.
SỰ PHI LÝ CỦA LUẬN ĐIỂM "QUÂN ĐỘI TRUNG LẬP", "ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ"
K.Clausewitz - nhà lý luận quân sự tư sản của nước Phổ đã khái quát luận điểm: Chiến tranh là sự kế tục của chính trị, được thừa nhận như là một chân lý cả trong khoa học quân sự tư sản lẫn trong khoa học quân sự vô sản. Một khi đã thừa nhận “chiến tranh là sự kế tục của chính trị” thì tất yếu phải thừa nhận: không bao giờ và không ở đâu có thứ quân đội “đứng ngoài chính trị”, hoặc “không dính đến chính trị”. Bởi vì, bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có mục tiêu chính trị, thể hiện lập trường chính trị của các bên tham chiến, quân đội của các bên tham chiến đều được lực lượng chính trị cầm quyền tổ chức, giáo dục để thực hiện mục tiêu chính trị đó. Do vậy, bất cứ quân đội nào cũng đều được chú ý xây dựng về chính trị.
Vấn đề khác nhau là ở chỗ, một mặt, vấn đề xây dựng về chính trị được đặt ở vị trí nào trong quá trình xây dựng quân đội, nhất là so với quá trình hiện đại hóa vũ khí trang bị của mỗi quân đội; mặt khác, là ở mức độ công khai hóa bản chất chính trị, cũng như nội dung xây dựng về chính trị trong mỗi loại hình quân đội.
Đối với quân đội do giai cấp tư sản chi phối, do được xây dựng trên nền tảng thuyết “vũ khí luận”, vấn đề xây dựng về chính trị xếp sau việc không ngừng hiện đại hóa vũ khí trang bị. Nhưng không vì thế mà họ không chú ý đến xây dựng về chính trị cho quân đội. Chính trị được truyền bá vào quân đội của họ là hệ tư tưởng tư sản, là công tác tổ chức và lối sống, đạo đức theo quan điểm của giai cấp tư sản.
Đối với quân đội do giai cấp công nhân xây dựng, lãnh đạo và giáo dục, vấn đề chăm lo xây dựng về chính trị cho quân đội được đặt ở vị trí quan trọng bậc nhất. Điều đó xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn về tính chất giai cấp của quân đội và mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố con người với vũ khí trang bị. Những người cộng sản chưa bao giờ xem nhẹ vai trò của vũ khí trang bị, nhưng luôn coi con người là yếu tố quyết định thắng lợi: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”(1). Đây là nội dung then chốt, căn bản nhất thể hiện nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới về chính trị của giai cấp công nhân.
Trong bất cứ xã hội nào, với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một tổ chức của nhà nước, quân đội đều phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền: “Bản chất giai cấp và nội dung của nhà nước như thế nào thì quân đội - người bảo vệ lợi ích của nó như thế ấy”(2). Đồng thời, các lực lượng chính trị cầm quyền luôn tìm mọi cách để nắm chắc quân đội thông qua nhiều biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách đãi ngộ. Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định. Do đó, bản chất giai cấp của quân đội là bản chất của giai cấp, nhà nước tổ chức ra nó: “Hiện nay, cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được”(3). Quân đội chỉ mang bản chất của một giai cấp - giai cấp thống trị chi phối quyền lực nhà nước và tổ chức, nuôi dưỡng sử dụng quân đội đó. V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc căn bản về xây dựng quân đội kiểu mới, trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất và quyết định: “Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình”(4).
Vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra quân đội kiểu mới của dân tộc Việt Nam. Người đặc biệt coi trọng nhân tố chính trị trong xây dựng quân đội: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”(5). Người đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng quân đội về chính trị: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(6). Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(7). Sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là sức mạnh tổng hợp, trong đó, yếu tố con người với trình độ giác ngộ chính trị cao giữ vai trò quyết định. Chính trị có vai trò định hướng toàn bộ hoạt động của quân đội phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử. Chính trị còn có khả năng thẩm thấu, liên kết chặt chẽ các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội ta.
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ
Hiện nay, “tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”(8). Trong tình hình đó, các thế lực thù địch tiếp tục không ngừng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, với một trong các thủ đoạn là đòi hỏi “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị”. Để làm tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị phải tiếp tục được coi trọng đặc biệt, xứng đáng với vị trí là nguyên tắc cơ bản hàng đầu trong xây dựng quân đội cách mạng, cụ thể là:
Một là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội trong sạch, vững mạnh.
Thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức và đạo đức; đấu tranh chống mọi tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; miễn dịch trước sự tấn công, xâm nhập của những khuynh hướng, quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch. Ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm hạ thấp và xóa bỏ vai trò lãnh của Đảng đối với quân đội. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” và các Nghị quyết Trung ương khóa XII của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Chú trọng việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; trong đó, cần quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, sáng tạo Nghị quyết 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên gương mẫu về mọi mặt, thực sự là hạt nhân đoàn kết, tổ chức lãnh đạo đơn vị chấp hành nghiêm đường lối của Đảng và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, chiến sĩ về bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định con đường cách mạng - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, bồi dưỡng tình cảm đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam cho mỗi người quân nhân trong quân đội. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hình thành, phát triển ở mỗi cán bộ, chiến sĩ ý chí quyết tâm cao, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, có năng lực hoạt động thực tiễn và phương pháp tác phong công tác tốt, lối sống trung thực, giản dị, không bị cám dỗ bởi lối sống cá nhân chủ nghĩa, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường. Không ngại khó, ngại khổ, ngại học, ngại rèn, thường xuyên nâng cao trình độ năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị phải làm cho bản chất cách mạng của quân đội tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong tư tưởng, tình cảm, ý chí và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Ba là, coi trọng xây dựng môi trường văn hóa ở các cơ quan, đơn vị quân đội trong sạch, lành mạnh, xây dựng đạo đức, lối sống, nhân cách người quân nhân cách mạng.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội”, kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi trọng gắn kết giữa thực hiện các chuẩn mực con người Việt Nam mới, “Đơn vị văn hóa” với đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng, xây dựng điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là đoàn viên, thanh niên làm nòng cốt đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giảm thiểu vụ việc vi phạm kỷ luật. Thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội địa phương đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa trong quân đội gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Thực hiện nghiêm các quy định của Nhà nước và quân đội về công tác quản lý, kiểm tra, thẩm định biên tập, in ấn, phát hành, lưu hành, sử dụng các phương tiện nghe nhìn, thiết bị điện tử kết nối internet,… Phát huy dân chủ cơ sở gắn với tích cực đấu tranh với mọi biểu hiện ứng xử thiếu văn hóa, tạo môi trường và điều kiện tốt nhất cho bộ đội tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
Bốn là, tăng cường đấu tranh trên mặt trận lý luận - tư tưởng, vạch trần âm mưu của các thế lực thù địch muốn làm cho quân đội ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo khuynh hướng “phi chính trị hóa”.
Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng theo Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Chủ động bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội. Đấu tranh trực diện, vạch trần bản chất chính trị phản động, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội. Nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực xây dựng nội bộ đơn vị, tổ chức vững mạnh toàn diện, tạo khả năng “miễn dịch” trước những thủ đoạn tấn công bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Phát huy vai trò của hệ thống báo chí và các đơn vị văn hóa nghệ thuật quân đội, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với hệ thống truyền thông, văn hóa nghệ thuật của cả nước để làm thất bại mọi thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lý luận có đủ phẩm chất và năng lực, nhanh nhạy, sắc bén trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận lý luận, tư tưởng.
Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, chống “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng hàng đầu trong xây dựng quân đội cách mạng. Đó là một quá trình liên tục, xuyên suốt sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội cách mạng, đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp các biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách… trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định rõ nguyên tắc căn bản đó và hiện nay vẫn đang tiếp tục được coi trọng làm nền tảng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
__________________________
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.41, tr.147.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.14, tr.11.
(3) V.I.Lênin: Toàn tậpSđd, t.43, tr.277.
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.28, tr.368.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.5, tr.507.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.318.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.350.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.75.

NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH, CHỐNG PHÁ CƯƠNG LĨNH, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG HIỆN NAY ​




Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (2-1930) và trải qua các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng thường bị các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ chống phá, xuyên tạc, phủ định. Điều đó không có gì lạ trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc mà Đảng là lãnh tụ chính trị, luôn luôn trung thành và nêu cao mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã từng phải chống lại nhiều kẻ thù về chính trị, tư tưởng và cả về tổ chức.
Cần thiết phải nhắc lại những thế lực thù địch đã chống phá Đảng và cách mạng Việt Nam. Vào những năm 30, ở Việt Nam xuất hiện thế lực tơrốtxkít (những người theo chủ nghĩa Tờrốtxky) gồm Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm,v.v. Nhóm đó đã đưa ra khẩu hiệu “tả” để lừa bịp, lôi kéo quần chúng chống lại đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản lập Mặt trận dân chủ, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Họ phản đối Đảng Cộng sản lập Mặt trận dân chủ với luận điệu giai cấp vô sản không cần lo cho các giai cấp khác. Họ còn chủ trương ở nước thuộc địa phải làm ngay cách mạng vô sản, không cần phải làm cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân). Để phê phán tơrốtxkít, năm 1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập viết tác phẩm Tơrốtxky và phản cách mạng. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm Tự chỉ trích. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, năm 1939, trong ý kiến gửi các đồng chí ở trong nước đã nhấn mạnh: “Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”[1]. Đó là kinh nghiệm thành công trong đấu tranh chống thế lực thù địch về tư tưởng và chính trị.
Đầu những năm 40, Đảng phải chống lại những phần tử A.B. “A.B là bọn khiêu khích làm tay sai cho giặc đế quốc, đội lốt cộng sản chui vào Đảng để dò xét và phá hoại Đảng. A.B tức là chữ Anti-bolchévik viết tắt, nghĩa đen của nó là phản Bônsêvich, phản cộng”[2]. Ngày 25-12-1944, trên báo Cờ giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh viết bài Kinh nghiệm công tác, làm thế nào nhận biết một phần tử A.B?.
Sau Cach mạng Tháng Tám, đường lối chiến lược của Đảng là xây dựng chính quyền nhân dân, củng cố nền độc lập thống nhất. Trong hoàn cảnh phải chống thù trong, giặc ngoài, Đảng phải lựa chọn sách lược thích hợp, lúc thì tạm hòa hoãn với quân Tưởng (của chính quyền Trung Hoa dân quốc) ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, lúc lại hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp để thúc đẩy quân Tưởng về nước. Chính sách của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là Hòa để tiến và đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 với Pháp. Các thế lực thù địch gồm tơrốtxkít và phản động khác đã kích động dân chúng, vu cáo Nhà nước cách mạng và Hồ Chí Minh là bán nước cho Pháp. Đảng phải tiến hành công tác tư tưởng giải thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách đúng đắn, đồng thời phê phán luận điệu và hành vi kích động, phản động. Thực dân Pháp mưu mô tách Nam Bộ khỏi nước Việt Nam. Đồng bào Nam Bộ thật sự  lo lắng về số phận của Nam Bộ. Trước khi lên đường thăm nước Pháp (31-5-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Nam Bộ khẳng định đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”, “Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”[3].
Những năm 60 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội “tả” và hữu khuynh tác động tiêu cực tới các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Bất đồng và mâu thuẫn nghiêm trọng giữa một số nước xã hội chủ nghĩa. Đảng, Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao chủ nghĩa quốc tế, chân thành đoàn kết, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin. Một số người thiếu bản lĩnh đã làm trái đường lối của Đảng, gây chia rẽ, lôi kéo phe nhóm theo nước này để chống nước kia. Quan điểm sai trái đó đã bị phê phán và khắc phục tại Hội nghị Trung ương 9 khóa III (12-1963), bảo đảm sự thống nhất trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành chiến tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có những người trên thế giới đã hiểu sai, xuyên tạc hoặc xét lại chủ nghĩa Mác dẫn tới lộn xộn, sai lầm trong quan điểm, đường lối gây hậu quả tiêu cực. Trong bối cảnh đó, năm 1968, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Các Mác, đồng chí Trường Chinh viết tác phẩm nổi tiếng Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường Các Mác đã vạch ra. Tác phẩm đã góp phần quan trọng phê phán đấu tranh chống những luận điệu sai trái về tư tưởng và lý luận, bảo vệ đường lối của Đảng và con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam.
Năm 1989-1991, chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Nguyên nhân cơ bản là sự phá hoại của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội chính trị, của các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc; đặc biệt là sai lầm về đường lối của các Đảng Cộng sản cầm quyền, sự rút lui, đầu hàng của các Đảng trước sự lấn tới, tiến công của các thế lực thù địch. Đó là tổn thất nặng nề và đau đớn của chủ nghĩa xã hội, mà những Đảng, những người cộng sản chân chính phải rút ra bài học cho đến ngày nay.
Ở thời điểm 30 năm trước, Việt Nam đang thực hiện những bước đi khởi đầu của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, lãnh đạo và đã có được những thành công. Lợi dụng sự biến động của tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch đã lớn tiếng nói rằng chủ nghĩa xã hội đã hết thời, đòi từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa; đòi chấm dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên chính trị (Political Pluralism) và đa đảng (Multi Party regime). Đảng đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ những quan điểm sai trái đó, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, phát triển đường lối đổi mới và hoạch định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng nhận thức rõ rằng bảo đảm tính đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước có ý nghĩa quyết định để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và phát triển đất nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, khi đó, đã nêu: “Cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc của các nước xã hội chủ nghĩa đặt chủ nghĩa xã hội trước sự phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng. Đáng tiếc là ngay trong hàng ngũ những người cộng sản cũng có hiện tượng dao động về lập trường, những khuynh hướng phủ định các thành tựu, từ đó dẫn đến phủ định con đường xã hội chủ nghĩa”. Tổng Bí thư khẳng định ý chí của toàn Đảng, kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Đối với Việt Nam “không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”[4]. Cách mạng Việt Nam đang phát triển trên con đường đúng đắn đã lựa chọn với những thành tựu to lớn, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với nền độc lập, thống nhất trọn vẹn, đang quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, không có lý do gì rẽ sang con đường tư bản chủ nghĩa hay lùi lại thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trao quyền quản lý đất nước cho những thế lực cơ hội, phản động.
Hiện nay, việc phản bác những quan điểm sai trái, thù địch về cơ bản vẫn phải nhận diện đúng bản chất và ý đồ của các thế lực đó như 30 năm trước đây. Điều cần lưu ý là thủ đoạn của họ tinh vi, phức tạp, xảo quyệt hơn và triệt để sử dụng công nghệ thông tin để đạt được ý đồ nhanh nhất, quy mô và điện phá hoại rộng lớn và do đó mức độ nguy hại không thể xem thường.
Quan điểm sai trái, thù địch về chính trị hiện nay vẫn là phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, đòi Việt Nam từ bỏ con đường đó; đòi Đảng Cộng sản Việt nam từ bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền, thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập. Đó là hai vấn đề căn cốt để họ lấn tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Họ cố chứng minh rằng chế độ xã hội chủ nghĩa mà những người cộng sản, các Đảng Cộng sản cố công xây dựng nhiều chục năm đã không thành hiện thực, phải chấp nhận sự thất bại như ở Đông Âu, Liên Xô. Cố đi theo con đường không có tương lai đó là sai lầm, ảo tưởng. Họ vẫn coi chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao của sự phát triển của xã hội loài người không có gì có thể thay thế, chủ nghĩa tư bản đang tự điều chỉnh và hoàn thiện. Có người cho rằng, một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay, trong đó có Việt Nam, chỉ là hình thức, trên thực tế là đang phát triển chủ nghĩa tư bản, “đỏ vỏ xanh lòng”. Những năm 60 của thế kỷ trước có người nêu câu hỏi: Nam Tư có phải là nước xã hội chủ nghĩa không? Từ đó đến nay đã có nước nào là nước xã hội chủ nghĩa?
Để phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, điều quan trọng hàng đầu là phải trở lại đúng bản chất của chủ nghĩa xã hội trong học thuyết Mác-Lênin, hiểu rõ giá trị khoa học và tính hiện thực của lý luận ấy. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (2-1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng phê phán những quan điểm không đúng về chủ nghĩa xã hội khi các ông đề cập tới các loại của Chủ nghĩa xã hội phản động, đó là Chủ nghĩa xã hội phong kiến, Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tương-phê phán[5].
Phản bác việc phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa cần thiết phải hướng tới chứng minh cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn-hiện thực của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng và có vai trò không thể phủ nhận trong thế kỷ XX và đang được nhận thức rõ hơn và từng bước hiện thực hóa. Cần phải tổng kết sâu sắc thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cả trước và từ khi tiến hành đổi mới, làm rõ những nhận thức mới và thực tiễn đã và đang diễn ra. Hơn ba mươi năm qua, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 và bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là quá trình đổi mới tư duy lý luận, từ thực tiễn mà sửa chữa những sai lầm nhận thức không đầy đủ, không đúng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đổi mới đã khẳng định quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là đúng đắn với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu về phát triển lý luận. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa: về những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người của thời kỳ quá độ; về những vấn đề điều kiện, khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội; về sự cần thiết phải kế thừa, phát triển những thành tựu mà loài người đã đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là khoa học, công nghệ và tổ chức quản lý kinh tế, xã hội.
Đối với các thế lực thù địch về chính trị, chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội từ trước tới nay, dù có trao đổi, tranh luận như thế nào họ cũng không từ bỏ lập trường, quan điểm của họ. Cần chú ý rằng, phê phán, phản bác quan điểm sai trái để đi tới nhận thức đúng đắn. Từ cái đúng được khẳng định, được thừa nhận mà đẩy lùi cái sai. Để đi tới nhận thức đúng đắn là vấn đề lớn đặt ra cả về phương diện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, tổng kết lý luận. Nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa là vô cùng quan trọng đối với Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.
Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Cương lĩnh và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là cần thiết để phản bác có tính thuyết phục. Mặt khác cũng phải thấy rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10-2016) đã nêu rõ những biểu hiện “Phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; Không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”[6].
Quan điểm sai trái, thù địch là nằm trong âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của kẻ địch. Thủ đoạn đó tác động đến cán bộ, đảng viên dẫn tới phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời tôn chỉ mục đích của Đảng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, làm trái đường lối, Cương lĩnh của Đảng. Đó chính là sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cần phải nhận diện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra.
Điều cần nhấn mạnh là 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lại chính là quan điểm của các thế lực thù địch, được một bộ phận cán bộ, đảng viên phụ họa, làm theo. Trong 9 biểu hiện đó, cần chú ý biểu hiện thứ 6: “Móc nối, câu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước”[7]. Đó là điều “nguy hiểm khôn lường” và là một “nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Vì vậy, nhận diện những phần tử thoái hóa, biến chất, nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị là công việc bức thiết hiện nay để có giải pháp xử lý thích hợp, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh. Những công trình, bài viết phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng để góp phần giáo dục nhận thức trong Đảng, ngăn chặn sự suy thoái và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Một quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch nêu ra từ nhiều năm nay là: Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Họ đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. Họ phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Thực chất là phủ nhận và đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thật là, khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng đã chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Xác định nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Từ thành tựu đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Nhận thức rõ rằng, chính trị là lĩnh vực rất quan trọng đối với một quốc gia, một chế độ, lại là vấn đề rất nhạy cảm; vì vậy, đổi mới chính trị, phải tiến hành từng bước vững chắc, thận trọng, không thể hấp tấp, vội vàng. Vấn đề nào đã rõ thì quyết tâm đổi mới, vấn đề chưa rõ phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết. Đó chính là bài học thành công trong đổi mới chính trị ở Việt Nam, bảo đảm giữ vững sự ổn định chính trị trong mọi hoàn cảnh. Ổn định chính trị là vấn đề hệ trọng của đất nước, là cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới càng phát triển, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trở thành mối quan hệ lớn phải được nhận thức và xử lý đúng đắn tạo động lực cho sự phát triển. Từ năm 1989, xây dựng hệ thống chính trị được đặt ra rất cơ bản thay cho quan niệm trước đó về hệ thống chuyên chính vô sản. Từ những năm 90, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành vấn đề rất quan trọng của hệ thống chính trị. Việc sửa đổi Hiến pháp 1980 và ban hành Hiến pháp 1992 và gần đây sửa đổi Hiến pháp 1992 và ban hành Hiến pháp 2013 là sự phát triển quan trọng lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là đổi mới rất cơ bản hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục đổi mới căn bản, đồng bộ hệ thống chính trị cả về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và phương thức lãnh đạo, quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức. Cải cách hành chính và cải cách tư pháp ngày càng làm rõ hơn mô hình và phương thức vận hành của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quan điểm được xác định: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, là phù hợp với thực tiễn Việt Nam chứ không phải “tam quyền phân lập” diễn ra ở các nước khác, không thể áp đặt mô hình, cơ chế vận hành của nước này vào nước khác.
Các thế lực thù địch cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ, quyền con người bị vi phạm. Họ luôn luôn lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để đả kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự thật là, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, cần phải nhận thức và xử lý mỗi quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và quyền làm chủ của nhân dân, tức là quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là vấn đề lớn về lý luận về thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị trong xã hội văn minh, hiện đại mà con người và nhân dân là trung tâm.
Những thế lực phản động, thù địch đã từng công khai phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. Thực tế là sự lãnh đạo của Đảng không ngừng được đổi mới, nhất là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng không những được nhân dân, toàn xã hội khẳng định mà còn được cộng đồng thế giới và khu vực, các đối tác thừa nhận, củng cố mối quan hệ giữa các đảng cầm quyền trên thế giới. Các đảng chính trị cầm quyền trên thế giới kể cả không cùng ý thức hệ và chế độ chính trị đều có quan hệ tốt với Đảng Cộng sản Việt Nam. Thước đo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, văn hóa, giáo dục, khoa học phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao về mọi mặt, quốc phòng-an ninh được giữ vững, ngoại giao rộng mở, vị thế uy tín Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Đó là sự thật mà bất kỳ thế lực đen tối nào cũng không thể phủ nhận.
Việc phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch chống lại Cương lĩnh, đường lối của Đảng luôn luôn được đặt ra trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 đến nay. Đảng đã có được những kinh nghiệm quý báu trong cuộc đấu tranh đó. Một là, trong mọi hoàn cảnh, cần phải công khai làm rõ quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng, giải thích rõ để đồng chí trong Đảng thống nhất nhận thức, hành động, tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ, ủng hộ, đồng thuận với Đảng, không bị kẻ xấu lôi kéo, thao túng. Hai là, không bao giờ được rút lui, rời bỏ mặt trận tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, và về chính trị thì không có bất cứ sự nhân nhượng, thỏa hiệp nào, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Phản bác quan điểm sai trái, thù địch dựa trên cơ sở khoa học, hiện thực từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, bảo đảm tính thuyết phục. Ba là, thẳng thắn tự phê bình để thấy rõ những sai lầm, khuyết điểm, tự sửa chữa, hoàn thiện đường lối và sự lãnh đạo là chủ động làm thất bại ý đồ của địch lợi dụng khuyết điểm của Đảng, của cán bộ, đảng viên để xuyên tác, phá hoại. Từ sự Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (1939), tự phê bình của Trung ương tại Đại hội VI (1986) đến tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII chính là theo tinh thần ấy. Không bao giờ được ngủ quên trên vòng nguyệt quế như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở. Đó cũng là cách nâng cao khả năng “miễn dịch” chống lại mọi sự xâm nhập phá hoại từ bên ngoài./.  

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 3, trang 167.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, trang 516.
[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 4, trang 280.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, tập 51, trang 13-14.
[5] C.Mác và Ph..Ăng ghen Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 4, trang 629-643.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, trang 28.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, trang 33.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...