Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2018

HỌC VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG “TRỌNG DỤNG HIỀN TÀI” 
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Trọng dụng nhân tài là truyền thống quý báu của dân tộc ta, bởi "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp". Kế thừa và pháy huy truyền thống ấy lên tầm cao mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được lực lượng nhân tài hùng hậu, góp phần quan trọng quyết định trực tiếp đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về trọng dụng nhân tài. Người xác định, việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và  phải để họ hiểu rõ mọi mặt các công việc mà họ phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng. Người cho rằng, vì “cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”[1]Quan điểm này bắt nguồn từ tư tưởng trọng dân, tin dân, nêu cao vai trò làm chủ đất nước của dân, là sự nối tiếp và phát triển tư tưởng cầu hiền tài của ông cha trong điều kiện mới; coi nhân tố con người là vấn đề có tính chất phương pháp luận quan trọng nhất và nhân tài có vai trò to lớn - động lực để phát triển đất nước. 
Không chỉ bản thân biết dùng người mà Người còn yêu cầu lãnh đạo, quản lý các cấp phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân tài. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”[2]. Người cho rằng, trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”[3]. Bởi vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, trong lúc còn bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm nhân tài và trọng dụng nhân tài. Ngày 14 - 11 - 1945, trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”[4]. Người chủ trương phải “tìm người tài đức”, bởi, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và kiến thiết nước nhà mà khuyết điểm đó trước hết là của những người lãnh đạo Đảng và Chính phủ và chính Người cũng tự phê bình và nhận khuyết điểm đó. Người chủ trương phải “tìm người tài đức” vì “kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”. Vì vậy, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã tập hợp được nhiều nhân sĩ, trí thức khác nhau về xuất thân, địa vị xã hội nhưng họ đều là những trí thức có tâm huyết xây dựng nước Việt Nam mới. Tháng 1 - 1946, trong tình thế cách mạng diễn biến hết sức phức tạp, nhưng cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra thành công, lập ra Quốc hội dân chủ nhân dân đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt mới trong đời sống chính trị của người lao động Việt Nam. Điều đặc biệt, thành viên Chính phủ rất đa dạng, thuộc các tầng lớp khác nhau, trí thức Hán học có các nhân sĩ, như: cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe..., trí thức Tây học có Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai... Họ đều chung một ý chí, đó là đoàn kết dân tộc chung tay góp sức xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập dân tộc. Trong các giai đoạn cách mạng sau này, Người đã thu phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tài năng tham gia và làm nên những thắng lợi vang dội của dân tộc trong các cuộc kháng chiến trường kỳ. 
Trên cương vị là Chủ tịch nước, vấn đề chăm lo bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, rèn luyện các thế hệ cách mạng luôn được Người coi trọng và quan  tâm hàng đầu. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Quan điểm, tư tưởng và nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị và là bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác cán bộ của Đảng ta. Đảng và Nhà nước không chỉ coi thu hút và sử dụng nhân tài là một nội dung quan trọng trong công tác cán bộ, bởi nhân tài - cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ; là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng mà còn coi trọng nhân tài, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài "đúng người, đúng việc, đúng vị trí" nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thu hút và trọng dụng hiền tài là vấn đề vừa cần thiết, vừa cấp bách. Đại hội X của Đảng khẳng định: “Xúc tiến xây dựng một số trường đại học của Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài cho đất nước”, “Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao... Thu hút chuyên gia, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia giảng dạy, phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam”; “Thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội”[5]. Đại hội XI tiếp tục chỉ đạo: “Muốn tạo nên một tập thể vững mạnh, phải xây dựng từng con người, quan tâm phát hiện và bồi dưỡng nhân tài”, “Có chính sách trọng dụng trí thức, đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”, “Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích, sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”, “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”[6]. Văn kiện XII của Đảng nhấn mạnh: để có cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ, bên cạnh việc đổi mới bầu cử trong Đảng, thay đổi phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cần có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài và “có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài”. Luật Cán bộ, Công chức cũng nêu rõ: “Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trong dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng”. Điều này chứng tỏ, Đảng và Nhà nước ta kịp thời nhận thức đầy đủ về vai trò của người hiền tài và có cách thức sử dụng nhân tài hợp lý nhằm phát huy cao nhất mọi nguồn lực sáng tạo của nhân dân vào sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước. Bên cạnh đó, những sinh viên xuất sắc, cán bộ có năng lực... đều được Chính phủ trợ cấp chí phí sinh hoạt và học tập ở nước ngoài để mai này phục vụ đất nước. Các trường học được đầu tư xây dựng ở vùng sâu, xa, biên giới và hải đảo, tạo điều kiện cho trẻ em ở đó có cơ hội học tập, các chính sách miễn giảm học phí cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, quỹ học bổng dành cho em có thành tích cao trong học tập cũng được xây dựng và duy trì.
Thêm vào đó, Đảng và Nhà nước ta đã áp dụng các hình thức phát hiện, thu hút nhân tài phù hợp với từng lĩnh vực và điều kiện của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị. Không chỉ phát hiện những nhân tài đã lộ rõ, mà quan trọng là phải nghiên cứu, xây dựng chính sách thích hợp để thu hút được những nhân tài tiềm năng. Song song với đó, để thu hút và trọng dụng nhân tài rất, Nhà nước đã có nhiều chính sách về tôn vinh và chính sách khuyến khích vật chất, đồng thời tạo lập môi trường, điều kiện làm việc, trong đó có cả điều kiện cơ sở vật chất và cơ chế dân chủ cho cống hiến, sáng tạo, đồng thời có chiến lược thu hút nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài về nước.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế sâu rộng với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đang đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng chiến lược nhân tài quốc gia, tạo thành chủ trương, cơ chế thống nhất để thu hút, trọng dụng, bồi dưỡng và phát triển hiền tài. Hiền tài sẽ là những người cống hiến, vạch đường đi để dân tộc ta tiếp tục giành những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này đòi hỏi, các cấp ủy, chính quyền từ Trung ương xuống cơ sở tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về trọng dụng hiền tài nói riêng, coi trọng, thu hút, trọng dụng nhân tài, bố trí, sử dụng cán bộ phải "đúng người, đúng việc, đúng vị trí", cần loại bỏ tư tưởng bổ nhiệm cán bộ theo hình thức thân - quen, "cục bộ địa phương", "con ông cháu cha", "một người làm quan cả họ được nhờ" để lựa chọn hiền tài "đúng" góp công - sức, tâm - trí vào sự nghiệp kiến thiết và bảo vệ đất nước.

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, t.5, Nxb CTQG, H.2011, tr.281
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, t.5, tr.313
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, t.4, tr.43
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, t.4, tr.114
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.207, 12, 232.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, 2011, tr. 130,

Nguồn:http://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2018/11502/Hoc-va-lam-theo-tu-tuong-trong-dung-hien-tai-cua-Chu.aspx

CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH CỦA NICKNAME “DÂN VIỆT”

Long Vĩ

Gần đây, cư dân mạng rất bức xúc khi “Dân Việt” tung lên bài viết “Cha Già Dân Tộc”, nội dung bài viết đã bôi nhọ nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xuyên tạc giá trị của Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam; và giở trò khóc mướn cho một số địa chủ cường hào, những kẻ can tâm làm tay sai cho thực dân, có nhiều nợ máu với nhân dân đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh đau thương cho dân tộc Việt Nam, bị nhân dân Việt Nam trừng trị và bị lịch sử chôn vùi vào quá khứ. Vì vậy, tôi xin có mấy điều cần phải chỉ ra cho Dân Việt thấu tỏ.

Thứ nhất, Dân Việt cho rằng: “Nội dung Tuyên ngôn Độc lập là vay mượn ý tưởng Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp”. Điều này cho thấy, Dân Việt chưa bao giờ đọc nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà chỉ quen thói mở miệng là phán bừa vô căn cứ. Bởi, không chỉ có nhân dân Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam mà các đảng chính trị, các chính thể quốc gia, các chính khách cùng các dân tộc và nhân dân toàn thế giới thừa nhận giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước quốc dân đồng bào trong ngày Tuyên bố Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945). Giá trị đó được kiểm chứng qua ý chí độc lập, tự chủ, lòng tự hào và những thành quả của toàn thể dân tộc Việt Nam đã giành được; cùng sự tỏa sáng giá trị của nó đến ý thức độc lập, tự chủ của nhiều dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Giá trị đó là bất hủ, được nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới mãi mãi tôn vinh, ghi nhận, nó không chỉ soi sáng cách mạng Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay mà còn có giá trị to lớn cho sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi áp bức, bất công trong tình hình mới. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới không chỉ được dư luận thế giới so sánh và đánh giá ngang tầm với Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ; Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của Cách mạng tư sản Pháp, mà nó còn có những giá trị tiến bộ hơn về quyền con người với ý nghĩa lớn lao.

Thứ hai, Dân Việt giở trò xuyên tạc, bôi xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là, sự tiếp nối những âm mưu, thủ đoạn xấu xa, phản động của các thế lực thù địch. Thực ra, chúng hiểu rất rõ trí tuệ, nhân cách vĩ đại, cùng những cống hiến vô cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và nhân loại. Những cống hiến vĩ đại ấy không chỉ nhân dân Việt Nam mà cả nhân dân thế giới thừa nhận, tôn vinh. Song chúng vẫn cố tình nhào nặn, tô vẽ sai sự thật về cuộc đời, sự nghiệp của Người nhằm xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh, tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều đó cho thấy bản chất xấu xa, phản động và nhân cách bỉ ổi của Dân Việt.

Thứ ba, lợi dụng vấn đề cải cách ruộng đất những năm 50 - 60 của thế kỷ trước, Dân Việt đã xuyên tạc sai sự thật và phủ nhận kết quả cải cách ruộng đất do Đảng và nhân dân ta tiến hành.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam nói chung và  nông dân nói riêng được giải phóng, từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ cuộc sống của mình. Cải cách ruộng đất, hiện thực hóa chủ trương “người cày có ruộng”, là thành quả của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta được giải phóng khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân, phong kiến. Kết quả của cải cách đã đem lại ruộng đất cho hàng triệu nông dân, trả về cho họ những tư liệu sản xuất mà địa chủ, cường hào đã tước đoạt. Thành tựu đó đã giải phóng cho nông dân thoát khỏi ách thống trị của giai cấp bóc lột, tạo tiền đề về mọi mặt cho thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Thành quả đó dù tiếp cận ở góc độ nào cũng không thể phủ nhận được, nó có giá trị lịch sử và hiện thực to lớn đối với dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình cải cách ruộng đất ở một số địa phương đã mắc phải sai lầm chủ quan, điều đó đã được Đảng, Nhà nước kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục, sửa chữa…Không thể lợi dụng một số sai lầm, khuyết điểm để phủ nhận thành quả của cải cách ruộng đất và đồng nhất những khuyết điểm đó với sai lầm về chủ trương, đường lối của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.


Đôi lời nhắn nhủ, Dân Việt nên tự hỏi mình là ai, cần phải làm việc gì có lợi ích cho dân, cho nước?. Trước khi phê phán cái gì cũng nên tìm hiểu cho thấu tình, đạt lý, phân biệt trắng đen, đúng sai rõ ràng, đừng vì lòng thâm thù chế độ mà cố tình thêu dệt, xuyên tạc sai sự thật, mắc tội hại dân, hại nước với những chiêu trò cũ rich, khó nghe như thế này./. 

CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM PHẢI CHĂNG LÀ ẢO TƯỞNG?

Khánh Anh
Hiện nay, có một số người phủ định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, họ cho rằng CNXH chỉ là "bóng ma", đi theo con đường CNXH là "mơ hồ", "ảo tưởng" về một chế độ xã hội. Có thể khẳng định, đó chỉ là luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng khẳng định: "đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử"[1].
Con đường đi lên CNXH chính thức đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam – người lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam nhất quán và xác định ngay từ khi ra đời (1930) và kiên định thực hiện bằng cả trí tuệ và tình cảm, cùng với sự đồng thuận của cả dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng. Đó hoàn toàn không phải là sự lựa chọn ngẫu hứng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng tuyệt nhiên không là ảo tưởng, mà là hiện thực của con đường cách mạng Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam chứng minh, toàn dân tộc đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược ngay từ năm 1858, với khát vọng độc lập dân tộc. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh đều thất bại do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Có thể thấy rất rõ, toàn bộ trí lực, tình cảm của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc lúc này. Và Nguyễn Ái Quốc đã xác định được con đường cách mạng giải phóng dân tộc trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi lên CNXH của cách mạng Việt Nam hoàn toàn không là ảo tưởng hay cảm tính mà là kết quả của nhiều năm Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu thực tiễn cách mạng thế giới, các học thuyết từ cổ chí kim bằng cả tình cảm và lí trí. Người đã hiểu rõ và nhận thức đúng đắn từ khát vọng của dân tộc Việt Nam, từ quy luật vận động của sự thay đổi, phát triển của các chế độ xã hội lịch sử nhân loại và tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó là: tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, gắn phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[2]. Khi thành lập, Chánh cương vắn tắt của Đảng đã xác định: "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[3]. Và, thành lập chính đảng là điều trước hết, nhân tố hàng đầu để sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đi đến thành công. "Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản"[4].
Tại Đại hội  II (tháng 2- 1951) tiếp tục cụ thể hóa Chánh cương vắn tắt của Đảng, nêu rõ: "Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội"[5].
Đến Đại hội III (tháng 9-1960), đường lối chung của miền Bắc bước vào thời kì quá độ được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định là "đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội"[6], là hậu phương vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà.
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, mặc dù hai miền Nam, Bắc còn có những nhiệm vụ cụ thể riêng, khác nhau, song trên cơ sở nhận định về nội dung cơ bản của thời đại, Đại hội IV của Đảng (1976) xác định: "trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội"[7]. Với nhận thức sâu sắc này, Đảng đã quyết định con đường lựa chọn cả nước cùng đi lên CNXH với phương thức "bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội"[8]. Lựa chọn này vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rất rõ hoàn cảnh điều kiện thực tại của nước mình "vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ"[9] rất lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ lao động vẫn thủ công là chính…
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện con đường đó, chúng ta lại mắc không ít sai lầm, khuyết điểm như "chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ", chưa nắm vững những quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên đến sản xuất lớn, còn thiếu kiến thức về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội… đã để đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội... Tình hình đó làm cho niềm tin vào con đường đi lên CNXH ở không ít người giảm sút, thậm chí có ý kiến cho rằng, việc lựa chọn con đường đó là sai lầm, ảo tưởng! Với nhận thức khách quan, khoa học, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Không phải sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội là do lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế mô hình phát triển kinh tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến hành không thích hợp, đòi hỏi chúng ta phải thiết kế lại, đổi mới nhận thức và triển khai các bước đi lên CNXH cho phù hợp.
Đại hội VI (1986) mở đầu cho công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng… Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa"[10]. Phương thức phát triển kinh tế nhiều thành phần để huy động sức mạnh của toàn xã hội, trong và ngoài nước được triển khai để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó được cụ thể hóa hơn tại Đại hội VII (1991). Giữa lúc tình hình thế giới biến đổi sâu sắc, đặc biệt là hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, tại Hội nghị giữa nhiệm kì, Đảng ta vẫn nhất quán xác định: "CNXH biện chứng đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử"[11]. Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội; "nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Quá độ lên CNXH là "quá trình lâu dài; trải qua nhiều chặng đường: Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau"[12].
Đổi mới nhưng không xa rời mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đại hội VIII, IX, X, XI chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng tiếp tục khẳng định sự nhận thức ngày càng rõ hơn về các bước quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Đại hội XI (2011) đã khẳng định: "Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa"[13]. "Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"[14].
Đại hội XII (2016) đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: "Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa"[15]. Đồng thời, Đại hội cũng khẳng định "…con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với … xu thế phát triển của lịch sử".
Nhìn lại một cách xuyên suốt, từ khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cách mạng vô sản (7- 1920) trong sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đến Chánh cương vắn tắt ở Hội nghị thành lập Đảng, với 88 năm lãnh đạo, qua 12 lỳ đại hội, con đường đi lên CNXH luôn được Đảng xác định là sợi chỉ đỏ dẫn dắt cách mạng Việt Nam. Đó là sự trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam.
Sự lựa chọn, kiên định và luôn luôn bổ sung, phát triển một cách sáng tạo làm cho con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng sáng tỏ, cụ thể hơn, với những phương cách phù hợp, hiệu quả, thiết thực hơn với trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân là quá trình với cả lý trí, trên cơ sở khách quan, khoa học, đúng đắn, phù hợp với điều kiện và khát vọng chân chính của dân tộc Việt Nam và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Đó là con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, để mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người và tất cả mọi người, chứ tuyệt nhiên không giành riêng cho một nhóm người nào đó. Cả phương diện lí luận lẫn thực tiễn từ cách mạng Việt Nam 88 năm qua dưới ngọn cờ của Đảng đã và đang minh chứng cho sự lựa chọn và kiên định con đường đi lên CNXH hiện thực này.
Trước hết về mặt lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức rõ tính khoa học và cách mạng của con đường đi lên CNXH trong học thuyết Mác – Lênin. Đó sự nhận thức thế giới và giải thích thế giới một cách khoa học, duy vật, biện chứng đúng đắn và là cơ sở khoa học, cách mạng để cải tạo thế giới theo chiều hướng phát triển, văn minh, nhân văn. Học thuyết đó cũng đã chứng minh một cách khoa học, biện chứng về sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới, vạch ra những nguyên lý cơ bản nhất, chung nhất về con đường, về hình thức, phương pháp, lực lượng đấu tranh cách mạng. Chỉ có CNXH – chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho mỗi người và mọi người.
Về thực tiễn, lịch sử nhân loại đã lần lượt trải qua các chế độ xã hội khác nhau từ thấp đến cao, từ mông muội tới văn minh mà các nhà lý luận đã khái quát thành sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội là một tất yếu. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, đã tạo khả năng và điều kiện để hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và hàng chục nước trong dòng thác giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX đã giành được độc lập dân tộc. Hơn 7 thập kỷ xây dựng, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực thế giới đã vấp phải những sai lầm dẫn tới sụp đổ. Song, đó không phải là sự sụp đổ của học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vẫn trên cơ sở lý luận của học thuyết ấy, một số nước xã hội chủ nghĩa đã vận dụng sáng tạo, với những bước đi phù hợp với hoàn cảnh nước mình nên đang tiếp tục đứng vững và từng bước phát triển dẫu trong bão giông, thử thách.
Là một dân tộc đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc xâm lược, mỗi người dân Việt Nam, hơn ai hết thấu hiểu bản chất thực sự của chế độ tư bản chủ nghĩa là bất công, nô dịch, bần cùng hóa đối với nhân dân lao động. Từ đầu thế kỷ XX, khi có các đảng phái, tổ chức, cá nhân hướng lái đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa nhưng cả dân tộc vẫn kiên định đi theo con đường cách mạng đã chọn. Chủ nghĩa tư bản là mới đối với Việt Nam, nhưng người Việt Nam không xa lạ với bản chất bóc lột, bất công của chủ nghĩa tư bản, mà điển hình là sự nô dịch, thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam. Vì thế, khước từ con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn là yếu tố tất yếu đối với dân tộc Việt Nam. Dẫu con đường xây dựng CNXH còn nhiều gian nan, thử thách, song, với nhận thức khoa học và cách mạng, với những thành quả trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là những thành tựu qua hơn 30 năm đổi mới, con đường đi lên CNXH là quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, là hiện thực ở Việt Nam.



[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.66
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 30.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 1.
[4]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 5.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2001, t.12, tr.434.
[6]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 604.
[7]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2004, t.37, tr.499.
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2004, t.37, tr.146.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2005, t.37, tr.505.
10.ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, phần I, tr. 38.
[11]ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, phần I, tr. 410.
[12]ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, phần I, tr. 414.
13 ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 20-21.
[14] ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 70.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 65.
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU
CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA HIỆN NAY
Khánh Anh
Để thực hiện được mưu đồ chính trị của mình, các thế lực thù địch không từ bất cứ thủ đoạn nào để chống phá, xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận thành quả cách mạng nước ta. Chúng sử dụng các thủ đoạn tinh vi, thâm độc thông qua các cơ quan báo chí, xuất bản ở nước ngoài, móc nối với các phần tử cơ hội chính trị ở trong nước; thông qua con đường ngoại giao, hợp tác kinh tế, đầu tư... hòng chuyển hóa nước ta theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, hòng làm mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ và điều kiện để can thiệp sâu hơn, nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Nội dung quan điểm sai trái, thù địch của chúng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là:
- Các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu những thiếu sót, yếu kém trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên để gây ra những dao động về tư tưởng, mất lòng tin, thiếu đồng thuận trong nhân dân, kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối ở trong và ngoài nước.
- Chúng dùng mọi biện pháp để đánh vào nền tảng tư tưởng, văn hóa của Đảng hòng gây hoang mang, dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chúng tiếp tục xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp với xã hội ngày nay, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông  Âu những năm 90 của thế kỷ XX báo hiệu “sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội hiện thực” (!).
- Các thế lực thù địch còn đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ xúy văn hóa tư bản, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, cho rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội cuối cùng của lịch sử loài người, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là một xã hội áp bức, bóc lột nữa. Đồng thời, chúng coi con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn là “mù mờ”, “không tưởng”, “không rõ chủ nghĩa xã hội là gì mà dám lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa”; hoặc cho rằng “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu, nước mạnh”; chúng tách rời và đối lập độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, thậm chí cho rằng, thời kỳ trước năm 1975, miền Nam Việt Nam dưới sự hậu thuẫn của chủ nghĩa tư bản đã phát triển vượt trội so với miền Bắc, do đó nếu Việt Nam đi theo con đường tư bản thì kinh tế hiện nay đã phát triển như các con rồng châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo...) (!).
- Chúng còn xuyên tạc, bôi nhọ tư tưởng, đạo đức, tác phong, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như:
Viết sách, báo, sản xuất băng hình nhằm “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”. Chúng đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, coi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản (!).
- Chúng xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Hằng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có báo cáo tình hình nhân quyền, trong đó họ tự dành cho mình cái quyền phán xét tình hình nhân quyền của các nước khác, bao gồm cả Việt Nam, cố tình lờ đi tình trạng vi phạm nhân quyền đầy rẫy trên đất Mỹ, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta trái với Hiến chương Liên hợp quốc. Họ còn tài trợ cho các lực lượng chống đối trong tôn giáo và người đi khiếu kiện; tổ chức đình công, bãi công, kích động biểu tình trong giáo dân, người dân tộc thiểu số, sinh viên, học sinh.
- Gắn liền với việc chống phá quyết liệt trên lĩnh vực tư tưởng, chúng rất coi trọng chống phá ta về văn hóa, nghệ thuật. Mục tiêu của các thế lực thù địch là khuyến khích các khuynh hướng văn hóa, nghệ thuật độc lập với chính trị; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, nghệ thuật; phủ định văn học cách mạng, lôi kéo các văn nghệ sĩ đi theo các trào lưu văn hóa phương Tây, coi nhẹ văn hóa, nghệ thuật truyền thống dân tộc. Chúng tìm mọi cách phủ định, làm hạn chế đến mức thấp nhất các giá trị nền tảng tư tưởng, văn hóa Việt Nam (bản lĩnh chính trị, truyền thống đoàn kết toàn dân tộc chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước...) là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựngvà bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay. Đồng thời, thông qua nhiều con đường khác nhau, chúng khuếch trương các giá trị văn hóa phương Tây, gieo rắc sản phẩm đồi trụy, độc hại, quan điểm, tư tưởng, lối sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất, sùng ngoại, tạo tâm lý hưởng thụ, từ đó từng bước chuyển hóa tư duy, nếp nghĩ, quan điểm của các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ theo hướng đối lập với quan điểm, tư tưởng của Đảng và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Với những vấn đề trên, đấu tranh phản bác những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là cuộc chiến đấu lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh  tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng và toàn thể nhân dân, trong đó sự tham gia của lực lượng vũ trang, Công an nhân dân và Quân đội nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục, định hướng thông tin dư luận, tổ chức trực tiếp đấu tranh phản bác các quan điểm sai sự thật, trái với nhân đạo và chính nghĩa, đồng thời đưa ra truy tố kịp thời, nghiêm minh các đối tượng cố tình vi phạm pháp luật trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trên mọi lĩnh vực.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...