Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP NHẰM CHẤN HƯNG NỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
Khái niệm và tầm quan trọng của xã hội học tập
Xã hội học tập (XHHT) là một xã hội mà mọi người đều được học, cần phải học và tự giác học thường xuyên, học suốt đời; mọi người được tiếp cận những cơ hội học tập thuận lợi và lấy tự học cùng với ý chí, nghị lực phấn đấu kiên trì của mình là chính để đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội; mọi người không phân biệt tuổi tác, ngành nghề, trình độ đều thấy học tập là nhu cầu của cuộc sống, luôn cần phải học và học suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc.
Để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời (HTSĐ) của người dân, các nhà trường, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các cơ quan truyền thông, mọi tổ chức và mọi người dân,... đều có trách nhiệm cung ứng các cơ hội học tập và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được HTSĐ.
Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO), HTSĐ là tất cả các hoạt động học tập có chủ đích xuyên suốt cuộc đời của một cá nhân từ khi chào đời đến lúc rời xa cuộc sống, theo các phương thức giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy. Trong thời đại chu kỳ thay đổi khoa học - công nghệ ngày càng rút ngắn và tuổi thọ ngày càng cao thì HTSĐ là tất yếu.
Học tập suốt đời vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của công dân. Công dân có quyền lựa chọn hình thức học tập phù hợp với năng lực, sở thích và điều kiện, hoàn cảnh của mình để nâng cao tri thức, hiểu biết, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế; học để có nghề nghiệp, có việc làm hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công việc; học để cống hiến được nhiều hơn, để làm cho mình và mọi người hạnh phúc; học để góp phần phát triển đất nước và nhân loại.
Trên thế giới, các quốc gia đang ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng một “hệ thống giáo dục mạnh”. Trong đó, HTSĐ được đặc biệt chú trọng, bởi lẽ HTSĐ cung cấp khung vững chắc để phát triển nguồn nhân lực bền vững, từ đó tạo ra tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội và khuyến khích, thúc đẩy các cá nhân theo đuổi cơ hội học tập ở mọi giai đoạn của cuộc đời.
Thực tế ở nhiều quốc gia phát triển cho thấy, HTSĐ đã thực sự góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn lực chung cho sự phát triển, cải thiện về môi trường kinh tế - xã hội cho cộng đồng, thay đổi diện mạo văn hóa cộng đồng và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Nhờ HTSĐ, mỗi cá nhân đều được nâng cao khả năng thích ứng, hòa nhập và phát triển nhân cách. Với những đối tượng nhạy cảm, như trẻ em gái, phụ nữ, người dân tộc thiểu số,... HTSĐ có ý nghĩa rất to lớn trong việc hỗ trợ về cơ hội, tạo ra động lực giúp họ học tập để cập nhật kiến thức, kỹ năng, cải thiện năng suất lao động, tạo thêm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống, thay đổi thân phận và địa vị xã hội, góp phần tạo ra sự bình đẳng và tiến bộ hơn. 
Để phát triển nền giáo dục cả trong hiện tại và tương lai, xây dựng XHHT là nền tảng, là cốt lõi, trong đó xây dựng cơ hội HTSĐ vừa là phương châm, vừa là giải pháp, vừa là mục tiêu của sự nghiệp giáo dục. Nghĩa là cần phải xây dựng một hệ thống giáo dục sao cho bất cứ công dân nào có nhu cầu học tập đều tìm thấy cơ hội học tập thuận lợi, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong những thời gian và không gian khác nhau.
Vì những lý do trên có thể thấy rõ xây dựng XHHT, tạo cơ hội HTSĐ đang là xu thế tất yếu, là mục tiêu mang tính thời đại của mọi nền giáo dục trên thế giới.
Một số thành tựu trong xây dựng xã hội học tập
Trong chiến lược phát triển đất nước qua các thời kỳ lịch sử, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự học và trong thực tế đã có những chủ trương, chính sách lớn để tạo điều kiện cho người dân được học tập thường xuyên, HTSĐ.
Trong các văn kiện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng nhất quán chủ trương thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người đều có thể được học tập suốt đời. Chủ trương trên của Đảng xác lập một quan niệm rõ ràng về XHHT với tư cách là một thể thống nhất giữa hệ thống giáo dục ban đầu (bao gồm trường, lớp và cơ sở giáo dục chính quy từ nhà trẻ, mẫu giáo đến đại học) và hệ thống giáo dục tiếp tục (với nhiều hình thức giáo dục chính quy và không chính quy tại các cơ sở đào tạo tại chức, cơ sở đào tạo ngoại ngữ, tin học, đào tạo và đào tạo lại qua các khóa học, lớp học ngắn hạn...).
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Nhận thức rõ vai trò, vị trí, ý nghĩa của việc xây dựng XHHT, ngày 18-5-2005, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010” với tiêu chí tổng quát là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi lúc, mọi nơi, mọi trình độ; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục; mọi người, mọi tổ chức đều có trách nhiệm, nghĩa vụ trong học tập và tích cực tham gia xây dựng XHHT.
Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13-4-2007, Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/2008/CT-TTg, ngày 08-01-2008, Về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Ngày 09-01-2013, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” (Đề án) để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT tại nước ta. Đề án đã nêu rõ: “mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên, suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại”.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng XHHT, bảo đảm cho tất cả các công dân có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo, trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các tổ chức, đoàn thể, đặc biệt là Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động thiết thực triển khai thực hiện Đề án. Một số hoạt động cụ thể được thực hiện, như xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện Đề án; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 6 đề án thành phần: 1- Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; 2- Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ”; 3- Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”; 4- Đề án “Truyền thông về xây dựng xã hội học tập”;5- Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công nhân lao động trong các doanh nghiệp”; 6- Đề án “Phát triển đào tạo từ xa”; tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua việc tổ chức Tuần lễ hưởng ứng HTSĐ vào tuần đầu tháng 10 hằng năm để mỗi người dân nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của HTSĐ, xây dựng XHHT đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, phát triển bền vững xã hội, nâng cao chất lượng đời sống của cộng đồng và cá nhân; tổ chức những chương trình giáo dục mở trên sóng phát thanh, truyền hình (như Chương trình hướng dẫn ôn tập và luyện thi đại học và Chương trình dạy tiếng Anh trên VTV2; Chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài trên VTV4; Chương trình giáo dục các kỹ năng sống trên VTV3; các chương trình Chào buổi sáng, đời sống thường ngày trên VTV đã giúp cho người dân có được những kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, thực hiện pháp luật, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe người dân; Chương trình học tiếng Anh Obla Air trên trên kênh VOV2 (Kênh Văn hóa, Xã hội và Giáo dục) và VOV5 (Hệ Phát thanh Đối ngoại Quốc gia); kênh Truyền hình Giáo dục quốc gia phát sóng trên kênh truyền hình VTV7 với mục tiêu “Vì một xã hội học tập”, cung cấp các tri thức đa dạng cho nhiều tầng lớp khán giả khác nhau,...).
Các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể các địa phương trong cả nước đã quan tâm, chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, như xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án cụ thể, phù hợp với đặc điểm của mỗi địa phương; thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án; ban hành chỉ thị, nghị quyết của tỉnh/thành ủy, hội đồng nhân dân tỉnh/thànhphố về việc thực hiện Đề án; tổ chức nhiều hoạt động thiết thực triển khai thực hiện Đề án.
Ngoài vai trò chủ đạo của ngành giáo dục - đào tạo, các ngành văn hóa, thể thao và du lịch, thông tin và truyền thông, lao động - thương binh và xã hội, nội vụ, tài chính,..; các tổ chức, đoàn thể: Hội Khuyến học, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,...; các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông trên địa bàn tỉnh đã tham gia tích cực trong việc xây dựng XHHT ở địa phương. Nhiều địa phương đã có giải pháp tuyên truyền về vai trò, tác dụng của HTSĐ, xây dựng XHHT thiết thực, tạo ấn tượng sâu sắc và có tác động mạnh mẽ đến nhận thức của các tầng lớp nhân dân; chỉ đạo cụ thể hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng; xây dựng các mô hình học tập; đa dạng hóa nội dung, hình thức học tập; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, các lớp phổ biến kiến thức phục vụ nhu cầu HTSĐ của mọi tầng lớp nhân dân.
Kể từ khi triển khai Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010” đến nay, chúng ta đã có hơn 13 năm triển khai thực tế nhiệm vụ xây dựng XHHT và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể: mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên được củng cố và phát triển, đặc biệt là mạng lưới các trung tâm học tập cộng đồng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi lứa tuổi. Hiện cả nước có 695 trung tâm giáo dục thường xuyên, bao gồm 74 trung tâm cấp tỉnh, 621 trung tâm cấp huyện (32 trung tâm giáo dục thường xuyên và 589 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên); 11.019 trung tâm học tập cộng đồng (đạt 98,7%). Trong đó có 4.713 trung tâm học tập cộng đồng kết hợp với trung tâm văn hóa, thể thao xã (42,8%); 2.854 trung tâm ngoại ngữ - tin học, trong đó: 66 trung tâm ngoại ngữ - tin học công lập và 2.706 trung tâm ngoại ngữ - tin học ngoài công lập và 82 trung tâm ngoại ngữ - tin học có vốn đầu tư nước ngoài.
Chỉ tính riêng từ năm 2013 đến nay, toàn quốc đã có hơn 100 triệu lượt người tham gia học tập các chuyên đề tại các trung tâm học tập cộng đồng; gần 5 triệu lượt người học ngoại ngữ và hơn 1 triệu lượt người học bồi dưỡng tin học ứng dụng; hơn 2 triệu lượt người tham gia học nghề ngắn hạn; hơn 235 nghìn người theo học lớp xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ. Số lượt cán bộ, công chức được đào tạo bồi dưỡng đạt hơn 3,2 triệu lượt người (tăng khoảng 24% so với giai đoạn 2006 - 2010).
Bên cạnh các kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn, bất cập không nhỏ đối với công tác xây dựng XHHT ở Việt Nam, một số chỉ tiêu chưa đạt được so với kế hoạch đề ra trong Đề án, cụ thể như: 
Một số địa phương chưa quan tâm đến việc học tập của người lớn, xây dựng XHHT; sự phối hợp giữa các cơ quan, sở, ngành, tổ chức, đoàn thể trong việc triển khai thực hiện Đề án ở một số địa phương chưa thực sự chặt chẽ, thường xuyên và hiệu quả;
Công tác tuyên truyền về khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT ở một số nơi, nhất là cấp cơ sở vẫn còn hạn chế cả nội dung lẫn hình thức;
Tỷ lệ huy động người học xóa mù chữ còn thấp và kết quả không bền vững (ở những vùng đặc biệt khó khăn), hiện tượng tái mù chữ còn khá lớn, công tác điều tra cơ bản về số người mù chữ hằng năm của các địa phương chưa được coi trọng, số lượng báo cáo không cập nhật và thiếu chính xác, ảnh hưởng đến việc xây dựng kế hoạch, thực thi chính sách;
Phong trào học tập trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang chưa mạnh. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa tự giác học tập để nâng cao trình độ, còn tâm lý ngại học. Chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức chưa gắn với yêu cầu công việc, vị trí việc làm, chức danh mà cán bộ, công chức đảm nhiệm;
Nhiều địa phương chưa chủ động gắn đào tạo nghề với phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm, công tác kiểm tra, đánh giá, thông tin, báo cáo không kịp thời, thiếu chính xác.
Giải pháp thúc đẩy xây dựng xã hội học tập
Để bảo đảm cho sự thành công của chủ trương xây dựng XHHT ở Việt Nam, trong thời gian tới, các địa phương cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về HTSĐ, xây dựng XHHT.
- Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi người dân về ý nghĩa, tác dụng của việc HTSĐ, xây dựng XHHT dưới nhiều hình thức khác nhau, như xây dựng các chuyên đề trên phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, tổ chức các hội thảo, diễn đàn về HTSĐ và xây dựng XHHT.
- Phát động phong trào thi đua học tập thường xuyên, HTSĐ rộng khắp nhằm thúc đẩy việc học tập trong mỗi gia đình, mỗi dòng họ, mỗi cộng đồng dân cư. Mọi người đều coi học tập là nhu cầu cần thiết.
- Nhân rộng các mô hình “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” và “Đơn vị học tập” theo hướng thiết thực, hiệu quả, nhằm phát triển mạnh hơn nữa phong trào HTSĐ trong mọi gia đình, dòng họ, cộng đồng và cơ quan, tổ chức. Lựa chọn và đề xuất các thành phố tham gia mạng lưới các thành phố học tập toàn cầu của UNESCO. 
- Tổ chức tuần lễ HTSĐ hằng năm với các hoạt động đa dạng, phong phú, thiết thực và hiệu quả.
Thứ hai, củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên và các thiết chế giáo dục ngoài nhà trường.
- Rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của các cơ sở giáo dục thường xuyên. Trên cơ sở đó quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
- Nâng cao năng lực hoạt động của các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp huyện sau khi sáp nhập theo hướng thực hiện nhiều nhiệm vụ: giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp và dạy nghề, bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng ngắn hạn và tư vấn, hỗ trợ các trung tâm học tập cộng đồng.
- Củng cố mô hình hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng theo hướng kết hợp với nhà văn hóa, thư viện, bưu điện văn hóa xã. Các lớp học của trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người cùng tham gia (tổ chức tại các thôn, bản, tại nhà dân...).
- Tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị dạy học cho các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng dạy và học. Tổ chức nghiên cứu, thí điểm tại mỗi đơn vị cấp huyện có từ 2 đến 3 mô hình trung tâm học tập cộng đồng hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững để làm điểm cho các trung tâm học tập cộng đồng nghiên cứu, học tập và có thể xem xét, nhân rộng.
- Mở rộng mạng lưới quy mô hoạt động của các trung tâm ngoại ngữ, tin học; xây dựng và phát triển các cộng đồng học tập ngoại ngữ; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, nhà đầu tư tham gia hoạt động, đầu tư, thành lập các trung tâm ngoại ngữ - tin học.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế giáo dục ngoài nhà trường.
Thứ ba, đổi mới quản lý giáo dục thường xuyên. 
- Đổi mới việc quản lý nhà nước đối với việc xây dựng XHHT. Các cơ quan quản lý, các cơ sở giáo dục đóng vai trò là người tổ chức phát động phong trào học tập thường xuyên, HTSĐ; có các biện pháp khuyến khích người dân học tập nhằm thúc đẩy phong trào.
- Tăng cường phân cấp quản lý trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trung tâm học tập cộng đồng phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi trung tâm theo quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14-2-2015, của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tăng cường hiệu lực quản lý hoạt động của các trung tâm ngoại ngữ - tin học, bảo đảm tất cả các trung tâm hoạt động theo đúng quy chế và các quy định của pháp luật;
- Tăng cường quản lý, giám sát các cơ sở liên kết đào tạo, kể cả liên kết với cơ sở giáo dục của nước ngoài thực hiện đúng quy định của Nhà nước.
Thứ tư, đổi mới chương trình giáo dục thường xuyên theo hướng đa dạng, linh hoạt, mềm dẻo đáp ứng nhu cầu của người học.
- Xây dựng chương trình xóa mù chữ và biên soạn tài liệu học tập hướng tới các đối tượng thiệt thòi trong xã hội: người dân tộc thiểu số; phụ nữ, trẻ em gái; người lao động nghèo, người khuyết tật; bảo đảm người học có các kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc viết, tính toán bằng tiếng Việt; có các hiểu biết đơn giản cần thiết về con người, về thế giới tự nhiên và xã hội phù hợp, thiết thực với cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất; giúp người học có các cơ hội tiếp cận với các bậc học cao hơn, thoát khỏi cuộc sống nghèo khó, lạc hậu.
- Tổ chức lựa chọn hoặc xây dựng, biên soạn chương trình bồi dưỡng tin học, chương trình bồi dưỡng tiếng Anh phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện cụ thể của địa phương.
- Đối với chương trình giáo dục thường xuyên đáp ứng nhu cầu người học: Phát triển chương trình, tài liệu học tập theo hướng đa dạng phù hợp với tính chất vùng miền, nhu cầu và đặc điểm của người học; đa dạng hóa các hình thức học tập, người học có thể học theo hình thức tập trung, không tập trung, tự học, tự học có hướng dẫn, học tập qua in-tơ-nét.
- Tăng cường năng lực đào tạo từ xa cho các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy và học, phát triển học liệu điện tử và xây dựng các hệ thống học trực tuyến (e-learning) hỗ trợ cho học viên có thể học từ xa, tự học, tạo điều kiện thuận lợi cho người học có thể HTSĐ.
Thứ năm, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cho giáo dục thường xuyên.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể về phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cho giáo dục thường xuyên. Giáo viên ở các cơ sở giáo dục thường xuyên gồm giáo viên cơ hữu và giáo viên hợp đồng thỉnh giảng. Đối với giáo viên cơ hữu chỉ cần có số lượng tối thiểu đủ để tổ chức và quản lý các lớp học, số còn lại là giáo viên hợp đồng thỉnh giảng.
- Bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, hướng dẫn viên của các cơ sở giáo dục thường xuyên có đủ trình độ và năng lực (tính chuyên nghiệp) về điều tra nhu cầu học tập, xây dựng chương trình học, tổ chức lớp học, vận động sự tham gia của cộng đồng...
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên đáp ứng nhiệm vụ tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho đội cán bộ, công chức và giáo viên.
Thứ sáu, huy động các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia xây dựng XHHT.
- Củng cố, kiện toàn và tăng cường công tác chỉ đạo của ban chỉ đạo xây dựng XHHT ở các cấp nhằm thực hiện có hiệu quả kế hoạch xây dựng XHHT.
- Đưa việc xây dựng XHHT và HTSĐ vào nội dung bắt buộc trong chương trình, kế hoạch hoạt động, thi đua hằng năm và từng giai đoạn của các ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể, tổ chức và doanh nghiệp. Hằng năm tổ chức sơ kết đánh giá kết quả thực hiện và báo cáo ban chỉ đạo xây dựng XHHT cấp tỉnh.
- Phân công nhiệm vụ rõ ràng đối với các sở, ngành, tổ chức, đoàn thể và các huyện. Tất cả các sở, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội đều có trách nhiệm cung ứng HTSĐ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc ngành mình được HTSĐ.
Thứ bảy, xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích người học.
- Các sở, ban, ngành phải có quy định về việc học tập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; hằng năm xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, thúc đẩy việc tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng của cán bộ, công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức; đổi mới cơ chế đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.
- Chính quyền địa phương cần tác động với chủ doanh nghiệp để hỗ trợ công nhân (thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất) tham gia học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp mà không ảnh hưởng đến công việc, đến thu nhập của công nhân lao động. 
- Các thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ,... cần có những dịch vụ học tập để người học thuận lợi trong việc tiếp cận những thông tin, tri thức mới, những công nghệ mới./.
Nguyễn Hữu Độ
TS, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo


http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2019/54121/Xay-dung-xa-hoi-hoc-tap-nham-chan-hung-nen-giao-duc.aspx

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC PHẨM “ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG” ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC PHẨM “ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG” ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, ở miền Bắc, nhân dân ta bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Ngay trong bối cảnh mới của sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy những khó khăn, phức tạp của chặng đường trước mắt, nhất là những bất cập, hạn chế trong công tác cán bộ; trong đó nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân có thể gây hại to lớn cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc và nhân dân ta. Xuất phát từ thực tiễn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo đức cách mạng. Bài viết đăng trên Tạp chí Học tập - tạp chí lý luận của Đảng, nay là Tạp chí Cộng sản, vào tháng 12-1958.
60 năm đã trôi qua, nhưng tác phẩm Đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, mang tính thời sự, có ý nghĩa giáo dục to lớn, chỉ đạo cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và trở thành phương châm hành động, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên hôm nay.
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân - dòng chảy xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của cán bộ, đảng viên và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho những người yêu nước, cán bộ, đảng viên, thanh niên và cho quần chúng nhân dân. Hầu như bài nói, bài viết nào của Người cũng đều đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng. Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc đi xa, Người vẫn đau đáu dặn dò: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(1).
Là một danh nhân văn hóa thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu những điểm mạnh, điểm yếu của một xã hội Á Đông duy tình, vốn vẫn còn nhiều truyền thống cổ hủ, thói quen lạc hậu. Khác với tư tưởng duy lý của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản phương Tây, Người nhận ra rằng, sự nghiệp cách mạng Việt Nam phải bắt đầu từ việc “làm cho dân giác ngộ”(2); phải giáo dục đạo đức cách mạng và xây dựng được những con người cách mạng chân chính. Đây là nguồn cội để khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của toàn dân tộc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Đạo đức cách mạng là nền tảng để kiên định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, làm nên giá trị cao quý của một chính đảng kiểu mới, là trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”(3).
Ngay từ phần mở đầu của tác phẩm Đường Kách mệnh in năm 1927, cuốn giáo trình đầu tiên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã viết về tư cách một người cách mạng. Đó là những phẩm chất, yêu cầu đối với người tự nguyện đi theo con đường cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc, tin tưởng và đi theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cùng với lý luận cách mạng tiền phong soi đường, đảng cách mạng tiền phong trước tiên cần những người cách mạng để có thể gánh vác được trách nhiệm cách mạng tiền phong. Điều này tiếp tục được Người làm rõ hơn, nhấn mạnh hơn, nhắc lại nhiều lần ở những tác phẩm sau này, như “Sửa đổi lối làm việc”, “Đời sống mới”, “Thi đua ái quốc”, “Dân vận”,... và được đúc kết một cách có hệ thống trong tác phẩm Đạo đức cách mạng và bài báo cuối cùng của Người về xây dựng Đảng với tiêu đề “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, đăng trên Báo Nhân dân, ngày 03-02-1969.
Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(4).
Phẩm chất đạo đức cách mạng đầu tiên phải là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”. Đây là “điều chủ chốt nhất”, “tiêu chuẩn số một” của người cách mạng. Khi tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, mỗi đảng viên phải nhận thức rõ trách nhiệm của bản thân là tự nguyện cống hiến, tự nguyện hy sinh, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và của dân tộc.
Hai là, phải “ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng”(5). Quyết tâm làm việc, đấu tranh cho Đảng phải được thể hiện bằng những hành động cụ thể, mang lại kết quả cụ thể trong thực tế, giúp hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng; đồng thời giúp Đảng không ngừng được xây dựng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà nhân dân giao phó.
Ba là, phải “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”(6). Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Lợi ích của mỗi cán bộ, đảng viên nằm trong và tuyệt đối phục tùng lợi ích chung của Đảng, của dân tộc. Cán bộ, đảng viên phải là những tấm gương sáng trong phụng sự Đảng, phục vụ nhân dân. Nhận thức sâu sắc về tác dụng to lớn của việc giáo dục nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: trong Đảng ta, nhiều đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập.
Bốn là, “ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”(7). Người chỉ ra rằng: “có học tập lý luận Mác - Lê-nin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”(8). Học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học tập “tinh thần xử trí mọi việc”, là học tập những “chân lý phổ biến” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, học để mà làm, lý luận đi đôi với thực tiễn; tránh học tập một cách máy móc, giáo điều, hoặc học để làm trang sức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, muốn nâng cao đạo đức cách mạng, trước hết phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, cũng giống như phải quét dọn nhà cửa sạch sẽ rồi mới khiêng vào bàn ghế, giường tủ mới mua sắm được(9). Chủ nghĩa cá nhân chính là vết tích xấu nhất, nguy hiểm nhất của xã hội cũ, “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”; “bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”. Bản chất chủ nghĩa cá nhân là “trái ngược với chủ nghĩa tập thể”, “trái ngược với đạo đức cách mạng”, “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”.
Chủ nghĩa cá nhân có những biểu hiện rất đa dạng, như yêu cầu hưởng thụ, nghỉ ngơi, muốn lựa chọn công tác theo ý mình, không muốn làm công tác mà đoàn thể giao phó; muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng; “kể công” với Đảng, muốn Đảng “cảm ơn”, đòi ưu đãi, đòi danh dự, địa vị và nếu không thỏa mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng; kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại; phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình mình, không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, không nghiêm chỉnh; xem khinh những cán bộ ngoài Đảng; xa rời quần chúng, không muốn học hỏi mà chỉ muốn làm thầy quần chúng; ngại làm công tác tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng,... Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, những người mắc phải bệnh chủ nghĩa cá nhân như vậy thì: “Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì”(10).
Bởi vậy, Người nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân làm “che lấp đạo đức cách mạng”; là một thứ bệnh gốc, bệnh mẹ “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, v.v.”(11) và luôn chờ dịp để ngóc đầu dậy, nên quét sạch chủ nghĩa cá nhân là việc làm đầu tiên, đồng thời phải làm thường xuyên để bảo vệ uy tín của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ cho Đảng luôn trong sạch. Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng là nhiệm vụ trọng yếu, đầy bản lĩnh của xây dựng, chỉnh đốn đảng - một việc mà theo Người, phải làm liên tục, thường xuyên, lâu dài, khi cách mạng gặp khó khăn để xây dựng thái độ bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường, lý tưởng, cũng như khi cách mạng trên đà thắng lợi, để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn(12).
Tác phẩm “Đạo đức cách mạng” là chỉ dẫn quý báu cho việc tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong của cán bộ, đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi”, bởi “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(13).
Học tập, tu dưỡng đạo đức cách mạng không chỉ ở nhà trường, mà ở mọi lúc, mọi nơi, trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, trong hoạt động lý luận và thực tiễn; trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng; trong các mối quan hệ với mình, với người và với công việc. Tháng 9-1949, trong buổi lễ khai giảng lớp học đầu tiên của Trường Đảng cao cấp mang tên Nguyễn Ái Quốc, tại vùng Định Hóa, Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Lời di huấn đó đã trở thành tôn chỉ mục đích trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, trong việc học tập và tu dưỡng đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thấm nhuần, ghi nhớ.
Trong khi kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất cẩn trọng nhắc nhở chúng ta không nên hiểu và làm việc này một cách máy móc mà cần phân biệt một cách khoa học, tinh tế giữa chủ nghĩa cá nhân vị kỷ như một thế giới quan xấu xa, sự lệch lạc thái quá của bệnh cá nhân chủ nghĩa với lợi ích chính đáng của cá nhân. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”, không phải là chống cá nhân. Coi thường cá nhân, phủ nhận cá nhân là điều đi ngược với tinh thần biện chứng mác-xít, bởi: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”(14). Theo Người, “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”(15). Do đó, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình là “vũ khí sắc bén”, góp phần phát hiện sớm những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên để kịp thời chỉnh đốn, sửa chữa; đặc biệt là phải phát huy vai trò tích cực giám sát của nhân dân trong thực hiện tự phê bình và phê bình.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước, cùng với việc coi “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm”, Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định: “xây dựng Đảng là then chốt”. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XII, Đảng đã hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng toàn diện, cả về tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ và đạo đức, trong đó công tác cán bộ, lựa chọn những người có đức, có tài, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng là “then chốt” của “nhiệm vụ then chốt”.
Thời gian qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4, về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 7, về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Và sắp tới, Bộ Chính trị sẽ ban hành Quy định về kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền; Ban Bí thư sẽ ban hành Chỉ thị về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng,... Trung ương xác định, đây là những nhiệm vụ cần thực hiện cấp bách và thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các địa phương, đơn vị theo phương châm chỉnh đốn, xây dựng Đảng toàn diện, trong sạch, liêm chính, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước và xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Từ thực tiễn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là công tác cán bộ của Đảng hiện nay, chúng ta càng thấy rõ các chỉ dẫn về xây dựng đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị và có tính thời sự sâu sắc; càng ý thức được lời dặn của Người: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(16).
Việc không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên, cũng giống như việc tạo ra những kháng thể tốt, ngăn chặn, miễn nhiễm, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn quyết liệt chống phá của các thế lực phản động, thù địch đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Phải hết sức vững vàng trên nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối không được dao động, mơ hồ. Phải đặc biệt coi trọng nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng; khắc phục bệnh “lười học lý luận chính trị” của cán bộ, đảng viên. Đây là yêu cầu trọng tâm của công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng phải đi đôi với vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận trong thực tiễn. Cán bộ, đảng viên đi học không phải để tiếp nhận những thứ lý luận giáo điều, xơ cứng rồi nói lại, hoặc vận dụng một cách máy móc, áp đặt chủ quan; lại càng không được đi học để “lấy bằng, khoe chữ”, mà phải học thật sự, trước hết là học về phương pháp tư duy, phương châm hành động, phương cách vận dụng theo tinh thần đổi mới, sáng tạo.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đang thay đổi nhanh chóng đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp phải thường xuyên được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng theo phương châm “cơ bản, hệ thống, thực tiễn và hiện đại”, nhất là luôn bám sát hơi thở của cuộc sống; từ cuộc sống gần dân, từ nguyện vọng của nhân dân mà học để phục vụ nhân dân. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng phải bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, cập nhật thực tiễn và tổng kết thực tiễn để phát triển và hoàn thiện.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần có ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức hằng ngày và quan trọng hơn là hằng ngày phải “thực hành đạo đức cách mạng”. Đảng yêu cầu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để cho cán bộ, đảng viên tự soi mình, sửa mình, tự rèn luyện những phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; quét sạch mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ để được nhân dân tin yêu, quý mến. Cán bộ, đảng viên không phải chỉ đi tuyên truyền “suông” mà cần thật sự đi đầu, tạo sức lan tỏa trong nhân dân về việc nghiêm túc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(17)./.
-------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 622
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 288
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 403
(4), (5), (6), (7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 601, 603, 611
(9) Vũ Kỳ: Bác Hồ viết bài báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Báo Nhân Dân, ngày 30-1-1999
(10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 609, 611
(12) Xem: Phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bế mạc Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Tạp chí Cộng sản số 4 (2-1999)
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 612
(14), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 610, 608
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 284
Nguyễn Xuân ThắngGS, TS, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2019/54073/Gia-tri-ly-luan-va-thuc-tien-cua-tac-pham-Dao-duc.aspx
MƯU ĐỒ XẢO QUYỆT CỦA “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
An Nhiên
Mục tiêu xuyên suốt không thay đổi của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam đang xây dựng đưa Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, chịu sự chi phối của phương Tây. Để tiếp tục thực hiện mục tiêu đó, các thế lực thù địch đã kịp thời rút kinh nghiệm, điều chỉnh chính sách, thủ đoạn như bỏ cấm vận kinh tế và bình thường hoá quan hệ về ngoại giao. Nếu chỉ nhìn thuần túy về hình thức thì những thay đổi đó có vẻ “thân thiện hơn”, nhưng thực chất các thế lực thù địch đang sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng nước ta với cường độ, quy mô quyết liệt hơn.
Các thế lực thù địch đang thực hiện phương châm: hành động chống phá thì quyết liệt nhưng thủ đoạn phải rất mềm dẻo, vừa công khai, vừa bí mật, đẩy mạnh các hoạt động thâm nhập “chui sâu, leo cao” vào các tổ chức của ta để trong đánh ra, ngoài đánh vào. Thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam rất linh hoạt, phong phú và cũng rất khó phân định một cách rạch ròi. Những thủ đoạn chống phá của chúng được biểu hiện cụ thể đó là:
Thứ nhất, điều chỉnh chính sách đối với Việt Nam, tăng cường hợp tác nhiều mặt qua đó thâm nhập, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến” ở Việt Nam. Các thế lực thù địch bên ngoài xác định, bằng mọi giá phải thay đổi cơ chế chính trị của Việt Nam, đồng thời phá vỡ quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc”, lôi kéo Việt Nam ngả về phía Mỹ và phương Tây. Vì vậy, Mỹ chủ trương dùng tài trợ, cố vấn, chuyên gia…tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các chương trình chiến lược của Việt Nam, để từng bước “chuyển hóa”, làm chệch đường lối, chính sách và pháp luật Việt Nam. Họ cho rằng, để “chuyển hóa” được chế độ chính trị ở Việt Nam thì vấn đề tiên quyết phải làm triệt tiêu các giá trị làm nên chế độ cộng sản; đồng thời phải xây dựng một ý thức hệ, một hệ thống lý luận chính trị có khả năng làm triệt tiêu chủ nghĩa cộng sản và làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng một giai cấp mới ở Việt Nam.
Thứ hai, tạo môi trường và điều kiện hình thành “xã hội dân sự”, tạo cơ hội để thành lập các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện công khai. Từ đó làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam không kiểm soát được tình hình, tạo tình thế “không thể không thay đổi” dẫn đến đột biến chính trị – xã hội. Từng bước “dân chủ hóa chính quyền”, cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng để có điều kiện tạo áp lực xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Đẩy mạnh hoạt động xâm nhập, móc nối, tác động, “chuyển hóa” vào nội bộ Việt Nam. Các thế lực thù địch nhận định, lực lượng ngầm trong nội bộ Đảng, Nhà nước Việt Nam có tính chất quyết định, nòng cốt cho việc chuyển hóa, thúc đẩy “tự diễn biến” trong nội bộ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc thúc đẩy “chuyển hóa” trong nội bộ lãnh đạo của Việt Nam phải thực hiện bằng cách xây dựng “đội ngũ mới” (lực lượng đối lập trong Đảng, chính quyền), đẩy mạnh vấn đề “dân chủ phương Tây” trong nội bộ Việt Nam, và hình thành cho được lực lượng đối lập trong nội bộ Việt Nam. Mặt khác, các thế lực phương Tây tìm cách thúc đẩy tham nhũng, đồng thời lợi dụng chống tham nhũng và những thiếu sót của Đảng Cộng sản Việt Nam để kích động, gây chia rẽ, tạo sự hoài nghi, mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân. Tích cực lôi kéo các phần tử “đỏ vỏ xanh lòng” để xây dựng lực lượng trong nội bộ ta, từng bước thực hiện ý đồ “dùng cộng sản lật đổ cộng sản”, làm tê liệt hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tác động hướng lái lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Chúng cho rằng, đây là một trong những mũi đột phá, là con đường xâm nhập chuyển hóa nhanh nhất. Các thế lực thù địch cho rằng, để thay đổi Việt Nam cần phải dựa vào quy luật toàn cầu về kinh tế và chất xám của thế hệ trẻ Việt Nam được học tập, đào tạo ở phương Tây. Đồng thời khẳng định: Hợp tác giáo dục là con đường ngắn nhất để cải thiện hình ảnh dân chủ theo kiểu phương Tây trong mắt người Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy xã hội dân sự ở Việt Nam. Thúc đẩy các chương trình, dự án liên quan đến giáo dục – đào tạo đã được ký với Việt Nam, không ngừng đặt điều kiện yêu cầu Việt Nam loại bỏ các môn học chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nội dung giảng dạy; giảng viên và sinh viên được tự do tư tưởng, không bị chi phối hoặc phụ thuộc bất cứ một hệ tư tưởng nào.
          Thứ tư, tiếp tục lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền, tự do, tôn giáo” để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc cổ vũ “dân chủ, nhân quyền” là yếu tố quan trọng trong chính sách ngoại giao của Mỹ đối với Việt Nam. Do đó họ đã tăng cường giám sát và yêu cầu tôn trọng “dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo”, tranh thủ tạo áp lực ngoại giao ở mọi cấp độ đối với Việt Nam. Thường xuyên đưa nhân viên ngoại giao đến các địa phương để “khuyến khích” các hoạt động thúc đẩy “dân chủ” và “tự do tôn giáo” theo quan điểm của Mỹ và phương tây. Trên thực tế các nước phương Tây đã dùng nhiều biện pháp, trong đó huy động tối đa hệ thống truyền thông để tuyên truyền xuyên tạc tình hình, vu cáo Việt Nam “thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, không có tự do tôn giáo, đối xử không công bằng với người dân”. Tìm mọi cách luật hóa vấn đề “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc” và lập ra nhiều tổ chức theo dõi vấn đề này nhằm áp đặt theo kiểu Mỹ.
Thứ năm, hỗ trợ, chỉ đạo lực lượng phản động chống đối chính trị ở trong và ngoài nước tiến hành các hoạt động chống Việt Nam. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam chúng tăng cường đả phá đường lối, quan điểm của Đảng, nhất là đường lối kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục chống phá thần tượng Hồ Chí Minh. Đối với Nhà nước, chúng đòi nâng cao dân trí về chính trị, chấp nhận tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do in ấn, phát hành các ấn phẩm, tài liệu tham khảo về chính trị, pháp luật, dân chủ, nhân quyền. Đối với quần chúng nhân dân (chủ yếu là học sinh, sinh viên, trí thức ở các thành phố, du học sinh và kiều bào) tập trung vào các vấn đề như: Họ đưa ra những “nguyên nhân” bất ổn định chính trị, chậm phát triển kinh tế ở Việt Nam; các sự kiện lịch sử về “chiến tranh Nam – Bắc”; chủ quyền biển, đảo…
Thứ sáu, tiếp tục lôi kéo, chuyển hóa quân đội nhằm từng bước làm suy yếu và phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững là do vẫn nắm được lực lượng vũ trang. Nếu làm cho lực lượng vũ trang biến chất, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mất chỗ dựa, mất một công cụ đắc lực thực hiện chuyên chính vô sản, khi đó chế độ xã hội chủ chủ nghĩa Việt Nam sẽ tan rã giống như các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây. Vì vậy, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục thúc ép các nước đồng minh tăng cường hợp tác với Quân đội Việt Nam trong một kế hoạch cụ thể như: hợp tác hoặc viện trợ về y tế cho các cơ sở, trung tâm, viện nghiên cứu quân y của Quân đội Việt Nam để đẩy nhanh quá trình tiếp cận và ”chuyển hóa”; kích động và hô hào “dân sự hóa quân đội”, kêu gọi Quân đội “bỏ Đảng, trở về với dân tộc”; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, từng bước làm giảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
Tóm lại, nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch đối với việc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều đó, đòi hỏi các cấp, các ngành, các lực lượng phải tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới. Đây là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách và là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, góp phần bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang ra sức xây dựng./.



CHỦ ĐỘNG PHÒNG NGỪA TƯ TƯỞNG DÂN TỘC HẸP HÒI, TÔN GIÁO CỰC ĐOAN

CHỦ ĐỘNG PHÒNG NGỪA TƯ TƯỞNG DÂN TỘC HẸP HÒI, TÔN GIÁO CỰC ĐOAN
                                                                   An Nhiên
Một trong những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ ra là: “Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước”. Đây là những biểu hiện hết sức nguy hiểm mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc và gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ, cùng với đó chúng tăng cường xây dựng, phát triển những phần tử phản động ở trong nước để chống phá cách mạng từ bên trong là chủ yếu, thay cho ý đồ trước đây là sử dụng lực lượng chống phá từ bên ngoài. Một trong những chiêu trò mà các thế lực thù địch, cùng các phần tử cơ hội chính trị đang thực hiện là kích động để phát triển mạnh “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan tôn giáo” hòng tạo ra cuộc chiến ngay trong nội bộ, với cảnh “nồi da nấu thịt” như đã diễn ra ở một số nước.
Thực chất của “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”: là tư tưởng khép kín, biệt lập, bảo thủ, bài ngoại, ngờ vực dân tộc khác… Tư tưởng này thường hay nhấn mạnh đặc điểm riêng biệt của dân tộc, không thấy rõ lợi ích của quốc gia và tương lai của đất nước mình. Họ không muốn tiếp thu sự giúp đỡ và những kinh nghiệm hay những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác. Nếu kích động thành công “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”, cũng có nghĩa dung dưỡng cho quan điểm đề cao lợi ích cục bộ của mỗi dân tộc, chia rẽ tình đoàn kết thống nhất và từ bỏ những lợi ích chung của dân tộc Việt Nam để kích động đồng bào dân tộc ít người đấu tranh đòi thành lập “Nhà nước riêng”, có vua riêng như đang kích động đối với đồng bào Mông, Khơ-me… hiện nay. Mục đích của “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi” là chia cắt đất nước ta thành nhiều vùng miền, khu vực tự trị của đồng bào dân tộc thiểu số và không phụ thuộc vào Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thay vào đó sẽ là lực lượng chính trị phản động nắm giữ…
Thực chất tư tưởng tôn giáo cực đoan: là tuyệt đối hóa tính biệt lập, đặc thù của mỗi tôn giáo, đề cao tôn giáo mình, phủ nhận hoặc xem thường với thái độ miệt thị các tôn giáo khác và những người không theo tôn giáo; chỉ thấy quyền lợi của tôn giáo mình, chà đạp lên quyền lợi của tôn giáo khác và nuôi dưỡng ngày càng sâu mối hận thù với các dân tộc, tôn giáo khác… Tư tưởng cực đoan tôn giáo thường xuất hiện ở những chức sắc, những tín đồ có những biểu hiện cực đoan, đối lập với chính quyền cơ sở hoặc những nhà hoạt động xã hội nhân danh là vì dân, cùng với sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch từ bên ngoài nhằm xây dựng những “cốt cán” trong tôn giáo như những vị cha sứ Nguyễn Đình Thục; Nguyễn Hữu Nam đã đi ngược lại với đạo lý và giáo lý… Bản chất sâu kín bên trong của “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và cực đoan tôn giáo” là công cụ mềm để thực hiện ý đồ cứng nhằm xây dựng những “cốt cán” trong nước, từng bước nắm giữ, khống chế đồng bào các dân tộc, các giáo dân để hình thành lực lượng đối trọng với chính quyền, cao hơn nữa là gây mâu thuẫn, xung đột dân tộc và đẩy tới ly khai, tự trị ở các vùng dân tộc thiểu số, lãnh địa độc lập của các tôn giáo.
Mục đích kích động “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và cực đoan tôn giáo” của các thế lực thù địch: là nhằm gieo rắc, phát triển ở các vùng, miền của đất nước, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo… tạo dựng được những lực lượng phản động bên trong đối lập với Đảng, Nhà nước và chính quyền cơ sở. Tập trung tạo dựng các ngọn cờ là những kẻ có tư tưởng cực đoan trong dân tộc với cực đoan trong tôn giáo, dựa vào hình tượng, quyền uy của bề trên tối cao là “vua, chúa” để dụ dỗ và lôi kéo dân lành theo kịch bản đã định trước của chúng. Khi lôi kéo, tụ tập được đám đông quần chúng “nhẹ dạ cả tin” thì chúng sẽ đưa ra những lời lẽ xúi giục, kích động mọi người tham gia biểu tình, gây rối, vi phạm pháp luật… Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam đã chứng minh, các nước đế quốc có âm mưu thôn tính nước ta đã tính toán đến âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để tạo dựng tay chân từ bên trong để chống phá cách mạng. Khi đã xâm lược đất nước ta thì kẻ thù tìm cách mua chuộc, lôi kéo những người có uy tín như già làng, trưởng bản trong các dân tộc thiểu số; giáo sĩ, tín đồ các tôn giáo để thực hiện mục đích cai trị. Thời kỳ chúng ta bước vào công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ để thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang còn vững mạnh, không thể chuyển hóa ngay được nội bộ nên phải thực hiện từng bước. Con đường, biện pháp hữu hiệu để làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam suy yếu vẫn là dùng chiêu bài gieo rắc tư tưởng “dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan” vào trong nội bộ ta, nhất là cán bộ, đảng viên, công chức… hòng tạo ra những “chiến binh” phá hoại an ninh, gây mất trật tự, mất ổn định xã hội cùng với sự hỗ trợ từ bên ngoài sẽ từng bước làm cho Việt Nam “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và tự sụp đổ.
Chủ động phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan, làm thất bại âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam là trách nhiệm của mỗi chúng ta. Để công việc ấy tiến hành có hiệu quả, trước hết cần tuyên truyền cho nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa và đồng bào tôn giáo có nhận thức sâu sắc về “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan tôn giáo”, sự nguy hại của nó để chủ động phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh. Đồng thời qua tuyên truyền, làm cho nhân dân thấy rõ ý đồ đen tối của các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài kích động “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan tôn giáo” nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chú trọng tuyên truyền về truyền thống quý báu trong lịch sử dân tộc Việt Nam; mỗi dân tộc, mỗi loại hình tín ngưỡng, tôn giáo có nguồn gốc, đặc điểm và thời điểm hình thành, sự phát triển khác nhau, nhưng đều có điểm chung đó là tinh thần bao dung, đoàn kết giữa các thành phần dân tộc, đoàn kết lương giáo trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc, các tín đồ ở mỗi tôn giáo đã không tiếc sức người, sức của góp phần to lớn làm nên thắng lợi hào hùng trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhiều chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã hướng dẫn tín đồ chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước” được vinh danh.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...