Xây dựng nền quốc phòng
toàn dân là quan điểm cơ bản được khẳng định trong văn kiện các kỳ đại hội của
Đảng. Thấu suốt quan điểm đó và với sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta, những năm qua, nền quốc phòng toàn dân đã được quan tâm xây
dựng, tăng cường về mọi mặt, đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình
huống, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy đã
đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng trước tình hình mới, với những đặc
điểm và yêu cầu mới, đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn,
đang đặt ra những vấn đề mới cần tập trung giải quyết trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Trước
hết, cần nhận thức, quán triệt
sâu sắc quan điểm của Đảng về quốc phòng, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân
trong tình hình mới. Hiện nay, thế giới có những quan niệm khác
nhau về quốc phòng1, dẫn tới công tác chỉ đạo, quản lý, tổ chức quốc
phòng của mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau. Đối với nước ta, quốc phòng là:
“công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối
ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học,… của Nhà nước và nhân
dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh
quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn những hoạt động
gây chiến của kẻ thù dưới mọi hình thức, quy mô”2. Khái niệm trên
thống nhất với quan điểm của Đảng ta về quốc phòng; chỉ rõ nội hàm quốc phòng,
yêu cầu, mục tiêu xây dựng nền quốc phòng.
Theo
đó, chúng ta cần nhận thức rõ đặc
trưng quốc phòng Việt Nam là quốc phòng toàn dân; nghĩa là toàn dân
tham gia xây dựng nền quốc phòng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai
trò nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của
Nhà nước. Nguồn lực quốc phòng, gồm: nguồn lực từ ngân sách Nhà nước và nguồn
lực được huy động từ nhân dân (tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước). Như vậy,
cùng với nguồn lực Nhà nước (ngân sách) thì dựa vào dân, huy động nguồn lực từ
nhân dân để xây dựng nền quốc phòng là đặc trưng nổi bật của quốc phòng Việt
Nam. Nó khác với nhiều quốc gia về cách thức tổ chức xây dựng quốc phòng chủ
yếu dựa vào nguồn lực nhà nước; trong khi nguồn lực của nhà nước dù lớn vẫn là
“hữu hạn”, còn nguồn lực từ nhân dân thì luôn là “vô hạn”, điều đó thể hiện
tính ưu việt của nền quốc phòng toàn dân. Một điểm quan trọng cần quán triệt
là tính chất hòa bình, tự
vệ của quốc phòng Việt Nam. Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta thường
xuyên chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực và sức mạnh
quốc phòng là để tự vệ - phòng giữ đất nước, ngoài ra không có mục đích nào
khác; hay nói rõ hơn, không nhằm xâm lược hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với
bất cứ quốc gia nào. Quan điểm này đã được khẳng định rõ trong các văn kiện của
Đảng và “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam”, cũng như trong hoạt động đối ngoại
tại các hội nghị, diễn đàn quốc tế có liên quan. Mục tiêu tăng cường quốc phòng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh từ sớm, từ xa; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm
lược dưới mọi hình thức, quy mô nếu các thế lực thù địch liều lĩnh tiến hành.
Đảng ta nhận định, trong thời gian tới khó có khả năng xảy ra chiến tranh xâm
lược quy mô lớn đối với nước ta, nhưng khó không có nghĩa là không thể, khả
năng đó chưa hoàn toàn bị loại trừ. Do đó, chúng ta phải thường xuyên cảnh
giác, chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đó là cách tốt nhất
bảo đảm hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải coi
trọng tính toàn diện, tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở.
Nội hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân rất rộng, gồm nhiều việc, nhiều mặt
hoạt động trên các lĩnh vực, trong đó xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
(cốt lõi là thế trận khu vực phòng thủ cấp tỉnh, huyện, thế trận phòng thủ quân
khu) là một nội dung trọng tâm. Yêu cầu đặt ra là, thế trận quốc phòng toàn dân
cần phải được xây dựng vững chắc ở tất cả các cấp, trên các địa bàn, cả trong
nội địa, biên giới, biển, đảo và trên các môi trường (không, bộ, biển, không
gian mạng,…). Tiềm lực và sức mạnh quốc phòng được biểu hiện tập trung ở sức
mạnh quân sự. Do đó, trong quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải
coi trọng xây dựng thế trận quân sự; trọng tâm là bố trí lực lượng, thiết bị
quân sự, công trình phòng thủ,… theo kế hoạch, phương án tác chiến các cấp. Tuy
nhiên, tình hình luôn biến động, tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
nên cần căn cứ vào đó và khả năng, thực lực của ta để có sự bổ sung, điều chỉnh
kịp thời, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, đảm bảo có thế trận quân sự
liên hoàn, vững chắc trên các địa bàn, nhất là trên hướng biên giới, biển, đảo.
Quán triệt quan điểm của Đảng về kết hợp quốc phòng với an ninh và xuất phát từ
tình hình hiện nay, cần gắn kết chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế
trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân, tạo điều kiện thuận lợi
cho các lực lượng quân sự, công an, biên phòng, hải quân, cảnh sát biển,… phối
hợp hoạt động, chủ động xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống xảy ra,
không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đặc biệt, cần tiếp tục xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc ngay từ cơ sở thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp,
chính sách, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo; bồi đắp lòng tin của nhân nhân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo
nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
Tập trung xây dựng lực lượng quốc phòng, trọng tâm
là lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong
xây dựng và hoạt động của nền quốc phòng toàn dân. Chúng ta biết, quốc phòng
toàn dân và chiến tranh nhân dân là đường lối, quan điểm nhất quán của Đảng,
xuyên suốt mọi giai đoạn cách mạng. Theo đó, trong chiến tranh, lực lượng tiến hành
là toàn dân và trong thời bình thì lực lượng tham gia quốc phòng cũng là toàn
dân; trong đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân là nòng cốt. Để có tiềm lực và
sức mạnh quốc phòng, điều quan trọng là đi đôi với việc xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân vững chắc, phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh,
sức chiến đấu cao. Hơn nữa, xét đến cùng, không có lực lượng mạnh thì cũng
không có thế trận vững chắc, do đó xây dựng lực lượng cũng là nhằm tăng cường
thế trận quốc phòng toàn dân. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, cần tập trung “xây dựng Quân đội nhân dân… cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng”3. Trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, phải xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt, trước hết là
vững mạnh về chính trị, có trình độ và khả năng tác chiến đạt mức tinh nhuệ,
đảm bảo cho Quân đội thực sự là lực lượng “thiện chiến” theo đúng nghĩa của từ
này, tức là cả trong tác chiến chống giặc ngoại xâm và đấu tranh chống giặc nội
xâm. Quân đội nhân dân không chỉ làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc, mà còn là lực lượng quan trọng, đi đầu trong đấu tranh làm thất bại âm
mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ cương lĩnh,
đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng như đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
Cùng với xây dựng lực lượng thường trực, cần quan tâm xây dựng lực lượng dự bị
động viên hùng hậu, chất lượng cao; chú trọng đổi mới công tác tổ chức, quản
lý, huấn luyện,… để không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và đảm bảo sẵn
sàng động viên khi cần thiết. Thường xuyên xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
“vững mạnh, rộng khắp”; coi trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ,
thường trực, dân quân tự vệ biển, phòng không và tiếp tục mở rộng xây dựng đơn
vị tự vệ trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (đủ điều kiện).
Để
tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho
lực lượng vũ trang nhân dân và đáp ứng yêu cầu từng bước hiện đại hóa Quân đội
theo định hướng của Đảng, cần tiếp tục xây dựng, phát triển nền công nghiệp
quốc phòng độc lập, tự chủ, hiện đại. Trước đây, do nguồn lực của đất nước có
hạn, chúng ta không đủ điều kiện để thực hiện, nhưng hiện nay tình hình đã
khác, có nhiều thuận lợi để hiện thực hóa mục tiêu này. Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng đã và đang chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011
của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng
đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trọng tâm là thực hiện có hiệu quả quy
hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2025, tầm nhìn 2035; tập trung
vào các chương trình, dự án trọng điểm và xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc
phòng công nghệ cao, phấn đấu làm chủ công nghệ chế tạo một số loại vũ khí,
trang bị mới, hiện đại cho lục quân, quân chủng, binh chủng; xây dựng nền công
nghiệp quốc phòng gắn với nền công nghiệp quốc gia.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố, tạo cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện trong
tình hình mới. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là chủ
trương chiến lược đúng đắn của Đảng được triển khai thực hiện từ năm 1987. Đến
nay đã đạt được những kết quả quan trọng, thiết thực nâng cao khả năng phòng
thủ của mỗi địa phương và cả nước. Qua nhiều năm thực hiện, chúng ta đã đúc kết
được nhiều kinh nghiệm quý về xây dựng, hoạt động, vận hành cơ chế lãnh đạo;
đồng thời, cũng thấy rõ những hạn chế, bất cập cần khắc phục. Vì thế, trong
thời gian tới, các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương và các lực
lượng đứng chân trên địa bàn cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ
Chính trị (khoá X), tăng cường phối hợp xây dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh,
huyện vững mạnh và phòng thủ quân khu theo Nghị định 21/2019/NĐ-CP của Chính
phủ. Trong quá trình phối hợp thực hiện, nêu cao trách nhiệm, khắc phục nhận
thức lệch lạc cho rằng đây là nhiệm vụ của địa phương, dẫn tới tham gia thiếu
chủ động, tích cực, kết quả thấp. Đối với địa phương, căn cứ vào quy hoạch tổng
thể để thực hiện các đề án, kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ đạt hiệu quả
thiết thực, tránh lãng phí nguồn lực. Nội dung trọng tâm của khu vực phòng thủ
là xây dựng các tiềm lực, trong đó tiềm lực chính trị - tinh thần là cơ sở,
tiềm lực kinh tế là nền tảng, tiềm lực quân sự là cốt lõi; gắn chặt giữa xây
dựng với hoạt động thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ở mỗi địa phương,
cơ sở.
Để
thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược này, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp,
khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Theo đó, cùng với việc phát huy nội
lực là chính, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tận dụng nguồn lực từ bên ngoài
phục vụ cho quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh,
đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1 -
Có nước quan niệm quốc phòng là một bộ phận của an ninh.
2 -
Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự, Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H. 2004, tr.
848.
3 -
ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 149.