Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2020

MẤY VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG TÌNH HÌNH MỚI



Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản được khẳng định trong văn kiện các kỳ đại hội của Đảng. Thấu suốt quan điểm đó và với sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, những năm qua, nền quốc phòng toàn dân đã được quan tâm xây dựng, tăng cường về mọi mặt, đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng trước tình hình mới, với những đặc điểm và yêu cầu mới, đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn, đang đặt ra những vấn đề mới cần tập trung giải quyết trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Trước hết, cần nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về quốc phòng, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Hiện nay, thế giới có những quan niệm khác nhau về quốc phòng1, dẫn tới công tác chỉ đạo, quản lý, tổ chức quốc phòng của mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau. Đối với nước ta, quốc phòng là: “công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học,… của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn những hoạt động gây chiến của kẻ thù dưới mọi hình thức, quy mô”2. Khái niệm trên thống nhất với quan điểm của Đảng ta về quốc phòng; chỉ rõ nội hàm quốc phòng, yêu cầu, mục tiêu xây dựng nền quốc phòng.
Theo đó, chúng ta cần nhận thức rõ đặc trưng quốc phòng Việt Nam là quốc phòng toàn dân; nghĩa là toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nước. Nguồn lực quốc phòng, gồm: nguồn lực từ ngân sách Nhà nước và nguồn lực được huy động từ nhân dân (tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước). Như vậy, cùng với nguồn lực Nhà nước (ngân sách) thì dựa vào dân, huy động nguồn lực từ nhân dân để xây dựng nền quốc phòng là đặc trưng nổi bật của quốc phòng Việt Nam. Nó khác với nhiều quốc gia về cách thức tổ chức xây dựng quốc phòng chủ yếu dựa vào nguồn lực nhà nước; trong khi nguồn lực của nhà nước dù lớn vẫn là “hữu hạn”, còn nguồn lực từ nhân dân thì luôn là “vô hạn”, điều đó thể hiện tính ưu việt của nền quốc phòng toàn dân. Một điểm quan trọng cần quán triệt là tính chất hòa bình, tự vệ của quốc phòng Việt Nam. Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta thường xuyên chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng là để tự vệ - phòng giữ đất nước, ngoài ra không có mục đích nào khác; hay nói rõ hơn, không nhằm xâm lược hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với bất cứ quốc gia nào. Quan điểm này đã được khẳng định rõ trong các văn kiện của Đảng và “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam”, cũng như trong hoạt động đối ngoại tại các hội nghị, diễn đàn quốc tế có liên quan. Mục tiêu tăng cường quốc phòng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ sớm, từ xa; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô nếu các thế lực thù địch liều lĩnh tiến hành. Đảng ta nhận định, trong thời gian tới khó có khả năng xảy ra chiến tranh xâm lược quy mô lớn đối với nước ta, nhưng khó không có nghĩa là không thể, khả năng đó chưa hoàn toàn bị loại trừ. Do đó, chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đó là cách tốt nhất bảo đảm hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải coi trọng tính toàn diện, tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở. Nội hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân rất rộng, gồm nhiều việc, nhiều mặt hoạt động trên các lĩnh vực, trong đó xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (cốt lõi là thế trận khu vực phòng thủ cấp tỉnh, huyện, thế trận phòng thủ quân khu) là một nội dung trọng tâm. Yêu cầu đặt ra là, thế trận quốc phòng toàn dân cần phải được xây dựng vững chắc ở tất cả các cấp, trên các địa bàn, cả trong nội địa, biên giới, biển, đảo và trên các môi trường (không, bộ, biển, không gian mạng,…). Tiềm lực và sức mạnh quốc phòng được biểu hiện tập trung ở sức mạnh quân sự. Do đó, trong quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải coi trọng xây dựng thế trận quân sự; trọng tâm là bố trí lực lượng, thiết bị quân sự, công trình phòng thủ,… theo kế hoạch, phương án tác chiến các cấp. Tuy nhiên, tình hình luôn biến động, tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nên cần căn cứ vào đó và khả năng, thực lực của ta để có sự bổ sung, điều chỉnh kịp thời, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, đảm bảo có thế trận quân sự liên hoàn, vững chắc trên các địa bàn, nhất là trên hướng biên giới, biển, đảo. Quán triệt quan điểm của Đảng về kết hợp quốc phòng với an ninh và xuất phát từ tình hình hiện nay, cần gắn kết chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng quân sự, công an, biên phòng, hải quân, cảnh sát biển,… phối hợp hoạt động, chủ động xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đặc biệt, cần tiếp tục xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; bồi đắp lòng tin của nhân nhân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
Tập trung xây dựng lực lượng quốc phòng, trọng tâm là lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và hoạt động của nền quốc phòng toàn dân. Chúng ta biết, quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân là đường lối, quan điểm nhất quán của Đảng, xuyên suốt mọi giai đoạn cách mạng. Theo đó, trong chiến tranh, lực lượng tiến hành là toàn dân và trong thời bình thì lực lượng tham gia quốc phòng cũng là toàn dân; trong đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân là nòng cốt. Để có tiềm lực và sức mạnh quốc phòng, điều quan trọng là đi đôi với việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, sức chiến đấu cao. Hơn nữa, xét đến cùng, không có lực lượng mạnh thì cũng không có thế trận vững chắc, do đó xây dựng lực lượng cũng là nhằm tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, cần tập trung “xây dựng Quân đội nhân dân… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”3. Trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phải xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt, trước hết là vững mạnh về chính trị, có trình độ và khả năng tác chiến đạt mức tinh nhuệ, đảm bảo cho Quân đội thực sự là lực lượng “thiện chiến” theo đúng nghĩa của từ này, tức là cả trong tác chiến chống giặc ngoại xâm và đấu tranh chống giặc nội xâm. Quân đội nhân dân không chỉ làm nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lực lượng quan trọng, đi đầu trong đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng như đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Cùng với xây dựng lực lượng thường trực, cần quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng cao; chú trọng đổi mới công tác tổ chức, quản lý, huấn luyện,… để không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và đảm bảo sẵn sàng động viên khi cần thiết. Thường xuyên xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”; coi trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ, thường trực, dân quân tự vệ biển, phòng không và tiếp tục mở rộng xây dựng đơn vị tự vệ trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (đủ điều kiện).
Để tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân và đáp ứng yêu cầu từng bước hiện đại hóa Quân đội theo định hướng của Đảng, cần tiếp tục xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng độc lập, tự chủ, hiện đại. Trước đây, do nguồn lực của đất nước có hạn, chúng ta không đủ điều kiện để thực hiện, nhưng hiện nay tình hình đã khác, có nhiều thuận lợi để hiện thực hóa mục tiêu này. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã và đang chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trọng tâm là thực hiện có hiệu quả quy hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2025, tầm nhìn 2035; tập trung vào các chương trình, dự án trọng điểm và xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao, phấn đấu làm chủ công nghệ chế tạo một số loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại cho lục quân, quân chủng, binh chủng; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng gắn với nền công nghiệp quốc gia.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, tạo cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện trong tình hình mới. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là chủ trương chiến lược đúng đắn của Đảng được triển khai thực hiện từ năm 1987. Đến nay đã đạt được những kết quả quan trọng, thiết thực nâng cao khả năng phòng thủ của mỗi địa phương và cả nước. Qua nhiều năm thực hiện, chúng ta đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý về xây dựng, hoạt động, vận hành cơ chế lãnh đạo; đồng thời, cũng thấy rõ những hạn chế, bất cập cần khắc phục. Vì thế, trong thời gian tới, các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương và các lực lượng đứng chân trên địa bàn cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X), tăng cường phối hợp xây dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh, huyện vững mạnh và phòng thủ quân khu theo Nghị định 21/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Trong quá trình phối hợp thực hiện, nêu cao trách nhiệm, khắc phục nhận thức lệch lạc cho rằng đây là nhiệm vụ của địa phương, dẫn tới tham gia thiếu chủ động, tích cực, kết quả thấp. Đối với địa phương, căn cứ vào quy hoạch tổng thể để thực hiện các đề án, kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ đạt hiệu quả thiết thực, tránh lãng phí nguồn lực. Nội dung trọng tâm của khu vực phòng thủ là xây dựng các tiềm lực, trong đó tiềm lực chính trị - tinh thần là cơ sở, tiềm lực kinh tế là nền tảng, tiềm lực quân sự là cốt lõi; gắn chặt giữa xây dựng với hoạt động thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ở mỗi địa phương, cơ sở.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược này, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Theo đó, cùng với việc phát huy nội lực là chính, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tận dụng nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1 - Có nước quan niệm quốc phòng là một bộ phận của an ninh.
2 - Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự, Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H. 2004, tr. 848.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 149.


CÔNG TÁC BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP TRONG QUÂN ĐỘI
Bảo vệ chính trị nội bộ là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng đảng, là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng toàn quân. Trước thềm đại hội đảng các cấp trong Quân đội, công tác bảo vệ chính trị nội bộ càng phải được tăng cường, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ bí mật, giữ vững an ninh, an toàn đại hội.
Đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, khẳng định bản lĩnh chính trị, sự trưởng thành của Quân đội ta qua 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, các tổ chức đảng trong Đảng bộ cần quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của trên về đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, rà soát, sàng lọc, thẩm định, thẩm tra, xác minh, không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với đó là những biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế, quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước, Quân đội, tiêu chuẩn chính trị và những điều đảng viên không được làm, v.v. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, phát hiện và kiên quyết đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị lợi dụng tình hình để gán ghép, bịa đặt, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng và nhân sự cấp ủy các cấp; coi trọng công tác bảo vệ bí mật, đảm bảo an ninh, an toàn cho đại hội.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có liên quan trực tiếp đến công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng, làm tốt công tác này sẽ góp phần quan trọng vào thành công của đại hội. Để thực hiện tốt công tác này trước thềm đại hội, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:
1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, tạo cơ sở để thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ thường xuyên cũng như phục vụ đại hội đảng các cấp. Thực tế cho thấy, thời gian qua, một số cơ quan, đơn vị nghiên cứu chưa sâu, quán triệt chưa kỹ, nên thực hiện quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa nghiêm, tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch hoạt động phá hoại, ảnh hưởng xấu đến tình hình nội bộ đơn vị. Do đó, các cơ quan, đơn vị quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của trên về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là Chỉ thị 39-CT/TW, ngày 18-8-2014 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay”; Quy định 126-QĐ/TW, ngày 28-02-2018 của Bộ Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”; Chỉ thị 118-CT/QUTW, ngày 20-02-2017 của Thường vụ Quân ủy Trung ương “Về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội trong tình hình hiện nay”; các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của trên về công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp. Đồng thời, gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
2. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng đối với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ Quân đội và đơn vị. Đây là giải pháp hết sức quan trọng. Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp phải coi trọng công tác giáo dục chính trị, làm cho mọi người trong đơn vị thấu hiểu sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; nhận rõ tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay; âm mưu và những thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; quan điểm, tư tưởng sai trái, nhận thức và hành động đi ngược lại lợi ích của Đảng, dân tộc và Quân đội; sự xâm nhập của hệ tư tưởng phản động, lối sống thực dụng, cùng các biểu hiện tiêu cực khác vào đơn vị. Từ đó, biết tự bảo vệ mình, kịp thời báo cáo tổ chức xem xét, giải quyết những vướng mắc nảy sinh theo đúng các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.
3. Thường xuyên nắm và quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nhất là vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên. Đây cũng là một biện pháp quan trọng, thường xuyên trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Thực hiện tốt sẽ giúp cấp ủy, người chỉ huy đánh giá đúng về chính trị nội bộ của cơ quan, đơn vị, nắm chắc tình hình cán bộ, đảng viên; có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với những hoạt động chống đối, phá hoại của các thế lực thù địch, phần tử xấu; làm tốt công tác quản lý cán bộ, đảng viên, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh. Nội dung nắm, quản lý phải toàn diện, tuy nhiên để chuẩn bị cho đại hội đảng sắp tới, các cấp ủy cần lãnh đạo, chỉ đạo tập trung vào nắm tình hình triển khai, phổ biến, quán triệt các chủ trương, văn bản chỉ đạo của Đảng, cấp ủy các cấp về công tác bảo vệ chính trị nội bộ và việc thực hiện các chủ trương, quy định đó; tình hình vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên. Kịp thời phát hiện những trường hợp có vấn đề cần xem xét về chính trị, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để chỉ đạo thẩm tra, xác minh, kết luận rõ, giúp cho cấp ủy quyết định việc bố trí, sử dụng cán bộ theo quy định. Phối hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác: tổ chức, kiểm tra, cán bộ, tuyên huấn,… chủ động phòng ngừa các thế lực thù địch, phần tử xấu tác động, cài cắm, móc nối vào nội bộ; phát hiện và kiên quyết đấu tranh, vô hiệu hóa những luận điệu, tài liệu có nội dung bịa đặt, vu khống, nói xấu, nhằm chia rẽ, hạ uy tín tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, Quân đội.
4. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác rà soát, thẩm định, thẩm tra, xác minh, kết luận về tiêu chuẩn chính trị nhân sự dự kiến tham gia cấp ủy khóa mới và đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên. Đây là khâu rất quan trọng trong công tác chuẩn bị nhân sự phục vụ đại hội đảng ở các cấp, do vậy cần phải được tiến hành chặt chẽ, khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Tuy nhiên, không được gây xáo trộn, ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ, hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị hoặc để kẻ địch, phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, phá hoại. Việc thẩm tra, xác minh, thẩm định về tiêu chuẩn chính trị nhân sự giới thiệu làm quy trình bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, nhân sự dự kiến cơ cấu vào cấp ủy khóa mới và đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên phải đảm bảo đúng nguyên tắc, quy định của Đảng. Qua rà soát, nếu phát hiện cán bộ, đảng viên có vấn đề cần xem xét về chính trị chưa được thẩm tra, kết luận hoặc đã thẩm tra nhưng chưa kết luận phải kịp thời báo cáo cấp ủy có thẩm quyền chỉ đạo việc thẩm tra, xác minh, kết luận trước khi tiến hành đại hội. Kiên quyết không cơ cấu vào cấp ủy khóa mới và đại biểu dự đại hội đảng cấp trên những cán bộ, đảng viên vi phạm tiêu chuẩn chính trị theo Quy định 126-QĐ/TW, ngày 28-02-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII). Trường hợp cán bộ, đảng viên không đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, tín nhiệm thì cấp ủy có thẩm quyền phải xem xét, điều động, bố trí công tác khác phù hợp và kiện toàn người thay thế trước đại hội. Đối với trường hợp phát hiện có dấu hiệu bị các thế lực thù địch, phần tử xấu cài cắm, móc nối, lôi kéo, mua chuộc, phải báo cáo trên để hướng dẫn và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời.
5. Thực hiện nghiêm túc các chế độ quy định về phòng gian giữ bí mật; xây dựng đơn vị an toàn, địa bàn an toàn. Đây là vấn đề quan trọng có quan hệ trực tiếp đến thành bại của cách mạng và việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội. Để thực hiện tốt mặt công tác này, các cơ quan, đơn vị cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động thu thập bí mật Nhà nước, bí mật quân sự của các thế lực thù địch, phản động; không mơ hồ, mất cảnh giác, vô tình tiếp tay cho chúng. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội về công tác bảo vệ bí mật, nhất là trong phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí; sử dụng dịch vụ internet, các thiết bị công nghệ thông tin, tài liệu mật; trong quan hệ tiếp xúc với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Các văn kiện, tài liệu liên quan đến quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội phải được đăng ký, quản lý chặt chẽ; kết hợp chặt chẽ xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn với địa bàn an toàn, góp phần giữ ổn định chính trị từ cơ sở. Đồng thời, có kế hoạch, phương án bảo đảm an toàn tuyệt đối đại hội. Phối hợp với địa phương và các lực lượng bảo vệ nơi diễn ra đại hội triển khai các phương án, biện pháp bảo vệ an toàn doanh trại, kho tàng, vũ khí, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất của đơn vị. Thường xuyên kiểm tra, tích cực phòng ngừa, không để xảy ra mất mát, cháy nổ,… trong quá trình diễn ra đại hội.
Tiến hành đồng bộ những nội dung trên, sẽ là nhân tố quyết định bảo vệ Đảng và Quân đội trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội thực sự trong sạch, vững mạnh, góp phần quan trọng vào việc tổ chức thành công đại hội đảng ở các cấp, tiến tới Đại hội XI Đảng bộ Quân đội, Đại hội XIII của Đảng.

BẢO VỆ TỔ QUỐC BẰNG PHƯƠNG PHÁP HÒA BÌNH - CHỦ TRƯƠNG NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM



Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ quy luật và xuất phát từ truyền thống của dân tộc, kinh nghiệm, luật pháp quốc tế, việc bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình, tạo môi trường thuận lợi xây dựng đất nước là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó cần và phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp bạo lực (gồm bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang), phương pháp hòa bình và sự kết hợp của hai phương pháp này.
Phương châm bảo vệ Tổ quốc được Đảng xác định là: đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các bất đồng, tranh chấp với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
Đảng ta khẳng định: “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”1. Theo đó, bảo vệ Tổ quốc không nhất thiết phải tiến hành chiến tranh hoặc hoạt động liên quan đến chiến tranh, mà bảo vệ Tổ quốc tối ưu là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm trên, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm là luôn nắm chắc, dự báo được tình hình, đưa ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với nguy cơ chiến tranh chủ động, tích cực và hiệu quả. Bảo vệ Tổ quốc từ xa không chỉ xét về mặt không gian - địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị bảo vệ Tổ quốc ngay từ khi Tổ quốc đang hòa bình, phát triển; ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng là sự kế thừa, phát triển tư tưởng truyền thống giữ nước của ông cha ta: “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Đồng thời, thể hiện tư duy mới của Đảng về phương thức, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó chính là việc chủ động phòng ngừa, chuẩn bị các điều kiện tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc ngay từ khi đất nước còn chưa nguy. Do vậy, cần phải: “Có kế sách ngăn chặn các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu những nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến”2.
Như vậy, cả lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều chứng tỏ bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình là xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Điều này được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Hòa bình luôn là phương pháp được ưu tiên hàng đầu trong các phương pháp được lựa chọn. Kế thừa truyền thống của dân tộc: “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, trong lãnh đạo bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn chủ trương ưu tiên cho phương pháp hòa bình. Bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp bạo lực cách mạng là một tất yếu khách quan và vô cùng cần thiết, nhưng chỉ được lựa chọn khi phương pháp hòa bình không đạt được kết quả như mong muốn, hoặc trong những trường hợp không có sự lựa chọn nào khác. Thực tiễn minh chứng, sau Cánh mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp được sự tiếp tay của các nước đế quốc đồng minh trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Chúng đơn phương xóa bỏ mọi cam kết, không thi hành Hiệp định Sơ bộ ngày 06-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946, tăng cường các hoạt động quân sự, phá hoại nền hòa bình của nhân dân ta. Trong thời khắc Tổ quốc lâm nguy, tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ,...”3. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành thắng lợi đem lại cuộc sống hòa bình cho miền Bắc và tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam từ năm 1954 đến 1975.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam: “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”, “không tham gia liên minh quân sự” vì chủ trương nhất quán của Việt Nam là thêm bạn, bớt thù. Như vậy, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta mang tính chất hòa bình, tự vệ nhằm giữ vững môi trường hòa bình để phát triển bền vững đất nước.
Giữ vững nguyên tắc giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng phương pháp hòa bình. Nhận thức rõ lợi ích của phương pháp hòa bình, Việt Nam chủ trương: “giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”4. Phương pháp hòa bình có nhiều biện pháp thực hiện khác nhau. Do đó, cần sáng suốt lựa chọn các giải pháp phù hợp nhất, sao cho mọi bất đồng, tranh chấp đều được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc công bằng. Hòa bình nhưng phải bảo đảm lợi ích tối thượng của dân tộc, phải giữ vững được độc lập, tự chủ của Tổ quốc. Trên thế giới, đàm phán là giải pháp thường xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết các bất đồng hoặc tranh chấp với nhau, với mục tiêu thu hẹp bất đồng, ngăn chặn xung đột, gia tăng hợp tác. Việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình có vai trò rất quan trọng, góp phần ổn định quan hệ quốc tế và bảo vệ nền hòa bình, an ninh thế giới, tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển. Ở Việt Nam, Đảng ta đã nhiều lần sử dụng rất thành công các cuộc đàm phán trong giải quyết bất đồng, tranh chấp với các nước có liên quan để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, như: đàm phán với Pháp tại Hội nghị Giơ-ne-vơ (1954), đàm phán ký Hiệp định Hòa bình Pa-ri (1973) với Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Thực tiễn giải quyết những bất đồng, tranh chấp với các nước mà Việt Nam là một bên liên quan, từ trước đến nay, chúng ta luôn xác định đàm phán là một giải pháp ưu tiên. Từ khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tuyên bố ủng hộ các tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN, ngày 18-3-1995 Việt Nam khẳng định: “mọi tranh chấp chủ quyền đối với các quần đảo ngoài Biển Đông cần phải được giải quyết thông qua thương lượng hòa bình; kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, cam kết không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. Đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam luôn thể hiện lập trường thông qua thỏa thuận giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước ngày 19-10-1993 tại Hà Nội, với những nguyên tắc cơ bản: (1). Thông qua thương lượng giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước trên cơ sở năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình. (2). Hai bên căn cứ vào tiêu chuẩn và nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận và tham khảo thực tiễn quốc tế để giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ.
Hòa bình là phương pháp tối ưu, hiệu quả nhất để bảo vệ Tổ quốc. Đàm phán quốc tế trong giải quyết bất đồng, tranh chấp quốc tế là một giải pháp lâu đời, được áp dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Bởi, đó là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên bất đồng, tranh chấp trực tiếp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề bất đồng, tranh chấp, cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết. Mặt khác, giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng đàm phán sẽ hạn chế được sự can thiệp từ bên ngoài, có khả năng làm phức tạp thêm vụ việc bất đồng, tranh chấp. Bởi vậy, đàm phán, giải quyết bất đồng là biện pháp tối ưu, hiệu quả, tránh đổ máu của người lính trên chiến trường, giữ vững môi trường thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trước nguy cơ chiến tranh.
Hòa bình phải dựa trên nền tảng tiềm lực và được bảo đảm bởi sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh thần của quốc gia. Là dân tộc phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược, dân tộc ta đã thấu hiểu giá trị cao cả của hòa bình. Nhưng hòa bình thật sự không tự đến, không tự có, mà nó là kết quả của sự đấu tranh kiên quyết, kiên trì của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhất quán lựa chọn phương pháp hòa bình trong bảo vệ Tổ quốc, nhưng Đảng, Nhà nước ta không bao giờ ảo tưởng, mất cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Để giải pháp hòa bình được thực hiện hiệu quả, Đảng ta khẳng định: cần tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho Quân đội và Công an đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống, v.v.
Không dựa trên nền tảng sức mạnh tổng hợp và không có sự kết hợp của những phương pháp khác trong bảo vệ Tổ quốc thì phương pháp hòa bình sẽ trở nên phi thực tế, không mang lại hiệu quả, thậm chí phản tác dụng. Bởi: “Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dẫu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”5. Cho nên, trong khi bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình thì các cấp, ngành, lực lượng phải tranh thủ môi trường hòa bình để đẩy mạnh xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội. Thực hiện tốt vấn đề này, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ Tổ quốc bằng biện pháp hòa bình như chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
_________________       
1 - Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương - Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 46.
2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
3 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 534.
4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.
5 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 244.


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: HỌC VÀ LÀM THEO BÁC ĐÃ DẦN TRỞ THÀNH TỰ GIÁC



Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến tích cực, sâu sắc trong nhận thức và hành động; trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công tác và thực hiện chuẩn mực đạo đức công vụ.
NHIỀU SÁNG TẠO TRONG HỌC VÀ LÀM THEO BÁC 
Năm 2019, Ban Tuyên giáo Thành ủy đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến, triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05), chuyên đề năm 2019 về “Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” kịp thời, với 546 lớp học tập và 100.311 học viên tham dự. Việc tổ chức học tập các nội dung của Chỉ thị 05, học tập chuyên đề năm được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo tỷ lệ đảng viên tham gia học tập trên 98%.
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên trên địa bàn Thành phố gắn với chuyên đề năm 2019; trong đó chú trọng việc phát huy dân chủ, chăm lo cho nhân dân theo gương Bác đã tạo chuyển biến sâu sắc từ nhận thức đến hành động về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống, thái độ và tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân trong toàn Đảng bộ Thành phố.
Việc tự giác học tập và làm theo Bác trong thực hành đạo đức công vụ; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu trong mọi mặt công tác, trong đấu tranh phòng và chống quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác, nhất là tập trung thực hiện hiệu quả 7 chương trình đột phá của Thành phố đã mang lại kết quả tích cực, góp phần vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên địa bàn thành phố gắn thực hiện nhiệm vụ chính trị với công tác chuyên môn tại mỗi địa phương, đơn vị tiếp tục tạo được những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên. Qua đó, góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống và thực hành chuẩn mực đạo đức công vụ trong cán bộ, đảng viên.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị 05 gắn với tham mưu sơ kết và tổ chức hội nghị giao ban chuyên đề 3 năm thực hiện Chỉ thị 05 cấp Thành phố và tham gia Hội nghị trực tuyến toàn quốc; tổ chức đoàn giám sát về kết quả 3 năm thực hiện Chỉ thị 05 tại một số địa phương, đơn vị như Quận ủy Quận 4, Huyện ủy Cần Giờ, Thành đoàn và Đảng ủy Tổng Công ty Địa ốc Sài Gòn được triển khai nghiêm túc. 
Trong triển khai học tập, đã có 1 tập thể và 4 cá nhân, bao gồm: Chi bộ Đội Kiểm soát phòng, chống ma túy, Đảng bộ Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí Phan Trường Phát, nhân viên Phòng Kế hoạch - Đầu tư Công ty cổ phần Cấp nước Phú Hòa Tân, Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn TNHH MTV; họa sĩ Đặng Ái Việt, Hội Mỹ thuật thành phố; đạo diễn, NSƯT Lê Nguyên Đạt, Phó Trưởng Khoa phụ trách Khoa Kịch hát Dân tộc trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh; Anh hùng lao động, Tiến sĩ Bùi Văn Toản, Cựu tù chính trị Côn Đảo, quận Tân Bình được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì có thành tích tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với việc xét chọn 2 mô hình, giải pháp để trao Giải thưởng Sáng tạo Thành phố Hồ Chí Minh lần đầu tiên năm 2019: Hội thi quay video clip “Gương sáng quanh tôi” của Ban Tuyên giáo Quận ủy Quận 9 và Liên hoan “Tiếng hát 3 thế hệ” của Ủy ban Nhân dân Quận Bình Thạnh đạt giải ba; tiếp tục biên soạn, phát hành cuốn sách Gương tập thể, cá nhân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tập 3 là việc Ban Tuyên giáo Thành ủy triển khai thực Kế hoạch số 59-KH/TU tổ chức về tổ chức quảng bá các tác phẩm, ấn phẩm của Bác và các tác phẩm, ấn phẩm có nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
GẮN HỌC VÀ LÀM THEO BÁC VỚI THỰC HIỆN DI CHÚC
Năm 2019, Ban Tuyên giáo Thành ủy đã chủ động tham mưu và triển khai có hiệu quả Kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy về tổ chức các hoạt động 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ thể, cấp thành phố tập trung tổ chức Hội nghị triển khai Kế hoạch tổ chức hoạt động và đợt sinh hoạt chính trị nhân 50 năm thực hiện Di chúc; tổ chức Hội thảo khoa học “50 năm Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”; tổ chức Lễ biểu dương 392 tập thể, cá nhân điển hình thực hiện tốt học tập và làm theo Bác, gồm 153 tập thể, 239 cá nhân, trong đó có 161 gương được nhận Bằng khen của Ban Thường vụ Thành ủy, 231 gương nhận Giấy khen của Ban Tuyên giáo Thành ủy. 4.045 gương (1.388 tập thể, 2.657 cá nhân) cấp quận, huyện và đảng ủy cấp trên cơ sở; thực hiện công trình nâng cấp phòng trưng bày về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Kim Liên, huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An; tổ chức cầu truyền hình Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh; tổ chức triển lãm 50 năm thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn kỷ niệm 74 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh ngày 2/9;...
Trên cơ sở Kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy, các tổ chức đảng, các sở, ban - ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí Thành phố đã nghiêm túc xây dựng kế hoạch, tổ chức quán triệt, triển khai 360 lớp về chủ đề 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh cho các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc và cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; trong đó, có 61.228 người tham dự, tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi trong toàn bộ hệ thống chính trị của Thành phố.
 Đặc biệt, nhằm tạo điều kiện cho các tập thể, cá nhân thực hiện tốt học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có dịp giao lưu, học tập kinh nghiệm thực tế, tham quan các di tích lịch sử, văn hóa của đất nước, nhất là về thăm quê hương Bác Hồ, Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Kế hoạch số 265-KH/TU về tổ chức “Hành trình về thăm quê Bác” nhân 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện Kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy, Ban Tuyên giáo Thành ủy đã phối hợp cùng Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn thiết kế hành trình, nghiên cứu cụ thể hóa công tác tổ chức thực hiện nhằm đạt mục đích yêu cầu Kế hoạch đề ra.
Cụ thể, Ban Tuyên giáo Thành ủy đã ban hành Công văn về việc chọn các gương điển hình tham gia Hành trình đến các cấp ủy đảng thuộc Đảng bộ Thành phố, xác định rõ số lượng cho từng tổ chức và các tiêu chí xét chọn đại biểu tham gia hành trình để đảm bảo đa dạng về thành phần, giới, độ tuổi, ngành nghề, lĩnh vực. Cụ thể, các quận ủy, huyện ủy: giới thiệu 15 gương/đơn vịCác đảng ủy cấp trên cơ sở, đảng ủy cơ sở trực thuộc thành ủy: giới thiệu 6 gương/đơn vịĐảng ủy Khối Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đảng ủy Khối các trường Đại học - Cao đẳng thành phố: giới thiệu 10 gương/ đơn vịĐảng ủy Khối Dân - Chính - Đảng thành phố: Giới thiệu 18 gươngỦy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố: giới thiệu 9 gương/đơn vịLiên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố, Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật thành phố: giới thiệu 10 gương/đơn vị.
 Đó là các gương cá nhân, đại diện tập thể điển hình thực hiện tốt học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được biểu dương từ cơ sở đến cấp thành phố từ năm 2011 đến 2019; là cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, tổ dân phố, mặt trận, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo, người dân tại địa bàn dân cư; là trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, thanh niên, người lao động trên toàn Thành phố; trong đó, ưu tiên các đại biểu đã từng vinh dự được gặp Bác, các đại biểu chưa có điều kiện về thăm quê hương của Bác...
Trong 800 đại biểu tham gia hành trình, có 488 đại biểu nam và 312 đại biểu nữ; khối quận, huyện có 384 đại biểu, khối cấp trên cơ sở và cơ sở trực thuộc Thành ủy có 362 đại biểu, khối Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có 54 đại biểu; độ tuổi từ 30 tuổi trở xuống là 42 đại biểu, từ 31 tuổi đến 44 tuổi là 281 đại biểu, từ 45 tuổi đến 60 tuổi là 306 đại biểu, từ 61 tuổi trở lên là 171 đại biểu; cấp ủy viên là 245 đại biểu, cán bộ đoàn thể 128 đại biểu, cán bộ công chức, viên chức 199 đại biểu, cán bộ hưu trí 48 đại biểu, trí thức 46 đại biểu, giáo viên 31 đại biểu, học sinh, sinh viên 8 đại biểu, bác sĩ 19 đại biểu, công nhân 17 đại biểu, nông dân 6 đại biểu, tôn giáo 14 đại biểu; văn nghệ sĩ 11 đại biểu, cơ quan báo chí 18 đại biểu đã phỏng vấn, quay phim, chụp ảnh, đưa tin trên các phương tiện truyền thông, góp phần làm lan tỏa những tấm gương điển hình trong học tập và làm theo Bác, làm nổi bật chuỗi hoạt động của Thành phố nhân 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Công tác tổ chức từng chuyến đi chặt chẽ, chu đáo, đảm bảo các hoạt động vừa sức, huy động được tất cả các thành viên trong đoàn cùng tham gia. Đội ngũ phục vụ tận tâm, chuyên nghiệp và tình cảm, tạo nên những mối giao kết tốt giữa đại biểu với đại biểu, giữa đại biểu với các thành viên trong Ban Tổ chức hành trình. Mỗi một thành viên tham gia đều ý thức về vinh dự đặc biệt của mình, mang trong lòng tình yêu kính vô hạn dành cho Bác Hồ, đã tham gia hành trình với một tâm thế hết sức tích cực, xác lập quyết tâm học tập và làm theo Bác quyết liệt hơn, đạt hiệu quả thiết thực hơn, sẽ là tuyên truyền viên tại cơ sở, nhằm lan tỏa mạnh mẽ hơn việc học tập và làm theo Bác, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào tình hình thực tiễn của đơn vị, địa phương, đặc thù ngành nghề của mình trong thời gian tới. Trong từng chuyến hành trình đều đảm bảo an toàn tuyệt đối. Trong và sau mỗi chuyến hành trình, nhiều đại biểu đã có những bài viết cảm nhận bằng văn, thơ, nhạc hết sức cảm động và vô cùng sâu sắc gửi đăng trên một số báo, tạp chí, đăng trên các trang tin điện tử, trang cá nhân, mạng xã hội, gửi về Ban Tuyên giáo Thành ủy...
Đặc biệt, cuốn sách Những tấm gương bình dị tỏa sáng giữa đời thường”, tập 3 phát hành nhân dịp tổng kết các hoạt động 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giới thiệu 80 tập thể và cá nhân tiêu biểu (38 tập thể và 42 cá nhân) của Thành phố. Đó là những đơn vị sản xuất luôn quan tâm ứng dụng khoa học kỹ thuật, phát huy trí tuệ người lao động, tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn công nhân, đưa đến tay người tiêu dùng những sản phẩm tốt về giá thành và chất lượng; là những y, bác sĩ tận tụy với bệnh nhân nghèo; những nhà khoa học thực hiện các đề tài nghiên cứu gắn liền thực tiễn; những cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, công an với những cải tiến trong công tác quản lý hành chính cùng nhiều chiến công thầm lặng mà gian khổ để giữ bình yên cho đất nước; những nhà báo, văn nghệ sĩ với những bài viết, những sáng tác lay động lòng người; nhiều cán bộ hưu trí tiếp tục mang những kinh nghiệm, trí tuệ, sức lực của mình giúp ích cho xã hội; những cộng đồng tôn giáo đang thực hiện nhiều việc làm với ý nghĩa “tốt đời đẹp đạo” trên địa bàn dân cư…
CHỦ ĐỘNG TRIỂN KHAI CHUYÊN ĐỀ NĂM 2020
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05, chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, cả hệ thống chính trị Thành phố tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, chú trọng xây dựng đảng bộ các cấp trong sạch vững mạnh trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp và chất lượng đảng viên.
Mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cấp phát huy vai trò nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” trong công tác và cuộc sống; hướng về nhân dân, lắng nghe và kịp thời giải quyết những yêu cầu, đòi hỏi bức xúc của nhân dân; nói đi đôi với làm, nói trước, làm trước để không chỉ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao mà còn tạo ra sự lan tỏa trong mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị và cộng đồng những việc làm tốt, những hành động đẹp.
Cùng với đó, gắn học tập và làm theo Bác với việc chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ tới và Đại hội XIII của Đảng. Trong đó, các cấp ủy cần tập trung chuẩn bị chu đáo các văn kiện và công tác nhân sự tại đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở; chú trọng thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với kiểm tra, giám sát, sàng lọc cán bộ để lựa chọn, quy hoạch và bổ nhiệm những cán bộ có đủ đức và tài, tinh thần và trách nhiệm vào các vị trí trong hệ thống chính trị; đồng thời, đưa những người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ra khỏi Đảng, khỏi bộ máy để làm trong sạch Đảng, trong sạch hệ thống chính trị./.


TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC VÀ PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH TIẾP TỤC SOI SÁNG CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, CỦA NHÂN DÂN TA



Tư tưởng, đạo đức, phong cách và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của dân tộc ta, đã, đang và sẽ mãi là ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, trực tiếp hiện nay là sự nghiệp đổi mới và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Là sản phẩm của sự kết hợp khoa học, nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính, truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa của dân tộc, thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam… ”(1).
ĐỔI MỚI, KHÔNG NGỪNG ĐỔI MỚI VÌ LỢI ÍCH CỦA ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC
Tinh thần ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hy sinh, phấn đấu vô cùng cao đẹp và sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chí Minh. Cuộc đời của Hồ Chí Minh là cuộc đời một con người trọn đời vì dân, vì nước. Người chỉ có một ham muốn tột bậc “là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(2).
Chính lòng yêu nước nồng nàn, ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, dân tộc là động lực thôi thúc Người nung nấu tinh thần đổi mới từ rất sớm, đổi mới không ngừng.
Quyết định đi tìm chân lý cứu nước với một hướng đi mới, một phương pháp tiếp cận mới, phương thức hành động mới: đi về phương Tây, tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, khảo nghiệm những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, tắm mình trong phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bóc lột để tìm kiếm con đường giải phóng cho dân tộc - đó là cuộc đổi mới vĩ đại đầu tiên của Hồ Chí Minh, cuộc đổi mới mang ý nghĩa quyết định vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Trở về nước, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là Cách mạng tháng Mười Nga; đổi mới tư duy trong xây dựng, không ngừng hoàn thiện đường lối chiến lược, sách lược cách mạng; đổi mới phương thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân giành độc lập tự do, xây dựng Nhà nước cách mạng, tiến hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước, từng bước đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, khắc phục đói nghèo, lạc hậu... Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1941 khi Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng đến 1969 khi Người từ trần là một công cuộc đổi mới liên tục của Đảng, của nhân dân ta theo ngọn cờ và sự dẫn dắt của “Tổng công trình sư đổi mới” - Hồ Chí Minh.
Trước khi về với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh dự báo, tiên liệu bối cảnh thế giới, tình hình đất nước, phác thảo những đường nét cơ bản của công cuộc kiến thiết toàn diện đất nước sau chiến tranh theo tinh thần đổi mới thể hiện trong bản Di chúc bất hủ. Đó là sự đúc kết kinh nghiệm, bài học lịch sử và định hướng tiếp tục đổi mới, tạo nền tảng trực tiếp của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay.
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH ĐỔI MỚI HỒ CHÍ MINH
Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), sau đó được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là: “Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Đời sống mới” (1947), “Dân vận”  (1949), đặc biệt trong bản “Di chúc” thiêng liêng (1965 - 1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc Người đi xa. Từ các các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới.
Trước hết, theo Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường kách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(3). Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Người nhấn mạnh đó “là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(4).
Thứ hai, triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý(5); “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6).
Thứ ba, đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những bước đi thích hợp. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, thực hiện chắc chắn.
Thứ tư, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển; cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.
Thứ năm, sức mạnh của đổi mới là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”(7); để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân(8); phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước dân chủ.
Thứ sáu, Đảng là linh hồn của đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam và thế giới, bổ sung những tư liệu, vấn đề mà các nhà kinh điển “ở thời mình không thể có được”(9) để đề ra và thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Hồ Chí Minh chỉ dạy: Thế giới ngày ngày đổi mới, xã hội ngày một phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy, cán bộ, đảng viên không thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành động cũng phải phát triển”, “phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(10).
Hệ thống luận điểm về đổi mới của Hồ Chí Minh được diễn đạt giản dị, dễ hiểu nhưng hàm chứa chiều sâu, tầm cao về tư tưởng và đúc kết tinh túy đạo đức đổi mới, phong cách đổi mới của Người.
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, CỦA NHÂN DÂN TA
Vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Đảng quyết tâm phát động, lãnh đạo công cuộc đổi mới. Trong quá trình trăn trở, tìm tòi con đường đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy phát triển đất nước, Đảng ta nhận thức sâu sắc: Muốn đổi mới tư duy, Đảng phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quí báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đúc kết những bài học từ thực tiễn cách mạng nước ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, năm 1986 - Đại hội khai phóng con đường đổi mới, trên cơ sở quán triệt những luận điểm cốt lõi của Hồ Chí Minh, đã nhấn mạnh các bài học: “lấy dân làm gốc”; xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan; kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ(11).
Trải qua hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đồng thời với việc kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đặc biệt chú trọng kế thừa, cụ thể hóa tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và văn kiện các đại hội Đảng, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các nhiệm kỳ từ năm 1986 đến nay. Đường lối đổi mới của Đảng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã minh chứng hùng hồn, nếu muốn thích ứng và đối phó mạnh mẽ với những vấn đề mà chủ nghĩa xã hội đang gặp phải, chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát triển những phẩm chất đã thể hiện trong suốt cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài của Người(12).
VẬN DỤNG SÁNG TẠO, PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TO LỚN TRONG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH ĐỔI MỚI CỦA NGƯỜI
Hiện nay đất nước ta chuẩn bị bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với thời cơ, vận hội lớn đan xen với không ít khó khăn, thách thức. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững  hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Với giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta trên con đường đổi mới. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo và phát huy những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới của Người.
Thứ nhất, kiên định, vững vàng và không ngừng sáng tạo xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu đân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Muốn đổi mới thắng lợi, phải kiên định lý tưởng độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng; kiên định đường lối đổi mới. Kiên định, vững vàng, không dao động, đổi mới không đổi mầu, nhưng không giáo điều, bảo thủ mà phải không ngừng sáng tạo. Kết hợp tổng kết sâu sắc, toàn diện thực tiễn đổi mới của đất nước với nắm bắt, dự báo chính xác những chuyển biến mau lẹ của thời cuộc, những xu hướng phát triển mới của thế giới, cập nhật những tri thức mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những bài học thành công của các nước phù hợp với điều kiện nước ta, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, làm cho đường lối đổi mới phản ánh, giải quyết đúng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đất nước, đồng thời phù hợp với xu thế thời đại. Đổi mới không ngừng, đổi mới sáng tạo, đổi mới vững chắc - đó chính là kế thừa, phát triển tư tưởng đổi mới, biện chứng đổi mới Hồ Chí Minh trong bối cảnh lịch sử mới.
Thứ hai, nền tảng đạo đức của đổi mới là lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân, hạnh phúc của con người. Lấy độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và sự giàu mạnh của quốc gia làm mục đích trên hết, trước hết; lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người Việt Nam làm đạo lý đổi mới. Nhân dân là chủ thể của đổi mới và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới; con người là mục tiêu và động lực của đổi mới. Đó chính là bản chất nhân đạo, nhân văn của đổi mới theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đó cũng là giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt của đổi mới. Thoát ly nền tảng đạo đức thì đổi mới không còn ý nghĩa gì.
Thứ ba, đổi mới, phát triển là một quy luật vận động khách quan của lịch sử, là nhu cầu, khát vọng của nhân loại. Toàn cầu hóa và sự phát triển bùng nổ công nghệ thông tin cùng hệ thống kết cấu hạ tầng toàn cầu làm cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tùy thuộc lẫn nhau; hợp tác và hội nhập quốc tế trở thành một xu thế lớn không thể đảo ngược. Tư tưởng và sự chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, về việc tăng cường hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi… còn nguyên vẹn giá trị định hướng con đường đổi mới.
Tranh thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan trọng, song Hồ Chí Minh luôn căn dặn, nguồn lực nội sinh là quyết định, ngoại lực phải kết hợp với nội lực để nhân lên sức mạnh tổng hợp quốc gia; hợp tác, hội nhập nhưng phải giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính.
Thứ tư, đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, muốn giành thắng lợi, Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo phải tự đổi mới, nêu gương đổi mới, trước hết là đổi mới phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân. Hồ Chí Minh là tấm gương lớn, truyền lại bài học lớn về phong cách đổi mới: nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh dạn sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với thực tiễn(13).
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thống nhất với nhau, kết tinh thành lý luận - thực hành đổi mới. “Cống hiến lý luận của Hồ Chí Minh vừa có tính thời sự thiết thực, đáp ứng nhu cầu đương thời của cách mạng, vừa có giá trị lâu dài, là những gợi ý quan trọng và nguồn cảm hứng cho các thế hệ cách mạng về sau. Được hiểu và vận dụng một cách sáng tạo hệ thống luận điểm lý luận của Hồ Chí Minh có khả năng thích hợp với những diễn biến mới hiện nay của lịch sử, sống và phát huy tác dụng lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới”(14)./.
__________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr. 84.
(2) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.15,  tr.627, 617.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.284.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.505.
(5) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđdt.10, tr.378, 337.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđdt.4, tr. 65.   
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.509.
 (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H, 1987.
(12) Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học Xã hội, H, 1991, tr. 183.
(13) (14) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - tinh hoa và khí phách của dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009, tr. 219; 180-181.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...