Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2020

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶC BIỆT QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG



Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện chính trị, một dấu mốc rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Hai nội dung quan trọng nhất của mỗi kỳ Đại hội Đảng là công tác văn kiện và công tác nhân sự, đặc biệt việc chuẩn bị nhân sự Đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm thành công của Đại hội và triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội.
Để chuẩn bị thật tốt công tác đặc biệt quan trọng này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII của Đảng có bài viết: “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶC BIỆT QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG”. Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết:
http://uploads.tapchiqptd.vn/Article/anhdoan/2020/4/26/1212918740.jpg
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII của Đảng. (Ảnh: TTXVN)
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶC BIỆT QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
1. Vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội
Như chúng ta đã biết, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, ở bất kỳ lĩnh vực, địa phương nào, cán bộ bao giờ cũng đóng vai trò quyết định; công tác cán bộ không chỉ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng mà còn là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà Bác Hồ bắt đầu chuẩn bị thành lập Đảng bằng việc đào tạo và huấn luyện cán bộ. Bác khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"; "Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng".
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định công tác cán bộ chịu sự quy định của đường lối chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị; cho nên đồng thời với chuẩn bị đường lối chính trị phải tích cực chuẩn bị và tiến hành đường lối tổ chức và chiến lược cán bộ. Hiện nay, cùng với việc chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, Đảng ta đang chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, dự kiến tổ chức vào quý I-2021. Tại Hội nghị lần thứ tám (tháng 10-2018), Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập 5 tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng (Tiểu ban Văn kiện, Tiểu ban Kinh tế - Xã hội, Tiểu ban Điều lệ Đảng, Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội). Ngày 30-5-2019, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35 về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hai nội dung quan trọng nhất của mỗi kỳ Đại hội Đảng là việc thảo luận, quyết định đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng (gọi tắt là thông qua các văn kiện) và bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Đảng (gọi tắt là công tác nhân sự). Hai nội dung này liên quan chặt chẽ với nhau, đều phải chuẩn bị thật tốt, đặc biệt việc chuẩn bị nhân sự Đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của Đại hội và triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội.
Nói đến chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng là nói đến chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhân sự lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội Đảng, là bộ tham mưu chiến đấu, hạt nhân lãnh đạo chính trị và là trung tâm đoàn kết, thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đây là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ. Thực tế cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm quyết định hoặc có tính bước ngoặt lịch sử, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. (Lênin đã từng nói: "Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga"). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là lựa chọn, bố trí sai một số cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, nhất là cấp cao nhất. Cần phải khẳng định và thấm nhuần sâu sắc vị trí, ý nghĩa của công việc cực kỳ quan trọng này không chỉ đơn thuần đối với việc tổ chức một Đại hội Đảng mà đây là công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước.
Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta đã có bước trưởng thành, phát triển nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; cơ cấu, độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn quy hoạch cán bộ ngày càng đáp ứng yêu cầu, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp và kế tục giữa các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nước ta có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện; trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập, tổ chức sản xuất, kinh doanh ngày càng có hiệu quả.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, đội ngũ cán bộ của ta hiện nay đông nhưng chưa thật mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt chỉ tiêu mong muốn. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa toàn diện, có mặt còn hạn chế, yếu kém; không ít cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, thậm chí có người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, vi phạm nguyên tắc và quy chế làm việc, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, luật pháp, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát lớn vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phải thi hành kỷ luật gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý; một số cán bộ đã bị xử lý hình sự. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cấp cao, tuy đã được ngăn chặn nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị đẩy lùi. Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự.
Cần khẳng định rằng, sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ trong mấy chục năm qua là nhân tố hàng đầu quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay, nhất là cán bộ cấp chiến lược, như đã nói ở trên, có ảnh hưởng nhất định đến việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIII của Đảng.
2. Yêu cầu đặt ra cho công tác nhân sự của Đại hội XIII
Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện chính trị rất quan trọng. Đại hội được tiến hành vào thời điểm đất nước ta trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng vào năm 2030 và kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước vào năm 2045. Đại hội XIII sẽ là một dấu mốc rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; tuy nhiên các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, kinh tế số và xu hướng quốc tế hoá nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nước ta. Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hòa bình") mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông toàn cầu, chiến tranh mạng,... Đây cũng là thời điểm chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau.
Tình hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng trong nhân dân, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngại. Nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức mới chỉ bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình hình trên cho thấy nhiệm vụ của toàn Đảng sắp tới là rất nặng nề. Để giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước trong thời gian tới, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương phải chuẩn bị thật tốt để trình Đại hội thảo luận và quyết định nhân sự Trung ương khóa XIII, bảo đảm thành công của Đại hội và thắng lợi trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội. Đây là công việc vô cùng quan trọng. Đây cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm sâu sắc, chính đáng của toàn Đảng, toàn dân. Gần như đi đến đâu, ở chỗ nào, cũng thấy cán bộ, đảng viên và nhân dân tỏ ra quan tâm theo dõi và có phần băn khoăn, lo lắng, đặt câu hỏi: Đảng ta sắp tới dự định lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là cán bộ chủ chốt) thế nào để đủ sức gánh vác nhiệm vụ cách mạng to lớn mà lịch sử giao phó? Các phần tử xấu, cơ hội, thù địch cũng nhân dịp này tìm mọi cách xuyên tạc, tung tin, tác động, chia rẽ nội bộ ta hòng phá hoại công tác nhân sự nói riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung của chúng ta, rất thâm độc và nguy hiểm. Rõ ràng, công tác nhân sự Đại hội là vô cùng quan trọng nhưng cũng hết sức phức tạp, khó khăn, nặng nề, đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cả hệ thống chính trị phải làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao, với quyết tâm, nỗ lực rất lớn, có cách làm thật sự công tâm, khách quan, khoa học, đặt lợi ích của quốc gia-dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
3. Nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành
Để chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xác định đúng yêu cầu xây dựng Ban Chấp hành Trung ương mà hạt nhân là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt của Đảng. Phải chăng việc xây dựng Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII phải là một tập thể thật sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, thống nhất cao ý chí và hành động, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tầm nhìn chiến lược; có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo; tiêu biểu cho toàn Đảng về tính chiến đấu, tính kỷ luật; gắn bó mật thiết với nhân dân, quy tụ được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân; đủ uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
- Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII cần có số lượng và cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tăng cường số lượng Ủy viên Trung ương Đảng ở các vị trí, địa bàn, lĩnh vực công tác trọng yếu. Bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển liên tục.
- Việc giới thiệu nhân sự, nói chung phải trên cơ sở quy hoạch; giữ vững nguyên tắc, quy chế, quy định, phát huy trách nhiệm, dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan trong đánh giá, giới thiệu, lựa chọn nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ tới. Lấy phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ các mặt, uy tín và hiệu quả công tác làm căn cứ và tiêu chí cơ bản để đánh giá, lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp với công việc. Chống các biểu hiện cơ hội, tham vọng quyền lực, vận động cá nhân, cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm...; cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn phá hoại, gây rối nội bộ của các thế lực thù địch.
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII phải thật sự là những đồng chí tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; bảo đảm tiêu chuẩn chung của cán bộ, đặc biệt chú trọng các vấn đề sau:
+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của quốc gia - dân tộc. Có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động.
+ Có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, tận tụy với công việc; bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi. Có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ.
+ Có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy chiến lược và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương. Có năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới tại lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công; qua thực tiễn tỏ rõ là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có năng lực sáng tạo, nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có "sản phẩm" cụ thể, rõ rệt; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công. Có ý thức, trách nhiệm và khả năng tham gia thảo luận, đóng góp vào các quyết định chung của Ban Chấp hành Trung ương; đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
Nói tóm lại là phải vừa có Đức vừa có Tài, trong đó Đức là gốc ("chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài").
Kiên quyết không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài, đủ tiêu chuẩn; đồng thời không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những người có một trong các khuyết điểm sau: (1) Bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; (2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán; không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; (3) Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị; (4) Không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút; (5) Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; (6) Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.
Cùng với việc xác định rõ và nắm vững yêu cầu, tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, phải tính toán, quy định rõ cơ cấu, số lượng Ban Chấp hành Trung ương, giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Đây cũng là vấn đề luôn được quan tâm trong quá trình chuẩn bị nhân sự ở mỗi kỳ Đại hội. Quan điểm chung và nhất quán ở các kỳ Đại hội là: Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương cần có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tính kế thừa và phát triển; nhưng không nhất thiết lĩnh vực nào, ngành nào cũng phải có người tham gia Ban Chấp hành Trung ương nếu không đủ tiêu chuẩn; không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn. Giới thiệu để bầu làm Ủy viên Trung ương chính thức đối với các đồng chí có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để phân công phụ trách các lĩnh vực công tác Đảng, công tác chính quyền, công tác Mặt trận, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan trọng yếu của Nhà nước ở Trung ương, địa phương và lực lượng vũ trang. Các ban đảng ở Trung ương và một số bộ, ngành, địa phương thuộc vị trí, địa bàn, lĩnh vực quan trọng cần tăng cường số lượng Ủy viên Trung ương Đảng.
Trong cơ cấu của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII cần chú ý bảo đảm tỉ lệ hợp lý đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số; một số nhà khoa học, văn nghệ sĩ, lãnh đạo một số tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Rút kinh nghiệm từ các khóa trước, việc xác định số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII cần căn cứ chủ yếu vào yêu cầu, nhiệm vụ và đòi hỏi của tình hình, căn cứ vào yêu cầu lãnh đạo toàn diện đối với các địa bàn, lĩnh vực công tác, đặc biệt là phải bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn, không thuần túy chạy theo số lượng.
4. Trách nhiệm của chúng ta
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (tháng 10-2018), Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Tổ Giúp việc của Tiểu ban Nhân sự. Tiểu ban Nhân sự đã ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc, chế độ và lề lối làm việc của Tiểu ban Nhân sự và Tổ Giúp việc. Tuy nhiên, để làm tốt công việc hệ trọng này, về tư tưởng, phương châm chỉ đạo, phương pháp và cách làm, cần phải chú trọng một số vấn đề sau đây:
- Công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng không chỉ là nhiệm vụ của Tiểu ban Nhân sự, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Ban Chấp hành Trung ương mà là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, của các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị và các địa phương. Phải làm tốt công tác nhân sự từ đại hội đảng bộ các cấp để góp phần chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội XIII của Đảng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu và ở những nơi có cán bộ tham gia quy hoạch cán bộ cấp chiến lược được giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII phải chịu trách nhiệm trước Tiểu ban Nhân sự, trước Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương về nhân sự do mình đề xuất, giới thiệu.
- Các cơ quan, tổ chức có liên quan, mà trước hết là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, phải dày công chuẩn bị, phải xác định đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ "then chốt" của "then chốt", có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển, vững mạnh của đất nước. Từng cơ quan, địa phương, từng cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác chuẩn bị phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc trách nhiệm của mình, toàn tâm, toàn ý lo cho công việc chung, phải đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm, chỉ ra những ưu điểm, kết quả cũng như những khuyết điểm, hạn chế của các khoá trước, nhất là của khoá XII gần đây, để có thêm cơ sở đề ra phương hướng, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của khoá XIII này.
- Công tác cán bộ nói chung và công tác nhân sự đại hội nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như trên đã nói nhưng cũng cực kỳ phức tạp, khó khăn, vì nó liên quan đến con người, là "công tác con người". Mà đã là con người thì như nhà văn Nga Mắc-xim Goóc-ky đã nói: "Con người, hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao!". Nhưng con người cũng có đủ thứ chứng tật không lành mạnh, nói ra rất tế nhị, nhạy cảm (nhận xét, đánh giá nhau thế nào? nhất là nói về nhược điểm, khuyết điểm của nhau; bố trí, sắp xếp vào đâu? liên quan đến danh dự, chế độ, chính sách hưởng thụ, chức vụ cao, thấp, lợi ích, bổng lộc... so sánh với người khác thế nào?... ("Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly", "Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng thì lộn gan lên đầu"!) vô cùng phức tạp, nhạy cảm, rất dễ phát sinh vấn đề, tâm tư day dứt), gây mất đoàn kết. Vì vậy, công tác nhân sự Đại hội phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự công tâm, thật sự trong sáng, khách quan, đặc biệt phải "có con mắt tinh đời" trong việc đánh giá, giới thiệu, lựa chọn; lấy tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và hiệu quả công tác, uy tín của bản thân và gia đình làm thước đo chủ yếu ("Khen cho con mắt tinh đời, anh hùng đoán giữa trần ai mới già!"). Phải trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ, tạo ra một ê-kíp, một tập thể thật sự "ăn ý", đoàn kết, thống nhất, có sức mạnh. Muốn thế, phải thật sự phát huy dân chủ trong việc phát hiện, giới thiệu nhân sự đi đôi với xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu. Chống tư tưởng cục bộ, địa phương, thân quen, "cánh hẩu", "lợi ích nhóm"; tránh cách làm giản đơn, tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã phạm sai lầm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên, nạt dưới, bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Để những người đó lọt được vào cương vị lãnh đạo là tai hoạ cho Đảng, là tạo điều kiện cho họ càng hại nước, hại dân nhiều hơn.
Phải kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên. Cách làm là phải thận trọng, làm dứt điểm từng khâu, từng công đoạn, theo một quy trình chặt chẽ; làm đến đâu chắc đến đó, làm nhân sự Ban Chấp hành Trung ương trước, sau đó mới đến nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cuối cùng mới đến nhân sự lãnh đạo chủ chốt. Nếu có những công đoạn cần làm đồng thời thì cũng phải xem xét một cách chặt chẽ, chắc chắn, bảo đảm sự đồng bộ, khoa học. Phải chuẩn bị rất kỹ, rất chu đáo, cẩn thận, tránh tối đa những sai sót.
- Các đồng chí thành viên Tiểu ban Nhân sự và Tổ Giúp việc của Tiểu ban, hơn ai hết, phải nắm chắc, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc, chế độ, quy chế và lề lối làm việc. Trong quá trình tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự, tổng hợp kết quả giới thiệu nhân sự và thực hiện các công việc khác theo chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, các đồng chí thành viên của Tiểu ban và Tổ Giúp việc phải là những cán bộ thật sự tin cậy, tuyệt đối trung thành, trung thực, trong sáng, công tâm, khách quan, đặc biệt là phải rất tỉnh táo, tinh tường, ("đừng nhìn gà hoá cuốc", "đừng thấy đỏ tưởng là chín", đừng chỉ thấy "cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong")...; tuyệt đối giữ nguyên tắc, quan hệ công tác, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cá nhân có liên quan; chống các biểu hiện tiêu cực chính ngay trong các cán bộ có trách nhiệm, các đại biểu Đại hội và các thành viên của Tiểu ban và Tổ Giúp việc. Đặc biệt, phải có quy chế, quy định chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công tâm dưới sự lãnh đạo của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đoàn Chủ tịch Đại hội).
- Cũng cần phải nói thêm rằng, trong quá trình lựa chọn, bố trí, sắp xếp nhân sự cụ thể, cần thống nhất quan điểm là không quá cầu toàn, không quá tuyệt đối hoá. Các cụ ta đã có câu: "Nhân vô thập toàn", con người ta ai cũng có điểm mạnh, điểm yếu ("Ngọc còn có vết nữa mình với ta"). Điều quan trọng là phải biết phân biệt, đánh giá chính xác bản chất, mức độ các điểm mạnh, điểm yếu đó để không chọn nhầm người và phải có cách bố trí, sắp xếp nhân sự sao cho phù hợp để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của mỗi thành viên, bổ sung cho nhau, tạo ra một ê-kíp mạnh, một tập thể lãnh đạo tương đối hoàn chỉnh, không gây tổn thương cho lợi ích của Đảng, của quốc gia, của tập thể. Nguyên tắc của chúng ta là "tập thể lãnh đạo", "lãnh đạo tập thể", "lãnh tụ tập thể". Chúng ta phải chăm lo xây dựng, vun xới, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để mỗi người tự hoàn thiện mình, phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu; để khi mỗi cá nhân đứng trong cùng một tập thể thì tập thể đó trở nên hoàn thiện hơn, toàn diện, vững mạnh hơn; và mỗi cá nhân cũng trở nên tốt hơn, phát huy được nhiều hơn phẩm chất và năng lực của mình. Tránh tình trạng "cua cậy càng, cá cậy vây", tự cao tự đại, coi thường người khác, không phối hợp, hợp tác tốt. Mục đích của chúng ta, trách nhiệm của chúng ta là phải xây dựng được một Ban Chấp hành Trung ương mạnh, một Bộ Chính trị mạnh, một Ban Bí thư mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao xung quanh người đứng đầu để đủ sức gánh vác trọng trách vinh quang nhưng rất nặng nề của mình là lãnh đạo hoàn thành sứ mạng lịch sử, nhiệm vụ chính trị của mình, tổ chức toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển; nhân dân ta n

QUÂN ĐỘI TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TÔN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH MỚI



Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, có hơn 26 triệu tín đồ chiếm trên 27% dân số cả nước. Đồng bào theo các tôn giáo chủ yếu là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, sống “tốt đời đẹp đạo”. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chăm lo xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo; tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận chung, tạo thành lực lượng cách mạng to lớn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, các chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị, công tác tôn giáo trong Quân đội những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cấp ngày càng nâng lên. Các đơn vị trong toàn quân đã có nhiều việc làm thiết thực, cụ thể, như: tích cực tham gia hỗ trợ đồng bào các tôn giáo phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng, chống dịch bệnh, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, gia đình văn hóa, cùng với giúp đồng bào phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt, v.v. Các đoàn kinh tế - quốc phòng, lực lượng Bộ đội Biên phòng thường xuyên cử cán bộ, các tổ công tác xuống địa bàn vùng tôn giáo, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương kiện toàn chức danh cán bộ thôn, bản; bồi dưỡng, kết nạp đảng viên; xây dựng tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, làm tốt công tác tuyển quân, tuyển sinh quân sự; công tác vận động chức sắc, tín đồ, người có uy tín trong các tôn giáo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh ngày càng hiệu quả. Công tác dân vận ở vùng đồng bào tôn giáo được tiến hành với nhiều nội dung, hình thức phong phú, mang lại hiệu quả thiết thực, nổi bật là:  “Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận”, “Gắn kết hộ người Kinh với hộ đồng bào dân tộc thiểu số”, giúp đồng bào phát triển kinh tế hộ gia đình; “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo”; phong trào “Họ đạo gương mẫu”; Chương trình “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Ngân hàng bò”, “Nâng bước em tới trường;“Cảnh sát biển với đồng bào dân tộc, tôn giáo”, “Gắn kết yêu thương, giữa lương và giáo”,v.v. Hằng năm, nhân các dịp lễ, tết, các sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, Nhà nước, Quân đội và những ngày lễ trọng của các tôn giáo, các đơn vị tổ chức nhiều cuộc gặp mặt các chức sắc, tín đồ tôn giáo; công tác quản lý, rèn luyện, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng quân nhân theo các tôn giáo thực hiện nghiêm điều lệnh quản lý bộ đội; thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, không có hành vi phân biệt, đối xử luôn tạo điều kiện cho quân nhân theo các tôn giáo phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, có đủ trình độ, năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác bồi dưỡng, kết nạp quân nhân theo các tôn giáo vào Đảng và tham gia sinh hoạt đảng, thực hiện đúng hướng dẫn của Trung ương. Nhân các ngày lễ của các tôn giáo lãnh đạo, chỉ huy đơn vị đều tổ chức các hoạt động văn hóa phù hợp với các tôn giáo và điều kiện của đơn vị.  Các vấn đề về đất đai, cơ sở vật chất của các tôn giáo có liên quan đến quốc phòng - an ninh được cấp ủy, chỉ huy các đơn vị phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chức năng ở địa phương giải quyết đúng pháp luật. Những việc làm trên đã góp phần động viên tư tưởng, phát huy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quân nhân, tạo sự đồng thuận, niềm tin của các chức sắc, tín đồ và nhân dân vùng tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào có đạo; tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở. Đồng thời, làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ và nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh, ngăn ngừa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.
Những năm tới, tình hình tôn giáo thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, các hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng được truyền bá nhanh chóng giữa các quốc gia tăng lên; đặc biệt là việc tận dụng công nghệ thông tin để đẩy mạnh việc phát triển tín đồ. Đối với nước ta, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập sâu rộng kinh tế thế giới, đất nước ta vẫn còn đứng trước những khó khăn, thách thức mới; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, phức tạp hơn, trong đó, việc lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá cách mạng nước ta là một trong những nội dung trọng tâm của chúng. Đối với hoạt động tôn giáo, bên cạnh xu thế hành đạo gắn bó với dân tộc, trong khuôn khổ pháp luật là chủ yếu, vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố khó lường, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở. Trong khi đó, bên cạnh những kết quả tích cực, nhận thức và năng lực, phương pháp tiến hành công tác tôn giáo của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang vẫn còn những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục kịp thời.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị định của Chính phủ về công tác tôn giáo, Quân ủy Trung ương đã ra Chỉ thị 1006-CT/QUTW, ngày 27/9/2019, “Về tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội thực hiện công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Nội dung Chỉ thị tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau: tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, nhiệm vụ, nguyên tắc, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo; làm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân thống nhất nhận thức và trách nhiệm về công tác tôn giáo, coi đó là nhiệm vụ chính trị của Quân đội. Các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng nghiên cứu, cụ thể hóa chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước để triển khai thực hiện bảo đảm phù hợp với nhiệm vụ của Quân đội và sự phát triển của tình hình mới. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động công tác dân vận, tham gia xây dựng cơ sở địa phương vùng có đông đồng bào tôn giáo vững mạnh toàn diện. Những tồn tại về đất đai, cơ sở vật chất của tôn giáo liên quan đến quốc phòng - an ninh phải được giải quyết trên nguyên tắc: đúng pháp luật của Nhà nước; từng trường hợp cụ thể phải đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ quân sự, sự ổn định tình hình chính trị - xã hội, phù hợp với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới theo Chỉ thị 1006-CT/QUTW của Quân ủy Trung ương, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, phổ biến đến mọi cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị nhận thức đầy đủ, sâu sắc Chỉ thị của Thường vụ Quân uỷ Trung ương “Về tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội thực hiện công tác tôn giáo trong tình hình mới”, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về công tác tôn giáo, nhất là Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, v.v. Các cơ quan, đơn vị xác định hình thức, phương pháp, thời gian học tập, quán triệt Chỉ thị phù hợp đặc điểm tình hình, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình, có thể kết hợp với các hội nghị học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy các cấp, song phải đảm bảo nội dung, đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Quá trình học tập, quán triệt, tập trung làm rõ những quan điểm sau: (1). Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; (2). Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; (3). Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; (4). Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; (5). Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; (6). Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; (7). Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (8). Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để truyền đạo trái pháp luật, tuyên truyền, kích động gây chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối trật tự, xâm phạm an ninh quốc gia, v.v. Hằng năm, các cơ quan, đơn vị lồng ghép thông tin về tình hình, kết quả thực hiện công tác tôn giáo của Quân đội nói chung, tình hình tôn giáo trên địa bàn, kết quả thực hiện công tác tôn giáo của đơn vị nói riêng vào chương trình giáo dục chính trị cho các đối tượng.
Hai là, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xây dựng Đảng, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể địa phương nghiên cứu, tìm hiểu, nắm những kiến thức cơ bản về tín ngưỡng, tôn giáo, nhất là các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới (những Ngày lễ trọng, nghi thức, đời sống đức tin,...), góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, nhất là công tác tuyển quân, tuyển sinh quân sự, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vùng đồng bào tôn giáo; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người đứng đầu các tổ chức tôn giáo. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, phải quán triệt quan điểm: “không phân biệt người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi để mọi công dân phát huy những giá trị tốt đẹp của các tôn giáo trong thực hiện nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác dân vận ở vùng đồng bào tôn giáo. Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp với truyền thống, phong tục, tập quán của đồng bào, nghi thức đời sống đức tin của từng tôn giáo. Bằng các việc làm cụ thể, như: tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, ô nhiễm môi trường, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; tổ chức gặp mặt, thăm hỏi, động viên tranh thủ, phát huy vai trò của các chức sắc, chức việc, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh vùng giáo. Thông qua đó, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở, chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội địa phương; tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nhất là đối với tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người có uy tín trong các tôn giáo, tạo sự đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện.
Bốn là, thực hiện tốt chính sách tôn giáo đối với quân nhân có đạo, gốc đạo; công tác bồi dưỡng, kết nạp đảng viên đối với người theo tôn giáo đang phục vụ trong Quân đội theo Quy định số 06-Qđi/TW, ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 20/HD-BTCTW, ngày 26/9/2019 của Ban Tổ chức Trung ương về thực hiện Quy định số 06-QĐi/TW, ngày 28/8/2018 về “Quy định một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người theo tôn giáo và đảng viên là người theo tôn giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo”. Quán triệt để mọi quân nhân chấp hành nghiêm Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử đối với quân nhân theo các tôn giáo, tạo điều kiện để mọi quân nhân đều được phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện, có đủ phẩm chất chính trị, trình độ và năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần tạo nguồn cán bộ cho các địa phương vùng giáo.
Năm là, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, phát huy hiệu quả các phương tiện thông tin truyền thông hiện đại phục vụ cho việc nắm tình hình; tuyên truyền, giáo dục không để quân nhân tham gia vào các hoạt động của một số “hiện tượng tôn giáo mới”, hoạt động của các tổ chức, hội nhóm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện âm mưu thành lập các tổ chức chính trị đối lập, ly khai, tự trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: “Nhà nước Mông”, “Nhà nước Đề Ga”, “Nhà nước Khơ me Crôm”; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn và tham gia giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp liên quan đến tôn giáo, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội.
Sáu là, thường xuyên củng cố, kiện toàn cơ quan dân vận các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tích cực tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về tôn giáo, kỹ năng công tác dân vận vùng đồng bào tôn giáo cho cán bộ, chiến sĩ; làm tốt công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, biểu dương khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện công tác tôn giáo.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt công tác tôn giáo là một nhiệm vụ chính trị của toàn quân, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

PHÁT HUY NHÂN TỐ CHÍNH TRỊ - TINH THẦN CỦA QUÂN ĐỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19



Dịch Covid-19 là đại dịch đặc biệt nguy hiểm, lây lan nhanh, tác động nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Tại Việt Nam, với tầm nhìn và tư duy chiến lược, Đảng, Nhà nước ta đã sớm dự báo sát đúng tình hình, mức độ nguy hiểm của dịch bệnh. Với tinh thần bám sát thực tiễn, xây dựng chiến lược ứng phó khoa học, sáng tạo, phù hợp, triển khai quyết liệt, đồng bộ, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong phòng chống dịch. Quán triệt quan điểm “chống dịch như chống giặc” được thấu suốt từ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đến từng cán bộ, chiến sĩ; xác định đây là nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chiến đấu của Quân đội trong thời bình, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã kịp thời có các văn bản chỉ đạo trong từng giai đoạn phòng, chống dịch, góp phần quan trọng cùng với cả nước bước đầu đẩy lùi dịch bệnh, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, coi Việt Nam là “điểm sáng” của thế giới về phòng, chống đại dịch. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Quân đội luôn là trụ cột của quốc gia, đặc biệt khi đất nước lâm nguy, giặc giã, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm, thì vai trò chủ đạo và tính chất nòng cốt của Quân đội càng được thể hiện rõ hơn và phát huy mạnh mẽ”. Chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của đất nước và Quân đội dựa trên nền tảng chính trị - tinh thần gồm tổng thể các yếu tố từ đường lối đúng đắn của Ðảng, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, lòng yêu Tổ quốc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Ðảng và sự điều hành của Chính phủ, từ truyền thống của dân tộc và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta đã được phát huy cao độ, không chỉ trong các cuộc chiến tranh trước đây, mà còn trên trận tuyến chống đại dịch hiện nay.
Trong cuộc chiến cam go này, đối với Quân đội, sức mạnh đó được thể hiện trước hết ở tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tiến công không lùi bước, xung kích, đi đầu, làm tròn trọng trách mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng giao phó. Ngay từ đầu, Quân đội đã phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành, địa phương, chủ động xây dựng, điều chỉnh các kế hoạch, phương án ứng phó với các cấp độ dịch, sớm tổ chức diễn tập toàn quân với quy mô lớn (tại 227 điểm cầu, 267 điểm thực binh với trên 22.000 người tham gia), dự báo các tình huống xấu nhất có thể xảy ra để có phương án xử lý tốt nhất. Tăng cường tổ chức tập huấn, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, kiện toàn, sắp xếp, bố trí lực lượng; kịp thời bổ sung một khối lượng lớn trang thiết bị, vật tư y tế, cơ sở vật chất theo phương châm “4 tại chỗ” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Sức mạnh đó còn được thể hiện sâu sắc ở tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, chấp nhận gian khổ, hy sinh quên mình, “vì nhân dân phục vụ”. Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các đơn vị đã tổ chức trên 09 vạn lượt cán bộ, chiến sĩ bộ đội Biên phòng, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ khắc phục khó khăn, gian khổ, kiên cường bám trụ ngày đêm tại 1.645 tổ, chốt dọc theo các tuyến biên giới phía Bắc, Tây, Tây Nam, tạo thành “lá chắn thép” không để dịch bệnh lây lan từ ngoài vào nội địa. Chủ động dồn dịch, nhường doanh trại để tổ chức 159 địa điểm cách ly tập trung cho gần 07 vạn người từ vùng dịch nước ngoài về nước, với tinh thần phục vụ tận tình, chu đáo, góp phần thắt chặt tình cảm quân, dân, để lại ấn tượng sâu sắc về đất nước, Quân đội, con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Lực lượng quân y đã thành lập 25 đội, 154 tổ quân y cơ động, 07 bệnh viện dã chiến truyền nhiễm với tổng số 2.800 giường bệnh sẵn sàng làm nhiệm vụ. Trong thời gian ngắn, Học viện Quân y đã nghiên cứu, sản xuất thành công bộ sinh phẩm phát hiện vi rút Corona chủng mới phục vụ công tác phát hiện, sàng lọc người bệnh trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua đó khẳng định năng lực và đóng góp quan trọng của Quân đội trong phòng, chống dịch bệnh, góp phần nâng cao vị thế của nền y học nước nhà. Bộ đội Hóa học đã huy động các trang bị chuyên dụng hiện đại, có mặt kịp thời tại các “tâm dịch” khử trùng, tiêu tẩy, góp phần khoanh vùng, dập dịch hiệu quả, nhất là tại Sơn Lôi/Vĩnh Phúc, Trúc Bạch, Bạch Mai, Hạ Lôi/Hà Nội. Dù miền xuôi hay miền ngược, ở đâu bộ đội đến thì ở đó lòng dân yên tâm, tin tưởng hơn, làm đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.
Trước sự bùng phát của đại dịch trên thế giới, phát huy tinh thần quốc tế vô tư, trong sáng, chúng ta đã tích cực hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế, cử chuyên gia giúp quân đội một số quốc gia trong phòng, chống dịch bệnh (Lào, Campuchia, Nga, Cu Ba, Trung Quốc,…). Dù giá trị vật chất không lớn nhưng nghĩa cử cao đẹp đó được bạn bè quốc tế trân trọng, khen ngợi, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội và đất nước trên trường quốc tế. Ngay trong cuộc chiến với dịch bệnh, toàn quân đã chủ động điều chỉnh, tổ chức triển khai thực hiện tốt các hoạt động quân sự, quốc phòng; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc, không để bị động, bất ngờ; tích cực giúp các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn; phối hợp giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cả nước.
Có thể khẳng định, sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội bắt nguồn từ bản chất, truyền thống cách mạng của Đảng và cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc được kế thừa, phát huy trong điều kiện mới, bảo đảm cho Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, thực sự là điểm tựa tin cậy cho toàn dân trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh, với khát vọng và quyết tâm như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để chiến thắng đại dịch Covid-19”.
Thời gian tới, đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, có thể bùng phát trở lại, gây hậu quả nghiêm trọng, thách thức gay gắt vai trò của các nước, các thể chế quốc tế về an ninh phi truyền thống, làm thay đổi trật tự thế giới, thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc cực đoan, làm gia tăng cạnh tranh địa chiến lược giữa các nước lớn, nhất là trên Biển Đông, tác động sâu sắc đến môi trường an ninh khu vực. Nước ta đang chuyển sang trạng thái “bình thường mới”, mở ra cơ hội đan xen nhiều khó khăn, thách thức bởi tác động tiêu cực của dịch bệnh; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đặt ra những yêu cầu mới nặng nề hơn đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Quân đội, cùng với phòng, chống dịch, tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nghị quyết, chiến lược, đề án về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; điều chỉnh tổ chức lực lượng, cơ cấu lại, đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp quân đội, chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,... đòi hỏi phải có sự thống nhất cao về nhận thức và hành động. Vì vậy, để phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của Quân đội trong phòng, chống dịch Covid-19, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới. Trước hết cần khẳng định, nhân tố chính trị - tinh thần giữ vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi hay thất bại đều tùy thuộc vào tâm trạng của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1. Do đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng bộ đội là vấn đề quan trọng hàng đầu, cần được làm trước, làm thường xuyên để phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ. Thực tiễn vừa qua, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã chú trọng làm tốt công tác quán triệt nhận thức, động viên tư tưởng bộ đội, chấp hành nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị với tinh thần “chống dịch như chống giặc”. Đây là yếu tố tiên quyết, trở thành kinh nghiệm thực tiễn quý báu để phát huy cao độ sức mạnh chính trị - tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị.
Vì vậy, cùng với việc điều chỉnh thực hiện tốt chương trình giảng dạy, giáo dục chính trị cho các đối tượng, cần tiếp tục quán triệt nghiêm sự chỉ đạo của các cấp về phòng, chống dịch bệnh, trọng tâm là Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Kết luận số 172-TB/TW, ngày 21/3/2020 của Bộ Chính trị, Công văn số 79-CV/TW, ngày 29/01/2020 của Ban Bí thư, Chỉ thị số 19/CT-TTg, ngày 25/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 260-CT/QUTW, ngày 19/3/2020 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chỉ thị số 104/CT-BQP, ngày 12/5/2020 của Bộ Quốc phòng về tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc, thống nhất trong toàn quân quan điểm “chống dịch như chống giặc”, “chống dịch là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình”, bảo đảm trong bất luận hoàn cảnh nào Quân đội cũng đi đầu trong phòng, chống dịch bệnh. Giáo dục cho bộ đội thấu suốt nhận thức, không chủ quan, lơ là, luôn gương mẫu đi đầu, nhân lên các giá trị tốt đẹp trong phòng, chống dịch về truyền thống yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, tinh thần tương thân, tương ái, tự hào, tự tôn dân tộc, tính kỷ luật, đoàn kết, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về việc Quân đội ứng phó với đại dịch Covid-19 và các thách thức an ninh phi truyền thống, góp phần bổ sung, phát triển đường lối quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin của con người càng tăng. Do đó, công tác thông tin, tuyên truyền ngày càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Khi dịch bệnh đe dọa sự an toàn của con người và xã hội thì các luồng thông tin về nó tác động rất lớn đến việc xây dựng và phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Vì vậy, cần tập trung phát huy tốt tất cả các kênh thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận đảm bảo kịp thời, minh bạch, chính xác. Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, gắn tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh với tuyên truyền nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Báo chí quân đội chủ động xây dựng tuyến tin, bài chuyên sâu, qua đó khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, vai trò, chức năng, bản chất, truyền thống của Quân đội và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trên trận tuyến chống đại dịch và có phương án tuyên truyền trong tình huống khẩn cấp về dịch bệnh nếu xảy ra.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tuyên truyền trên nền tảng mạng truyền số liệu quân sự, internet, mạng xã hội và các thiết chế văn hóa tại đơn vị. Các đơn vị văn học, nghệ thuật quân đội phát động sáng tác, quảng bá các tác phẩm về đề tài phòng, chống dịch bệnh. Đẩy mạnh công tác thi đua - khen thưởng trong phòng, chống dịch gắn với các cuộc vận động lớn, phong trào thi đua Quyết thắng và các đợt thi đua cao điểm, đột kích nhân các ngày lễ kỷ niệm lớn; hướng mạnh về cơ sở, tập trung vào các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ; kịp thời phát hiện, tôn vinh, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, tập thể, cá nhân tiêu biểu trong cuộc chiến đẩy lùi đại dịch.
Ba là, phát huy vai trò trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phòng, chống dịch bệnh và thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của Quân đội. Do vậy, cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập trung vào tiếp tục triển khai có hiệu quả nghị quyết chuyên đề lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch. Kịp thời bổ sung chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, phù hợp với tình hình mới, đảm bảo vừa lãnh đạo phòng, chống dịch bệnh tốt, vừa triển khai đồng bộ các biện pháp để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quân ủy Trung ương và nghị quyết của cấp ủy các cấp về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị số 747-CT/QUTW, ngày 23/7/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Cùng với đó, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 855-CT/QUTW, ngày 12/8/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Quán triệt và thực hiện tốt các quy định của Đảng về nêu gương2, đặc biệt là Quy định số 646-QĐ/QUTW, ngày 06/01/2012 của Thường vụ Quân ủy Trung ương “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp trong Quân đội” và Nghị quyết số 109-NQ/QUTW, ngày 11/2/2019 của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”. Phát huy tốt vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là bí thư cấp ủy, cán bộ chủ trì, cán bộ chính trị các cấp, làm nòng cốt trong nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, tạo cơ sở để phát huy sức mạnh tổng hợp của Quân đội ứng phó tốt với các cấp độ dịch và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; tăng cường công tác chính sách, dân vận, xây dựng mối quan hệ đoàn kết gắn bó quân - dân; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng và cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống dịch, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Đây là các yếu tố rất quan trọng để nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Tập trung phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng (thanh niên, phụ nữ, công đoàn) và hội đồng quân nhân, tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng công tác phòng, chống dịch và các nhiệm vụ của đơn vị. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với Quân đội và hậu phương quân đội, nhất là một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch theo quy định tại Nghị định số 37/NĐ-CP, ngày 29/3/2020 của Chính phủ. Quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn tại đơn vị và các khu cách ly.
Tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia phòng, chống dịch và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là tại các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Phối hợp với các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương làm tốt công tác điều phối, tiếp nhận, vận chuyển, theo dõi, cách ly và các nội dung, biện pháp ứng phó hiệu quả với các cấp độ dịch trên địa bàn (nếu xảy ra), giúp dân khôi phục, phát triển sản xuất, ổn định đời sống, xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, khu vực phòng thủ vững chắc, tăng cường tiềm lực quốc phòng, “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng, xuyên tạc công tác phòng, chống dịch bệnh để chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội. Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tăng cường chống phá, hòng làm suy giảm niềm tin, ý chí của nhân dân và Quân đội, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng tình hình dịch bệnh, các vấn đề bức xúc trong xã hội và dịp diễn ra đại hội đảng các cấp, chúng tập trung xuyên tạc chủ trương, chính sách, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội, tung tin bịa đặt về công tác nhân sự đại hội, phủ nhận kết quả phòng, chống dịch bệnh, phủ nhận vai trò, chức năng của Quân đội. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội cũng là quá trình đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Theo đó, cần đẩy mạnh quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò của các cơ quan chức năng và lực lượng nòng cốt triển khai đồng bộ các biện pháp, kiên quyết đấu tranh vạch trần và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, nhất là trên không gian mạng.
Cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, có thể kéo dài, với hệ lụy nặng nề cho thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc phát huy nhân tố chính trị - tinh thần, yếu tố quyết định nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, làm nòng cốt cùng toàn dân chiến thắng đại dịch và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất cấp thiết. Do đó, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, không ngừng nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của toàn quân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”3.      
1 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 31, Nxb Sự thật, H. 1989, tr. 105.
2 - Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, v.v.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 435.

BÁO CHÍ CÁCH MẠNG ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI



(TG)-  Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Ðảng và của nhân dân ta. Kiên định mục tiêu này là tình cảm, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; trong đó, báo chí cách mạng Việt Nam là lực lượng quan trọng.
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VỚI MỤC TIÊU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm báo là để phục vụ cách mạng; để làm cách mạng Người đã trở thành một nhà báo chân chính, với phong cách báo chí đặc sắc. Người luôn coi báo chí là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đó chính là "tính Đảng của báo chí cách mạng Việt Nam".
Để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang đó, báo chí cách mạng Việt Nam không chỉ phải có đường lối chính trị đúng; phải đi tiên phong trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử mà còn phải có tính chiến đấu, tính thuyết phục và tính hấp dẫn. Theo đó, báo chí không chỉ tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không chỉ là tiến công vào kẻ thù của cách mạng, v.v.. mà còn phải kịp thời phản ánh sinh động những tấm gương tập thể và cá nhân tiêu biểu, anh hùng, những bông hoa người tốt, việc tốt trong vườn hoa đậm sắc hương của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong chiến đấu và lao động sản xuất, để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia cách mạng, góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, "báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung, người lãnh đạo chung”[1], góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, cho nên: 1) “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hoà bình thế giới”[2]; 2) Đề tài xuyên suốt của báo chí cách mạng Việt Nam là “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[3]; 3) “Các báo chí và văn nghệ phải điều tra tuyên truyền, khen ngợi những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm trong việc phổ biến sáng kiến và kinh nghiệm. Đó là một nhiệm vụ vẻ vang của báo chí và văn nghệ thiết thực góp phần vào phong trào thi đua ái quốc”[4]; 4) "Báo có mục "ý kiến bạn đọc", bạn đọc thường gửi ý kiến cho báo, đó là một việc rất hay. Vì đó là một cách phê bình và tự phê bình thiết thực, rộng rãi của nhân dân… Ý kiến bạn đọc là những ý kiến đấu tranh. Cái mới đấu tranh với cái cũ, cái tốt đấu tranh với cái không tốt. Ðấu tranh thì phải đấu tranh đến kết quả thắng lợi. Như thế, "ý kiến bạn đọc" mới thật có ích"[5]; 5) Báo chí phải luôn chú trọng tự phê bình và phê bình vì “phê bình và tự phê bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và dân ta ngày càng tiến bộ. Đối với báo chí cũng vậy”[6]
Còn "cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ", vì thế, để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình cán bộ báo chí: 1) Phải coi "cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”[7]; 2) "Cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, "cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa ; chú trọng học tập chính trị"…đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động"[8]: 3) "Mỗi khi viết một bài báo, thì cần tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc? Khi viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm. Chớ tự ái, tự cho bài của mình là "tuyệt" rồi[9]
Thực hiện theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách mạng Việt Nam và đội ngũ những người làm báo Việt Nam đã luôn vì cách mạng, vì Đảng, vì nhân dân mà nỗ lực thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của  mình. Đó cũng chính là mục đích, là điều kiện, là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí; đồng thời, thể hiện là tính Đảng của báo chí cách mạng Việt Nam - biểu hiện sự trung thành của báo chí đối với Đảng, cống hiến của báo chí vào sự nghiệp vĩ đại của Đảng. Một trong những kết quả nổi bật của báo chí cách mạng Việt Nam nói chung, của các tạp chí  Tạp chí Cộng sản, Tuyên giáo, Lý luận chính trị, Lịch sử Đảng, Chủ nghĩa xã hội - Lý luận và thực tiễn,v.v.. nói riêng là đã mở và duy trì thường xuyên chuyên trang, chuyên mục với nhiều bài viết chuyên sâu về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng… Xuyên suốt và nhất quán trong nội dung những bài báo/loạt bài báo trên các chuyên trang, chuyên mục đó là: không chỉ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và thế giới mà còn tuyên truyền, phổ biến rộng rãi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân mục tiêu của cách mạng Việt Nam, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta lựa chọn từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (mùa Xuân năm 1930).
95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là gần 45 năm được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện (kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập báo Thanh Niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, số 1 ra ngày 21/6/1925), báo chí cách mạng Việt Nam đã góp phần làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, thực hiện được vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân; thực sự là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hoá.
Trong mọi thời điểm, báo chí cách mạng Việt Nam luôn là công cụ thông tin nhanh nhất, phổ cập nhất, là phương tiện thường xuyên tiếp xúc với nhân dân và giải đáp những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra; đồng thời, hằng ngày, hàng giờ chủ động đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù địch, chống các khuynh hướng tư tưởng sai lầm, góp phần tổ chức, phát động phong trào hành động cách mạng của nhân dân. Hoạt động báo chí đã hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng bước xây dựng con người mới, lối sống mới, làm cho những nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; trong đó, "đội ngũ những người làm báo tích cực tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; những thành tựu của đất nước; đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt, báo chí đã tham gia hiệu quả bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hội đã tích cực tham gia xây dựng cơ chế và chính sách báo chí, giám sát việc tuân thủ pháp luật về báo chí, góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của báo chí cách mạng Việt Nam”[10]… góp phần quan trọng vào quá trình truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp thiết thực, cụ thể, có tác dụng góp sức và truyền cảm hứng cho toàn thể nhân dân ta, dân tộc ta trên con đường đi đến tương lai - con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, báo chí cách mạng Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục. Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 8/4/2020 của Ban Bí thư về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới" đã nêu rõ: “Một số tổ chức hội, cơ quan báo chí chưa chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Một bộ phận hội viên chưa tích cực học tập nâng cao trình độ tác nghiệp báo chí trong tình hình mới. Vẫn còn tình trạng hoạt động báo chí xa rời tôn chỉ, mục đích, thiếu tính định hướng; một số người làm báo thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp”; đồng thời nhấn mạnh rằng, trong những nguyên nhân của sự yếu kém nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, song nguyên chủ yếu là “công tác xây dựng Đảng, công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn, nghiệp vụ ở một số cấp hội chưa được quan tâm đúng mức”. 
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG GÓP PHẦN TRUYỀN CẢM HỨNG ĐỂ KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ðộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn nhất quán của Ðảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù thuận lợi hay khó khăn, Ðảng ta, nhân dân ta cũng vẫn không rời xa mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật và xu thế phát triển của thời đại. Có thể khẳng định rằng, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm dân tộc độc lập thực sự, đất nước phát triển phồn vinh và bền vững, nhân dân mới có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mới thực hiện được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Tuy nhiên, từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, một trong những bài học quan trọng hàng đầu được Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra là: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[11]. Để hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng đề ra mục tiêu phù hợp và Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định mục tiêu hiện nay là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[12]. Đây vừa là mục tiêu, vừa là đặc trưng đầu tiên của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng. Vì thế, để thực hiện được mục tiêu xuyên suốt, nhất quán và mục tiêu trước mắt, cần phải lôi cuốn và phát huy tốt nhất vai trò, trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; trong đó, báo chí là lực quan trọng - một trong ba “binh chủng” của những người làm công tác tư tưởng (nhà lý luận; người tuyên truyền và người cổ động)[13] như V.I. Lênin đã nhấn mạnh. 
Theo đó, báo chí cách mạng cần phải/nhất định phải: “a) Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân; b) Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[14] để góp sức truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Phát huy vai trò của báo chí trong việc truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quá trình phát hiện, làm bộc lộ, hình thành, sử dụng những tiềm năng sáng tạo và không ngừng gia tăng tính tích cực, tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân nhà báo kết hợp với sức mạnh của cả đội ngũ nhà báo, cán bộ quản lý báo chí, các hội nhà báo. Thông qua đó, không chỉ thông tin, tuyên truyền, giáo dục và phổ biến cho toàn dân những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để góp phần nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có thái độ, tình cảm cách mạng đúng, trách nhiệm công dân tốt mà còn nâng cao bản lĩnh chính trị, chủ động phòng và đấu tranh không khoan nhượng với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cùng kiên định và thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong đó, việc phát huy vai trò của báo chí trong truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải hướng tới “mục tiêu kép”. Đó là không chỉ định hướng cho toàn dân tộc nhận thức rõ về tính tất yếu, nội dung, đặc điểm, cách thức, tính khó khăn, lâu dài, phức tạp và niềm tin chắc chắn vào thắng lợi vào mục tiêu đó mà đi liền cùng đó là phải xây dựng được đội ngũ nhà báo và cơ quan báo chí thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trước hết và hơn ai hết, đội ngũ nhà báo và cơ quan báo chí phải thấm nhuần và luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong từng ấn phẩm báo chí bằng tính chiến đấu cao, sự thuyết phục chặt chẽ và sức hấp dẫn mạnh mẽ đến lôi cuốn.
Để phát huy vai trò của báo chí trong quá trình truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cần phải sử dụng tổng hợp các cách thức và biện pháp, trong đó tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, "tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với báo chí theo hướng bảo đảm báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng và quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Tổ chức quán triệt, thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và pháp luật liên quan đến hoạt động báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam”[15]. Đồng thời, tăng cường tính Đảng, tính chiến đấu của báo chí cách mạng để báo chí có thể và đảm bảo đóng góp tích cực nhất vào quá trình truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cụ thể, báo chí phải tự giác phục tùng và tranh thủ tối đa sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc nguyên tắc bất di, bất dịch bảo đảm cho báo chí cách mạng hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ban Chấp hành Trung ương phải kiểm soát các báo chí của Đảng để tránh những khuyết điểm về kỹ thuật và chính trị”[16]; đồng thời, "phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”[17] vì “báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”[18]
Hai là, đội ngũ các nhà báo, các cơ quan báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 8/4/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới, Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 3/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 gắn với thực tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" trong các cơ quan báo chí, trong các cấp hội nhà báo và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. 
Ba là, tiếp tục xây dựng đội ngũ những người làm báo “vừa hồng, vừa chuyên”, luôn có “tâm sáng, lòng trong, ngòi bút sắc”. Theo đó, đội ngũ những người làm báo phải thường xuyên tự trau dồi đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp; tự học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận, kỹ năng, nghiệp vụ báo chí, nhất là có đủ tri thức cơ bản để thấm nhuần và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thực sự là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng - văn hóa để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang, vì "muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hoá, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn luôn cố gắng, mà cố gắng thì nhất định thành công”[19]. Theo đó, mỗi người làm báo, mỗi hội viên Hội Nhà báo Việt Nam cần nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình để học tập, tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt và nêu cao tinh thần cống hiến, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu góp phần xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam giàu tính chiến đấu, nhân văn, chuyên nghiệp và hiện đại, vì lợi ích của đất nước và nhân dân.
Bốn là, tăng cường mối quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học trong công tác tư tưởng của báo chí để truyền cảm hứng cho toàn dân tộc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hiện nay gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII  về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới" trong các cơ quan báo chí. Theo  đó, báo chí và đội ngũ những người làm báo: 1) Phải giữ vững và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng sai trái, thù địch; kiên trì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; 2) Phải nắm vững đặc điểm, đối tượng, tăng cường tính Đảng, tính thuyết phục và hấp dẫn trong công tác tuyên truyền của báo chí; 3) Tăng cường sử dụng những hình thức, phương pháp, phương tiện thu hút sự chú ý và phát triển trí sáng tạo ở đối tượng truyền cảm hứng trên cơ sở đổi mới nội dung cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động cho phù hợp yêu cầu thực tiễn của đất nước từng lúc, từng nơi và thích hợp nhu cầu, đặc điểm nhận thức của các loại đối tượng cụ thể.
Năm là, trên cơ sở đổi mới nội dung tuyên truyền bảo đảm tính Đảng, tính khoa học và tính chiến đấu cao, các cơ quan báo chí phải sử dụng hiệu quả loại hình báo chí đa phương tiện để thu hút độc giả; khắc phục nguy cơ báo chí có thể bị truyền thông xã hội chi phối, lấn át, gây ra những tác hại không đáng có. Đặc biệt, không để các thế lực thù địch cài cắm lực lượng vào các tổ chức của những người làm báo hoặc bị mua chuộc. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách và quan tâm hơn nữa việc bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của hội viên, của người làm báo; trong đó, chú trọng và kịp thời động viên khen thưởng xứng đáng đối với các đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động báo chí, công tác hội; nhất là các tổ chức hội, hội viên trực tiếp hoạt động ở những lĩnh vực, địa bàn có nhiều khó khăn, những điển hình tiên tiến của tập thể và cá nhân tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước trên con đường thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.166
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.166
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.171
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.405
[5]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.229-230
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.464
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.540
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.466
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.466
[10] Ban Chấp hành Trung ương: Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 8/4/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới, Hà Nội, tr.1
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.69
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.65
[13] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1975, t.6, tr.85
[14] Luật Báo chí năm 2016: Mục a và b, điểm 1, Điều 4
[15] Ban Chấp hành Trung ương: Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 8/4/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới, Hà Nội, tr.1
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.168
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.166
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.166
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.166

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...