Thứ Sáu, 18 tháng 8, 2023

 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả tất yếu của một quá trình chuẩn bị lâu dài, trải qua 3 cuộc vận động cách mạng lớn để khi tình thế trực tiếp xuất hiện, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.

 

Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực và nắm bắt đúng thời cơ mà chỉ trong vòng hai tuần (từ ngày 14 đến 28-8-1945), cuộc tổng khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Sự thật lịch sử là như vậy. Ấy thế mà gần 8 thập niên trôi qua kể từ khi diễn ra sự kiện này, vẫn còn có những ý kiến cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam bùng nổ và thành công nhanh chóng chẳng qua là một “sự ăn may” do khách quan mang lại, nhờ vào cái gọi là “khoảng trống quyền lực” và nhờ vào việc “quân đội Nhật Bản đã đầu hàng quân Đồng minh”... Trong số đó, có người chưa hiểu thấu đáo, nhưng cũng có người cố tình không hiểu nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân trong cuộc cách mạng vĩ đại này, làm lu mờ ý nghĩa to lớn của nó. Vậy đâu là sự thật lịch sử?
Cuộc mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Mặt trận Việt Minh tổ chức tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 19/8/1945. Ảnh: Tư liệu – TTXVN 

Trước hết, cần phải khẳng định, trong khoảng thời gian từ khi quân Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9-3-1945) đến ngày Hà Nội tổng khởi nghĩa thành công (19-8-1945), ở Việt Nam không hề tồn tại một “khoảng trống quyền lực” nào cả.

Như nhiều người đã biết, ngay sau cuộc đảo chính lật đổ quân Pháp, Tập đoàn quân 38 của Nhật đã nhanh chóng thiết lập bộ máy thống trị giành quyền kiểm soát trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và Đông Dương. Các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng... đều đặt dưới sự kiểm soát của quân Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim-một bộ máy chính quyền do Nhật dựng lên-tuy không nắm thực quyền nhưng vẫn là một chính phủ đầy đủ ban bệ. Chính phủ này cho đến ngày 17-8 vẫn còn cử người liên lạc, “mặc cả” với Việt Minh đòi chia sẻ quyền lực.

Trước đó, ngày 14-8, một ngày sau khi Ủy ban khởi nghĩa phát đi bản Quân lệnh số 1, Chính phủ Trần Trọng Kim còn ra tuyên bố “Nhất quyết không chịu lùi một bước trước một khó khăn nào để làm tròn sứ mệnh...” và họ cam đoan “vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương cục Nhật”(1). Ngay trong ngày 19-8, tại Hà Nội vẫn còn diễn ra một cuộc “dàn xếp thỏa hiệp” giữa chính phủ Trần Trọng Kim với chỉ huy Tập đoàn quân 38 của Nhật. Tuy nhiên sự thỏa hiệp đó bất thành.

 "Mau lẹ, kịp thời nổ ra đúng lúc phải nổ. Đó là đặc điểm nổi bật của Cách mạng tháng Tám năm 1945" - Đồng chí Trường Chinh

Để tăng thêm phần thuyết phục, có người lý giải nguyên nhân dẫn đến “khoảng trống quyền lực” ở Việt Nam thời điểm này là do “Chính sách của đồng minh đối với Đông Dương trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1945 là ngu dốt và quên lãng; còn chính sách của Pháp thì bối rối và bất lực”(2). Thực tế có phải vậy?

Qua các nguồn tư liệu cho thấy, lúc bấy giờ cả Anh, Mỹ và Pháp đều thừa hiểu sớm muộn gì thì phát xít Nhật cũng lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Mặc dù vậy, họ đều không thể làm gì được để xoay chuyển tình thế vì lúc bấy giờ cả Anh và Mỹ còn có những tính toán và theo đuổi mục tiêu khác quan trọng hơn. Vào thời điểm này (sau ngày 9-3) trên thực tế đồng minh chưa đủ sức để có thể đánh bại được đạo quân Nhật ở Đông Dương. Còn phía Pháp thì “lực bất tòng tâm”. Sau đảo chính, phần lớn quân Pháp bị Nhật bắt và giải giáp, một số chạy thoát được sang Lào thì rệu rã, giảm sút nhuệ khí. Pháp gần như không còn có vai trò đáng kể ở Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 9-3. Đến tận ngày 17-8, Pháp mới quyết định bổ nhiệm D’Argenlieu làm Cao ủy và Leclerc làm Tổng chỉ huy chuẩn bị đưa quân trở lại Đông Dương và tới ngày 12-9, khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời được 10 ngày thì đơn vị quân Pháp đầu tiên mới theo gót quân Anh tới Sài Gòn. Có thể nói, đối tượng chính của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là phát xít Nhật và bộ máy chính quyền tay sai do Nhật dựng lên chứ không phải là Pháp.

Chưa dừng lại ở những luận điểm nêu trên, một số người còn cho rằng Cách mạng Tháng Tám đã bùng nổ sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện các lực lượng Đồng minh chống phát xít và quân đội Nhật ở Việt Nam đã mất nhuệ khí, không còn chống cự.

Sự thật không phải như vậy, mà thực tế là: 12 giờ ngày 15-8, qua đài Tokyo, Nhật hoàng Hirohito đọc chiếu chỉ “xin chấp nhận bản Tuyên bố Postdam ngày 26-7”. Điều đáng nói đây chưa phải là một tuyên bố chấp nhận “đầu hàng vô điều kiện”, mà mới chỉ là một đề nghị ngừng bắn. Hơn nữa, bản chiếu chỉ đó cũng chưa được chuyển đạt tới cho Tập đoàn quân 38 của Nhật ở Đông Dương.

Theo ông Lê Trọng Nghĩa (Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội năm 1945, sau này là Cục trưởng Cục Quân báo), người được giao trực tiếp đi gặp Đại sứ Nhật Bản Tsukamoto vào tối 19-8-1945 thì phải đến ngày 21-8, tức là hai ngày sau khi Tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, chỉ huy Tập đoàn quân 38 của Nhật ở Việt Nam mới nhận được lệnh “đình chỉ chiến tranh”. Khi chiếc máy bay chở Thiếu tá Patti, chỉ huy đội “tiền trạm” của quân đồng minh vừa vào tới vùng trời Hà Nội định đáp xuống sân bay Bạch Mai thì bị lực lượng phòng không của Nhật nã đạn buộc phải quay trở lại Côn Minh.

Ngày 22-8, chiếc máy bay này tiếp tục đáp xuống sân bay Gia Lâm trong khi các sĩ quan Nhật tại đây vẫn chưa nhận được chỉ thị gì cả. Trước đó, trong các ngày 17, 18-8, tại Hà Nội, quân Nhật vẫn rất hung hăng, xe tăng, các chốt kiểm soát vẫn luôn sẵn sàng nã đạn gây tình hình rất căng thẳng. Tại nhiều địa phương đã nổ ra những cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân và LLVT cách mạng Việt Nam với quân Nhật...

Điểm qua một số sự kiện như trên để thấy rằng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam nổ ra và thành công trong bối cảnh quân đội Nhật Bản ở Đông Dương vẫn chưa đầu hàng các lực lượng Đồng minh chống phát xít và đạo quân phương Nam của Nhật ở Đông Dương tuy có suy giảm về tinh thần nhưng thực lực vẫn còn đang sung sức.

Thời cơ tổng khởi nghĩa chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng đó là “thời cơ vàng” mà Đảng ta, đứng đầu là Bác Hồ đã kịp thời chớp lấy, lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực tung ra đòn quyết định giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh nhất. Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm khi mà ở trong nước, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã phát triển lên đến đỉnh cao, chỉ huy Tập đoàn quân 38 của Nhật tuy chưa nhận được lệnh ngừng bắn nhưng tỏ ra bối rối trước diễn biến của tình hình; chính quyền tay sai hoang mang và tỏ ra bất lực; quân Nhật ở Đông Dương tuy còn đông và trang bị mạnh nhưng nhuệ khí và tinh thần chiến đấu đã suy giảm; quân đội Anh, Pháp, Tưởng thì chưa kịp kéo vào.

Phải một tuần sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, ngày 9-9 phái đoàn tiền trạm của Trung Hoa Dân quốc do Tiêu Văn dẫn đầu mới tới Hà Nội, sau đó, ngày 14-9 là bộ sậu của Lư Hán và tới ngày 28-9-1945, lễ đầu hàng của quân đội Nhật Bản mới chính thức diễn ra tại Hà Nội. Đây là thời cơ ngàn năm có một cho Tổng khởi nghĩa. Bởi nếu Tổng khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, khi Nhật chưa chấp nhận bản Tuyên bố Postdam của đồng minh thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Nhưng nếu nổ ra muộn hơn, khi quân Anh, Pháp và Tưởng đã kéo vào núp dưới cái ô “giải giáp quân Nhật” thì thời cơ thuận lợi nhất có thể sẽ trôi qua. Không phải ngẫu nhiên mà lúc này, lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm nặng vẫn cố gượng dậy căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.

"Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cách mạng của những người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất"-Stein Tonnesson, học giả người Na Uy.

Cách mạng Tháng Tám diễn ra và kết thúc nhanh gọn trên phạm vi cả nước. Có được điều kỳ diệu đó “căn bản là do lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận lợi nhất, khởi nghĩa giành chính quyền nhà nước. Nhưng nếu Đảng ta trước đó không xây dựng LLVT và thành lập các khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị, và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi, không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng không thể mau chóng giành được thắng lợi”(3).

Quá trình tạo thế, tạo lực để đón thời cơ đã được Đảng ta chuẩn bị từ rất sớm, ngay từ Hội nghị Trung ương 6 (1939), Hội nghị Trung ương 7 (1940) và đặc biệt là Hội nghị Trung ương 8 (1941)-hội nghị hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Với nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và toàn dân Việt Nam. Mặt trận Việt Minh ra đời. Việc xây dựng LLVT được định hình cụ thể cùng với việc xây dựng và mở rộng các căn cứ địa cách mạng... Tất cả đều nhằm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của tình thế, để không bỏ lỡ thời cơ chiến lược một khi nó xuất hiện.

Như vậy, có thể khẳng định, nhờ có một quá trình chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực cho cách mạng, khi tình thế biến chuyển, thời cơ xuất hiện, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời nắm bắt thời cơ, phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa mới là nhân tố chính đưa đến thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chứ tuyệt nhiên không phải là một “sự ăn may”,  “do yếu tố khách quan mang lại” như một số ý kiến đã ngộ nhận.

PGS, TS TRẦN NGỌC LONG

(1) Trần Quang Huy: “19/8-Cách mạng Tháng Tám là sáng tạo”, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, H.1995.

(2) Stein Tonnesson: The Vietnamese Revolution à 1945: Roosevell, Ho Chi Minh and De Gaulle in a world at War (Cách mạng Việt Nam năm 1945-Roosevell, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh), Nxb London-New Delhi 1991.

(3) Văn kiện quân sự của Đảng, NXB Quân đội nhân dân, H.1969.

Quan điểm thiếu khách quan và suy diễn về tình hình buôn người

Mới đây, trong Báo cáo về tình hình buôn người năm 2022 của Bộ Ngoại giao Mỹ được công bố vào tháng 7 năm 2023 đã tiếp tục đưa Việt Nam vào danh sách nhóm 2 liên quan đến tình trạng buôn người chưa được cải thiện ở các tiêu chí cơ bản, và khuyến nghị các tổ chức quốc tế gây sức ép với Việt Nam; đe dọa cắt các khoản viện trợ cho Việt Nam. Có thể nhận thấy những thông tin trên là thiếu khách quan và suy diễn; quan điểm chưa thiện chí và nhuốm màu chính trị, không phản ánh đúng về nỗ lực và những kết quả nổi bật về quyền con người ở Việt Nam nói chungvà về nạn buôn người nói riêng.18823dbhb

 

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn chúng ta khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt vấn nạn buôn người. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, những nội dung liên quan đến bảo đảm quyền con người được dành sự quan tâm đặc biệt, mọi chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đều nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân; tập trung bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội bền vững, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, giảm nghèo đa chiều và chính sách bảo hiểm y tế đa tầng, ưu tiên cho người nghèo và các đối tượng yếu thế trong xã hội. Đáng chú ý, quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam gắn với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời đại mới, được bảo vệ và bảo đảm toàn diện về quyền con người, quyền công dân, chống ngược đãi nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


 

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn coi việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người và đấu tranh phòng, chống mua bán người là chính sách ưu tiên, tạo động lực phát huy nguồn lực con người.Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII và các nghị quyết của Trung ương, Hiến pháp năm 2013, Quốc hội, Chính phủ và cơ quan tư pháp của Nhà nước Việt Nam đã cụ thể hóa và triển khai đồng bộ, hiệu quả chính sách, pháp luật về quyền con người, quyền công dân, trong đó thực hiện quyết liệt các giải pháp để đấu tranh với nạn buôn người. Vì vậy, về cơ bản tình trạng buôn người đã được kiểm soát hiệu quả, các vụ việc liên quan buôn người giảm rõ rệt. Tất cả các vụ việc liên quan đến nạn buôn người, mà nạn nhân hoặc nghi phạm là người Việt Nam ở nước ngoài đều được cơ quan chức năng của Việt Nam phối hợp với Interpol và cơ quan điều tra nước sở tại thông qua lãnh sự quán. Mặc dù tình trạng buôn người ở Việt Nam chưa được hoàn toàn chấm dứt, nhưng số vụ việc ngày càng giảm và việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân để phòng, chống nạn buôn người trên cơ sở Luật phòng, chống mua bán người năm 2011 được tích cực đẩy mạnh.

 

Các tiêu chuẩn cơ bản để xóa bỏ nạn buôn người đang tiếp tục được Nhà nước và nhân dân Việt Nam hoàn thiện. Từ các vụ việc buôn người bị đấu tranh, triệt phá, ngăn chặn và xử lý, cơ quan chức năng của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng hoàn thiện các tiêu chuẩn cơ bản để xóa bỏ nạn buôn người, nhất là nâng cao chất lượng thu nhập thông qua hệ thống các chính sách việc làm, thu nhập để cải thiện mức sống của người dân. Về quy phạm pháp luật, ngoài Luật phòng, chống mua bán người năm 2011, Bộ luật hình sự ở Việt Nam cũng được chỉnh sửa, bổ sung năm 2017 với nhiều chế tài để xử lý tội phạm liên quan đến nạn mua bán người, bóc lột sức lao động tàn tệ, dùng sức mạnh đối xử với con người như nô lệ,… Đây chính là những nỗ lực giải quyết căn cơ tình trạng nạn buôn người do các nạn nhân hầu hết là chưa có việc làm, việc làm thu nhập thấp, thất nghiệp và đang mong muốn có việc làm để thay đổi thu nhập, nên dễ mắc vào cạm bẫy mà tội phạm buôn người giăng ra.

 

Như vậy, những chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nhất là phòng, chống nạn buôn người được thực hiện đồng bộ, quyết liệt và có hiệu quả cao, nên về cơ bản, nạn buôn người đã được kiểm soát tốt. Do đó, các lập luận thiếu thiện chí, chưa khách quan trong Báo cáo về tình hình buôn người năm 2022 của Bộ Ngoại giao Mỹ thật sự là đáng tiếc, chưa phản ánh đúng thực tế tình trạng buôn người ở Việt Nam. Những lập luận đó thậm chí có phần cực đoan khi tiếp tục xếp Việt Nam vào danh sách theo dõi nhóm 2, để từ đó họ khuyến nghị các tổ chức quốc tế gây sức ép với Việt Nam, dọa cắt viện trợ cho Việt Nam. Đây là những vấn đề mang dụng ý chính trị, tạo tiền lệ xấu và làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước Việt - Mỹ, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước đã được gây dựng trong gần 40 năm qua kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995.

Nguồn: Báo Quân Khu Ba

Trước hết phải tự phê bình

 Phát biểu tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở: Hết sức tránh tình trạng “Chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người” để cảnh báo, phòng ngừa "căn bệnh" rất đáng lo ngại này trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây vừa là một biểu hiện, đồng thời là một trong những nguyên nhân dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"...

 1. Thời gian qua, cùng với những kết quả quan trọng của cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không ít cán bộ, đảng viên, có cả người đứng đầu các cấp bị kỷ luật, xử lý hình sự. Đáng nói là trong đó có một số cán bộ lúc đương chức nổi tiếng với những phát ngôn mạnh mẽ, quyết liệt trong chỉ đạo, răn dạy cấp dưới và quần chúng phải phấn đấu sống tốt, nỗ lực cống hiến, tránh bị cám dỗ, rơi vào chủ nghĩa cá nhân dẫn đến sai phạm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...

Trước hết phải tự phê bình

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh: Nhandan.vn  

Thực tế, có không ít cán bộ khi chưa bị phát hiện sai phạm đã hùng hồn rao giảng: Cán bộ, đảng viên, công chức phải làm việc vì dân, không được tham nhũng, tiêu cực; phải tuân thủ các giá trị đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ; phải ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thông qua những việc làm thiết thực, cụ thể để nêu gương trước quần chúng... Thế nhưng, sau đó không lâu, những cán bộ này bị pháp luật "sờ gáy" với hàng loạt sai phạm ở thời điểm trước khi phát ngôn hay ở ngay lúc đang hùng hồn phát biểu dạy dỗ cấp dưới. Những cá nhân này đã thể hiện sự liêm chính giả tạo để lấp liếm, che giấu dư luận và tổ chức. Thậm chí, họ còn rốt ráo chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm cán bộ, nhân viên cấp dưới với những vi phạm mà chính mình cũng đang mắc phải theo kiểu “Chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người”.

2. Dư luận không khỏi bức xúc trước những người đầy rẫy thói hư tật xấu nhưng không tự sửa mình mà lại cứ săm soi, đánh giá, phán xét, giáo dục, lên lớp người khác. Theo Thiếu tướng, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thái, nguyên Phó cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Công an nhân dân: “Nếu chân tay đã vấy bùn mà còn tiếp tục đi giáo dục người khác là anh không thể làm gương; che giấu khiếm khuyết của mình, dối trá để đi dạy người khác là không thể chấp nhận được. Cán bộ như thế mà “soi” người khác thì không thể hiệu quả, nhiều khi bị phản ứng trở lại”. Đặc biệt, khi trong hàng ngũ có nhiều cán bộ rơi vào tình trạng như thế thì rất dễ dẫn đến gây mất niềm tin cho cấp dưới và quần chúng, vì người không tốt mà lại săm soi, phê bình, lên lớp người khác thực chất là “nói một đằng, làm một nẻo”, nói mà không làm hoặc nói đúng, nói hay nhưng làm sai, làm dở.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến "căn bệnh" này, nhưng nguyên nhân căn bản nhất xuất phát từ sự rèn luyện không thường xuyên, liên tục, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, sinh ra những thói hư tật xấu, thiếu gương mẫu, làm ảnh hưởng đến đồng nghiệp, đồng đội và tập thể. Cũng có người bị những cá nhân không trong sáng lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc... dẫn đến tha hóa, tìm cách hạ uy tín của người khác. Thực tế cũng có người chạy chức, chạy quyền, khi leo đến vị trí quyền lực thì ra oai bằng cách rao giảng, phán xét, áp đặt ý kiến chủ quan đối với cấp dưới và những người xung quanh, thậm chí lạm dụng quyền lực để hạ bệ người khác. Nhiều trường hợp sự soi mói, phán xét áp đặt chủ quan lại xuất phát từ lòng đố kỵ, ghen tức nên tìm cách nâng mình, hạ người... Những người mắc "căn bệnh" này sẵn sàng “bới lông tìm vết”, phê bình, nói xấu người khác theo kiểu “thầy bói xem voi”, xuyên tạc, suy diễn, thêu dệt đủ chuyện...

Hiện tượng tiêu cực trên gây ra hậu quả lớn cho các cá nhân, tổ chức. Những người “Chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người” khiến đồng chí, đồng nghiệp bất bình, bức xúc. Tập thể cơ quan, đơn vị nào có cán bộ như vậy dễ sinh ra mất đoàn kết, nếu người đứng đầu có tính xấu như vậy sẽ làm triệt tiêu tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, dẫn đến tình trạng cấp dưới chán nản, có tư tưởng tiêu cực, người tốt không được ghi nhận có thể dẫn đến bất mãn, "tự diễn biến"; tạo môi trường thuận lợi cho những “con lươn”, “con chạch”, những kẻ xu nịnh, bè phái, yếu năng lực nhưng giỏi "quan hệ” tác oai tác quái. Hệ lụy nguy hiểm nhất là những cán bộ "nói một đằng, làm một nẻo", nói hay, làm dở khiến quần chúng nhân dân bức xúc, mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên; thậm chí tạo ra tâm lý nghi ngờ những phát ngôn mạnh mẽ, hành động quyết liệt của những người đứng đầu thực sự có phẩm chất, năng lực tốt.

3. “Chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người” được người xưa đúc kết nhằm phê phán thói xấu soi mói người khác trong khi chính mình có rất nhiều tật xấu mà không chịu sửa đổi; ngụ ý khuyên mọi người nên sửa mình trước, mình có thực sự tốt thì phê bình, nhắc nhở người khác mới hiệu quả. Ngược lại, nếu người không tốt mà lại lên lớp, phê bình người khác thì sẽ phản tác dụng.

Lịch sử đã chứng minh, quy luật tồn tại, phát triển và nguyên tắc sinh hoạt của Đảng là tự phê bình gắn với phê bình. Bất kỳ tổ chức nào, nếu chỉ có phê bình mà không có tự phê bình thì chắc chắn sẽ suy yếu, mất đoàn kết, tan rã. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Phê bình mình cũng như phê bình người, phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, thâm độc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”. Người thường đặt mệnh đề “tự phê bình” lên trước, với hàm ý “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, bản thân phải gương mẫu mới nói được người khác.

Để không mắc bệnh “Chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người”, trước hết, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tăng cường giáo dục, nhắc nhở, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức thật sâu sắc, đầy đủ hàm ý của lời răn dạy này; quán triệt, thực hiện đúng nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Đồng thời, phải duy trì thực hiện nghiêm túc các chế độ, nguyên tắc sinh hoạt đảng; có biện pháp nhắc nhở, định hướng, yêu cầu đảng viên nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình. Đặc biệt, cấp ủy, thủ trưởng cấp trên phải thường xuyên quan tâm kiểm tra, giám sát, có biện pháp để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, yêu cầu cán bộ chủ trì, chủ chốt cấp dưới phải thực hiện đúng nguyên tắc tự phê bình gắn với phê bình, bảo đảm chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thực sự nêu gương trước quần chúng. Việc thực hành nêu gương phải được đặc biệt chú trọng, bảo đảm nói đi đôi với làm, người đứng đầu làm trước, nêu gương trước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm, cán bộ không nêu gương, tung tin đồn xuyên tạc, nói xấu người khác hoặc gửi đơn thư tố cáo sai sự thật, nặc danh, mạo danh...

Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức cần quan tâm xây dựng môi trường làm việc, sinh hoạt văn hóa, văn minh, đoàn kết; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch những nội dung công việc, chế độ, chính sách theo đúng quy định để tạo sự đồng thuận, thông suốt về tư tưởng, không còn những "khoảng tối", mập mờ tạo cơ hội cho tính xấu nảy sinh. 

Nguồn: Báo QĐND

Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Nga

 Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Nga được duy trì và phát triển phù hợp với các văn bản, thỏa thuận hợp tác, nhất là Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam – Liên bang Nga giai đoạn 2020-2022 và các cơ chế hợp tác khác đã được thiết lập trong thời gian qua.viet nam luon coi trong phat trien quan he Doi tac chien luoc toan dien voi nga hinh anh 1

Chiều 17/8, tại họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, khi được hỏi về phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu về hợp tác quốc phòng Việt - Nga tại Hội nghị An ninh Quốc tế Moscow lần thứ 11, Người phát ngôn Phạm Thu Hằng cho biết: "Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Liên bang Nga trong nhiều lĩnh vực, trong đó có hợp tác quốc phòng".

Người phát ngôn khẳng định: “Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai bên được duy trì và phát triển phù hợp với các văn bản, thỏa thuận hợp tác, nhất là Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam – Liên bang Nga giai đoạn 2020-2022 và các cơ chế hợp tác khác đã được thiết lập trong thời gian qua. Qua đó, đóng góp vào hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, hợp tác và phát triển tại khu vực cũng như trên thế giới”.

Nguồn Báo VOV

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...