PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
CHỈ LÀ SỰ RẬP KHUÔN MÁY MÓC CÁC QUAN ĐIỂM
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN
Đại Nguyễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam, Người đã có nhiều cống hiến kiệt xuất
vào kho tàng tư tưởng – lí luận của dân tộc và nhân loại. Với mỗi người dân Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng,
tấm gương hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân
tộc; Người còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý
báu, đó là tư tưởng của Người. Vậy nhưng trong thời gian gần đây lại xuất hiện
một số quan điểm, luận điệu sai trái cho rằng: Không có tư tưởng Hồ Chí Minh, có
chăng thì tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng quan cũng chỉ là sự sao chép chủ nghĩa Mác
- Lênin một cách dập khuôn máy móc; hoặc chỉ là sự khéo tưởng tượng của Đảng Cộng
sản Việt Nam mà thôi. Trước những luận điệu xuyên tạc như vậy, mỗi người dân Việt
Nam nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng cần có nhận thức đúng, nắm chắc
cơ sở, quan điểm, tư tưởng, cũng như những sáng tạo to lớn của Người để đập tan
những hành động sai trái chống phá hiện nay của các thế lực thù địch.
Xét về tư duy, quá trình nhận thức của Đảng, ngay từ rất
sớm Đảng ta đã nhìn nhận, đánh giá và chỉ ra sự cần thiết phải học tập, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là Di sản và tài sản
vô cùng to lớn và có giá trị bền vững, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII khẳng định:
“Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc
biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc”. Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI cũng chỉ rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta”. Điều đó đã minh chứng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sự sao chép
nguyên xi hay tiếp thu cứng nhắc, giáo điều, sách vở, rập khuôn máy móc. Người
tiếp thu trên cơ sở những giá trị với một thế giới quan, phương pháp luận khoa
học, để làm cơ sở luận cứ của quá trình cách mạng. Bên cạnh đó Người còn đưa
thêm vào nhiều nội dung, luận điểm mới, sáng tạo góp phần phát triển phong phú
thêm Chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc
từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không rập khuôn, sao chép máy
móc, mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua luận cương của
Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam – con đường
giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, từ những hiểu
biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa Pháp, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát
triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cho rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn
phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc”, nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải
phóng chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa… Hồ
Chí Minh xem chủ nghĩa Mác – Lênin như là một kim chỉ nam, như cẩm nang cho sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng
sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó.
Từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, khoa học, cách mạng
trong kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời bám sát thực tiễn
Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp phần làm
phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin trong vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc,
xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Thể hiện:
Một là, luận điểm về chủ nghĩa thực
dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Bằng những tác phẩm “Bản chất chế độ thực dân
Pháp” (1925) và “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Hồ Chí Minh đã vạch
trần bản chất, quy luật vận động, địa vị lịch sử, những thủ đoạn bóc lột, đàn
áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa;
nêu rõ những nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của
các dân tộc thuộc địa. Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt
hẳn những gì mà những nhà lí luận mácxít đề cập đến. Người đã nêu lên những luận
điểm sáng tạo: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt
chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc “có thể chủ động đứng
lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc
và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc phát triển.
Hai là, khi phân tích xã hội các nước
thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai
cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo. Người tìm thấy con đường duy
nhất đúng đắn cho dân tộc, đó là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Theo Hồ Chí Minh, ở Việt
Nam cũng như các nước phương Đông, do trình độ sản xuất chưa phát triển nên sự
phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của sự phát
triển đất nước”; gắn
cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo
cách mạng vô sản thế giới, nghĩa là Người đã quốc tế hóa những vấn đề của cách
mạng nước ta.
Ba là, về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Sau khi
cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải
phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Điều này thực sự là một
sáng tạo lớn, có vai trò quan trọng trong thúc đẩy, phát triển kinh tế xã hội của
đất nước mà lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin chưa có điều kiện chỉ ra.
Bốn là, về Đảng và về công tác xây
dựng Đảng. Với một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân
cư như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định quy luật hình thành của Đảng là “kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, bản chất
của Đảng trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu – Đảng là của giai cấp, đồng
thời của dân tộc và của nhân dân. Trong khi lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ
ra qui luật hình thành Đảng Cộng sản trên cơ sở hai yếu tố: chủ nghĩa Mác –
Lênin và phong trào công nhân.
Năm là, Hồ Chí Minh đã có những cống
hiến sáng tạo về tư tưởng quân sự, đặt nền móng cho sự hình thành học thuyết
quân sự cách mạng Việt Nam thời hiện đại. Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu
của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay
nhân dân, ngay từ đầu, Người đã xác định: Phải giành chính quyền bằng bạo lực
cách mạng, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố,
không chịu hạ vũ khí. Những tư tưởng quân sự của Người đến nay vẫn còn
nguyên giá trị và tiếp tục là cơ sở để Đảng ta xây dựng và phát triển quân đội
ta ngày càng vững mạnh, xứng đáng là quân đội của dân, do dân và vì dân.
Sáu là, Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sau khi cách mạng vô sản
thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Ở Hồ Chí
Minh đã hình thành và phát triển một hệ thống các quan điểm sáng tạo về Nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam. Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân tộc mà phát triển lên. Vì vậy,
trong chánh cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Thiết lập chính phủ
công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị TW8 (5/1941), Người
đề ra chủ trương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới ấy không phải thuộc
quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.
Bảy là, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp. Hồ Chí Minh đã có các quan điểm sáng tạo về chiến lược đại
đoàn kết dân tộc theo phương châm: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành
công, thành công, đại thành công”. Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải
phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn
bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công
nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Những luận điểm trên đây là những sáng tạo nổi bật
trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời cũng
là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại với các quan điểm sai trái cho rằng:
không có tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam, hoặc có thì cũng chỉ là sự rập khuôn,
máy móc, giáo điều, tiếp thu nguyên bản, sao chép của chủ nghĩa Mác – Lênin...
Hiện nay, Đảng và Nhân dân ta đều thống nhất và khẳng định
nhất quán: Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta, là cơ sở dẫn đường,
chỉ lối cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc Việt
Nam, Người là tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những
giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với
mỗi người dân Việt Nam hiện nay nói chung và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng./.