Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2019

KÝ ỨC VÀ KHÁT VỌNG

KÝ ỨC VÀ KHÁT VỌNG
Ngày 17 tháng 2 năm 1979-mới đấy mà đã 40 năm tròn, biết bao đổi thay mới mẻ, biết bao điều kỳ diệu đã diễn ra trên đất nước chúng ta, song cái ngày khói lửa bùng lên khắp miền biên giới phía Bắc thật khó quên. Như muôn vạn người dân Việt Nam, những chiến binh và nhà báo chiến sĩ chúng tôi từng trải qua những năm tháng cùng quân dân ta chiến đấu bảo vệ Tổ quốc lại cháy lên những ký ức và khát vọng.
Ngày ấy Mục Nam quan-Hữu Nghị quan bỗng chốc trở lại thành Ải Nam quan chống chọi với sức mạnh phương bắc. Trên đường chúng tôi tiến về phía ấy cả đoạn đầu tiên của đường Thiên Lý đã không còn người đi chợ Đồng Đăng, Kỳ Lừa; tuyến đường sắt Lạng Sơn sang Trung Quốc cỏ đã mọc. Đường đã không còn là đường cho người đi, làng bản người Tày, người Nùng đã không còn là nơi ở của dân bản. Thay vào đó, những tốp người bồng bế nhau chạy vào các vùng núi cao, trú ngụ trong hang đá rồi tìm đường xuyên núi rừng để về phía sau. Những cánh đồng không bóng người chỉ còn lại những xác trâu bò, lợn gà… bị đạn, nằm lại... Những hình ảnh đầu tiên về chiến sự biên giới đã được đăng trên Báo Quân đội nhân dân để ngay hôm sau tràn trên các trang báo quốc tế.
Ngày ấy, qua khu vực ga Tam Lung, chúng tôi lên đồi Chậu Cảnh đúng lúc Đại đội trưởng Phan Bá Mạnh cùng đại đội của anh vừa phản kích thắng lợi giành lại vị trí chiến thuật quan trọng này ven Quốc lộ 1. Trong làn đạn của đối phương từ các đồi bên cạnh bắn sang, chúng tôi chỉ kịp trao đổi ngắn gọn; những pha ảnh, thước phim truyền hình chụp và quay nhanh chóng.
Gương mặt sạm đen khói súng bê bết đất và máu cùng giọng nói đanh chắc của Phan Bá Mạnh hôm đó còn mãi hằn sâu trong tâm trí chúng tôi. Thật đau xót khi những bài viết, bức ảnh và thước phim của chúng tôi chuyển về chưa kịp đến Hà Nội thì hôm sau chúng tôi nghe tin dữ: Đại đội trưởng Phan Bá Mạnh đã hy sinh cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ của đại đội anh.
Ngay dưới chân đồi, chiếc xe chở nhà quay phim Như Đạt và tốp làm phim của Điện ảnh Quân đội vẫn nằm bất động. Các anh đi trước chúng tôi, tất cả đều trúng đạn, thi thể các anh đã được chuyển về phía sau. Trở về sở chỉ huy dã chiến của Trung đoàn 2, Sư đoàn 3, rồi về lại thị xã Lạng Sơn, chúng tôi được các đồng chí chỉ huy cho biết quân đối phương quá đông, hỏa lực nhiều bắn như đổ đạn, các đơn vị thiệt hại nặng, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh trên các phòng tuyến phía Bắc Lạng Sơn. Đại tá Lê Sơn (sau này là Thiếu tướng), Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Lạng Sơn thông báo cho chúng tôi về tình hình mặt trận và khẳng định tất cả các đơn vị vẫn bám trụ trên các vị trí được phân công, các chiến sĩ bị lạc đang được hướng dẫn trở về đơn vị.
*
*   *
Những ngày sau đó, chúng tôi vừa được chứng kiến cuộc sơ tán của những cơ quan tỉnh Lạng Sơn, vừa được đến với nhiều trận địa mới của các trung đoàn thuộc Sư đoàn 3. Đến thời điểm quân đối phương mở đợt tấn công lần thứ hai (ngày 27-2) thì chúng tôi đã gặp được các đơn vị mới từ phía sau tăng cường lên mặt trận. Một tuyến phòng thủ mới được lập nên ngay tại khu vực Khánh Khê và những trận đánh quyết liệt của Sư đoàn 327 trong những ngày tiếp theo đã làm nên tên gọi Khánh Khê đầy tự hào cho sư đoàn. Phía trên, gần Đồng Đăng cán bộ, chiến sĩ một đại đội thuộc Trung đoàn Công an vũ trang (Bộ đội Biên phòng hiện nay) mang tên Thanh Xuyên đã cho chúng tôi biết anh em vừa báo cáo với Bộ tư lệnh về quyết tâm chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giữ con đường 4B huyết mạch và bảo vệ, giúp đỡ cho nhân dân sơ tán về phía sau…
Như vậy đấy, ngay những ngày đầu tiên của cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc, tất cả những đơn vị, những người lính của chúng ta đều đã thể hiện tinh thần quyết đánh và quyết thắng như lớp lớp ông cha để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Và cuộc chiến đấu của quân dân ta còn tiếp diễn suốt nhiều năm sau đó.
Theo bước chân chiến sĩ đi về phía tiếng súng nổ, chúng tôi đã có mặt trên nhiều vùng biên giới phía Bắc. Những điểm cao-điểm tựa 400, 600, 820… ở Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, Bình Liêu, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Những dãy núi Nhạc Sơn, con đèo Ô Quy Hồ ở Hoàng Liên Sơn (Lào Cai hiện nay), dòng sông Bằng Giang và những cung đường xuyên các vùng núi đá, đồng lúa ở Cao Bằng… Rồi Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và con sông Nho Quế; rồi Thanh Thủy, điểm cao 1509, Vị Xuyên ở Hà Giang… Chúng tôi không thể quên hình ảnh những chiến sĩ công an, dân quân, những người mẹ, người chị, những thầy, cô giáo vác từng chiếc bửng (ống bương, vầu khoét rỗng, đựng nước) tiếp tế cho bộ đội trên những điểm cao ở Cao Lộc, Tràng Định. Và những mẹ Hiếu, mẹ Mùi… ở thị xã Hà Giang tiếp cơm, tiếp rau, chăm sóc cho thương binh ở mặt trận Vị Xuyên. Cũng chính các mẹ là những người đưa tiễn các anh đến nơi yên nghỉ trong những nghĩa trang nằm ven các ngọn đồi, cánh đồng biên ải… Chúng tôi vẫn nhớ những tháng năm ấy là những đoàn người ra trận trong đó có các chiến binh từng vượt Trường Sơn năm xưa tái ngũ sát cánh cùng những chàng trai mười tám, đôi  mươi. Lại có những người đã vào độ tuổi 50, 60 cũng làm đơn tình nguyện ra mặt trận…
*
* *
Càng không thể quên những ánh mắt chiến binh rực lửa trên các điểm cao nhìn bao quát những vùng núi sông Tổ quốc. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới là vậy, phía sau là bình yên, phía trước và ngay dưới chân người lính là khỏi lửa, là đất rung, là đủ loại đạn bắn thẳng, đạn cầu vồng.
Điểm bắt đầu của biên cương Tổ quốc là trái tim chiến sĩ. Khi đất nước bị đe dọa, khi sơn hà nguy biến thì câu “Nam quốc sơn hà” lại vang động mọi thôn làng, ngõ phố và người chiến binh là những người đầu tiên và cuối cùng sẵn sàng đón nhận hòn tên mũi đạn. Và tất cả là chí khí độc lập, tự do, hòa bình và chủ quyền lãnh thổ, tự lực tự cường luôn truyền đời, hiện hữu trong mỗi người dân Việt Nam.
Nhưng, đâu chỉ một thời mà là mãi mãi chúng ta cháy bỏng khát vọng “Sửa hòa hiếu cho hai nước/ Tắt muôn đời chiến tranh/ Chỉ cần vẹn đất cốt sao an ninh” (Nguyễn Trãi-Bình Ngô đại cáo, thế kỷ 15). Chính nghĩa và khát vọng ấy đã được đường lối sáng suốt và tài tổ chức của Đảng ta biến thành sức mạnh toàn dân tộc để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chúng ta quyết chiến đấu và chúng ta cũng biết kết thúc cuộc chiến để hai dân tộc được sống trong hòa bình, xây dựng. 40 năm qua, những lớp người đã buộc phải cầm súng chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc cũng chính là những người kiến tạo hòa bình, hữu nghị và hợp tác với đất nước láng giềng Trung Hoa. Xét cho cùng, đích đến cao đẹp của Đảng và nhân dân ta là hướng tới bản chất và nguyện vọng cao cả đó của hai dân tộc Việt Nam-Trung Hoa cũng như mọi dân tộc trên thế giới.
Sau những năm tháng khói lửa kéo dài là công cuộc hồi sinh kỳ diệu trên khắp miền biên giới phía Bắc Tổ quốc. Chúng tôi đã được đến những rừng hồi, rừng thảo quả, những vườn cam, quýt, hồng, mận và đủ thứ cây dược liệu quý… ở Lạng Sơn, Lào Cai, Lai Châu… Người Việt Nam, người Trung Quốc đều được hưởng những đặc sản ấy như bao đời đã quen thuộc. Chúng tôi được đến những cánh đồng hoang hóa đã được tắm tưới bởi mồ hôi công sức của những người dân các dân tộc vùng biên cương cùng bộ đội, công nhân. Những ngôi nhà sàn, nhà đất trình tường đã được dựng lại, những làng bản, lâm trường mới, trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, sân vận động mới khang trang đã mọc lên khắp nẻo biên cương… Những cửa khẩu quốc tế to đẹp, như: Tân Thanh, Móng Cái, Thanh Thủy… không ngày nào không tấp nập xe cộ, chất ngất hàng hóa qua lại giữa hai thị trường tiềm năng của hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Biên cương yên ả, người dân hai bên qua lại làm ăn, thăm thú, cưới hỏi. Những làng bản sát đường biên đôi bên kết nghĩa để sống hòa thuận, an lành. Kết nghĩa đồn-trạm hữu nghị giữa lực lượng biên phòng hai bên đã góp phần chung tay xây dựng và bảo vệ biên giới, cửa khẩu bình yên. Nhiều năm gần đây, những bạn hàng, doanh nghiệp đôi bên bắt tay kinh doanh mỗi năm một nhiều, người Trung Quốc đã quá quen với cảnh hàng nghìn, hàng vạn người Việt Nam sang học tập, làm ăn và du lịch. Các đô thị, khu du lịch lớn của Việt Nam cũng đã quá quen với những làn sóng du khách Trung Quốc.
Thời bình đã mở ra cơ hội phát triển cho cả ta và bạn, và đương nhiên là cả những khó khăn, thách thức mới, nhiều bề, nhiều phương diện mà hai nước đều phải gắn kết bằng hợp tác hòa bình, tôn trọng lẫn nhau để vượt qua. Ổn định biên giới cả trên bộ, trên biển và trên không là một phần trọng yếu trong ổn định mọi mặt của cả hai quốc gia láng giềng. Chúng ta đã và sẽ luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình trong việc triển khai quan hệ với các nước lớn, các đối tác quan trọng và các nước láng giềng. Chúng ta mong và tin rằng mọi mối quan hệ đó ngày càng nở hoa, tươi đẹp. Khát vọng ấy, đường lối ấy đã, đang và sẽ nhân lên sức mạnh và vị thế đất nước trong cả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay cũng như mai sau.
MẠNH HÙNG
http://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/ky-uc-va-khat-vong-566619

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC PHẨM CHẤT TRUNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH BỊ PHÁ SẢN


LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC PHẨM CHẤT TRUNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH BỊ PHÁ SẢN
                                                          An Nhiên
Thời gian gần đây, những luận điệu xuyên tạc phẩm chất của Quân đội nhân dân Việt Nam mà các thế lực thù địch tung ra là tập trung công kích trực tiếp vào sự trung thành của Quân đội đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ra sức rêu rao rằng: Quân đội “chỉ là của quốc gia – dân tộc, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào”; Quân đội trung thành với Đảng là sự trung thành “mù quáng”, là “lạc hậu lỗi thời”; Quân đội “chỉ cần trung thành với lợi ích của quốc gia – dân tộc, với nhân dân, bảo vệ nhân dân”, v.v. Họ cố tình cắt xén nội hàm phẩm chất trung thành của Quân đội nhân dân Việt Nam; đối lập sự trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam và trung thành với nhân dân, với dân tộc; đối lập phẩm chất trung với Đảng và hiếu với dân của Quân đội ta.
Thực chất những luận điểm nêu trên là thủ đoạn lừa bịp, phản động, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Họ không những xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, mà còn tách rời, đối lập một cách vô lối các nội dung trong phẩm chất trung thành của Quân đội và các mối quan hệ của Quân đội nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân. Quan điểm “Quân đội chỉ là của dân tộc”, chỉ cần “trung thành với lợi ích quốc gia – dân tộc” là quan điểm phản động về chính trị và đặc biệt nguy hiểm. Quan điểm này có vẻ như được dựa trên “cơ sở” thực tiễn rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam có một truyền thống oai hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, của đất nước, đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Từ cơ sở đó, cho nên họ đặt vấn đề “Quân đội trung thành với dân tộc là “phù hợp”, chứ không cần thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, trung thành với một lực lượng chính trị nào! Điều này dễ làm cho một số người nhẹ dạ cả tin có thể lầm tưởng rằng, các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết và những lời “khuyên nhủ” của họ là đầy thiện chí, là hợp lý, khách quan và đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam!
Biết không thể chia cắt được mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với nhân dân, các thế lực thù địch đã lợi dụng mối quan hệ này để đẩy tới việc đưa ra luận điệu Quân đội “chỉ cần trung thành với nhân dân” là đủ, không cần nói đến phải trung thành với Đảng nữa. Chúng hiểu rất rõ rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam có quan hệ máu thịt với nhân dân, là quân đội của dân, do dân và vì dân. Cho nên, chúng đặt vấn đề Quân đội chỉ “trung thành và bảo vệ nhân dân” là “phù hợp”, là “khách quan”, chứ không cần thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào!. Bằng quan điểm đó, các thế lực thù địch đã khéo léo che giấu mưu đồ nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị – giai cấp của Quân đội, tiến tới làm biến chất Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây mới là âm mưu đích thực của các thế lực thù địch trong mục tiêu chống phá Quân đội, nhưng lại rất dễ làm cho chúng ta rơi vào chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, khó nhận biết thực chất âm mưu, thủ đoạn của chúng.
Thông qua thủ đoạn công kích, xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch mộng tưởng rằng, sẽ “kích hoạt” làm cho Quân đội mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu; sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội bị vô hiệu hóa, Đảng không thể nắm được, không thể lãnh đạo được Quân đội, đặc biệt trong những tình huống phức tạp và thậm chí Đảng có thể trở thành đối tượng trực tiếp của chính công cụ bạo lực này. Chúng muốn chính công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước trở thành lực lượng, công cụ trực tiếp cho hành động chống Đảng và chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vậy là, vấn đề lái chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam theo chiều hướng khác, làm cho Quân đội ngả theo các thế lực phản cách mạng, chống lại Đảng và chế độ là một âm mưu rất thâm độc của các thế lực thù địch mà việc tung ra những luận điệu xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội là một ngón đòn rất “lợi hại”.
Lịch sử cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã chứng minh, Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là của nhân dân, của dân tộc, chiến đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn và triệt để quần chúng nhân dân lao động, phấn đấu không mệt mỏi cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh phục vụ lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân Việt Nam; bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích và cuộc sống an bình của nhân dân.
Trung thành với Đảng, trung với nước, hiếu với dân là những nội dung phẩm chất cơ bản, cốt lõi gắn bó chặt chẽ với nhau trong bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội tất cả đều vì lợi ích quốc gia – dân tộc. Trung thành với Đảng đã bao hàm cả nội dung hiếu với dân, với lợi ích quốc gia, dân tộc; trung với nước, hiếu với dân cũng bao hàm cả nội dung trung với Đảng. Đó là mối quan hệ biện chứng thống nhất nằm trong thuộc tính bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam, không thể tách rời.
Những luận đề trên, chúng ta thấy rõ tính chất phi lý, phản khoa học của luận điệu xuyên tạc về phẩm chất trung thành của Quân đội nhân dân Việt Nam mà các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền. Không thể cho rằng, “Quân đội là chỉ của dân tộc”, chỉ cần “trung thành và bảo vệ nhân dân và đất nước” một cách chung chung, không cần sự lãnh đạo của một đảng chính trị nào, không cần trung thành với Đảng. Quân đội là của dân tộc, của nhân dân, nhưng quân đội ấy do ai lập nên, do ai tổ chức, rõ ràng là phải có một lực lượng chính trị nhất định.
Thử hỏi, nếu quân đội chỉ cần “trung thành và bảo vệ nhân dân”, “bảo vệ đất nước và lợi ích quốc gia dân tộc”, không cần trung thành, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của lực lượng chính trị nào, đảng phái nào, thì quân đội ấy mang bản chất nào, của ai? hay là “không có bản chất”, “không có chính trị”! Đây là một chiêu trò nhằm để đánh lừa người khác, chứ bản thân những kẻ đưa ra các quan điểm trên cũng thừa hiểu quân đội phải mang bản chất chính trị và phải phục vụ cho ai, trung thành với ai.
Nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân, nhưng chỉ có quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam như Quân đội nhân dân Việt Nam thì mới có thể làm tròn phận sự trung thành với Tổ quốc, với nhân dân theo đúng nghĩa của nó và gắn bó chặt chẽ sự trung thành với Đảng, Nhà nước, chế độ, Tổ quốc và nhân dân trong chỉnh thể thống nhất, không tách rời.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo Quân đội và Quân đội phục tùng sự lãnh đạo của Đảng là hai mệnh đề song hành ngay từ khi mới thành lập đến nay suốt hơn bảy thập kỷ xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân khi mới ra đời đã là đội quân mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, của dân tộc cũng là mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hay nói cách khác, Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu là nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, của dân tộc và nhân dân Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, của dân tộc trong từng giai đoạn. Đó là sự biểu hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam, một tổ chức quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam là của dân tộc, của nhân dân Việt Nam, đồng thời là của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Việc từ bỏ nội dung phẩm chất trung thành với Đảng, tách vấn đề trung thành với Đảng và trung thành với nhân dân, với dân tộc là không thể chấp nhận được vì nó không đúng với bản chất chính trị – xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là sự cố tình xuyên tạc, bóp méo sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cũng như thực tiễn mối quan hệ giữa Quân đội với Đảng, với dân tộc và nhân dân, nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, chống phá cách mạng Việt Nam. Luận điệu xuyên tạc đó không đánh lừa được ai, nhất định sẽ bị phá sản./.

BÓC TRẦN LUẬN ĐIỂM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


BÓC TRẦN LUẬN ĐIỂM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
                                                                   An Nhiên
Có ý kiến cho rằng: chế độ độc Đảng lãnh đạo là độc tài, mất dân chủ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, là nguyên nhân của sự thoái hóa, biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của nước Việt Nam hiện nay. Thực chất luận điểm trên là phản động, biểu hiện rõ mục tiêu chính trị và sự thù địch đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Luận điểm đó không xuất phát từ động cơ tích cực mà lợi dụng thực trạng xã hội để phủ định vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản, cổ súy cho tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng nền chính trị Việt Nam theo nền chính trị tư sản.Thực tiễn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các đảng phái chính trị với tên gọi khác nhau (trừ đảng cộng sản chân chính) nhưng bản chất đều là đảng của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Vì lợi ích của mình, các đảng tư sản cũng đã có sự điều chỉnh về sách lược, chiến lược. Song, dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể xóa bỏ được những ung nhọt của xã hội nảy sinh từ cơ sở kinh tế - xã hội của nó, đó chính là quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam được hình thành trên cơ sở tuân theo quy luật chung đồng thời có tính đặc thù do điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam quy định, là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử dân tộc. Kể từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện cơ sở vật chất - xã hội Việt Nam tạo ra những thuận lợi nhất định nhưng cũng dễ làm nảy sinh những khó khăn lớn và lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất. Nhưng hiện tượng đó không phải do bản chất của Đảng hay do một đảng lãnh đạo mà phải xem xét từ nguồn gốc tồn tại xã hội. Đảng cũng thẳng thắn nhìn nhận trách nhiệm của mình với tư cách là tổ chức lãnh đạo, giáo dục, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện thoái hóa, biến chất, chỉ rõ những biểu hiện cụ thể của nó; xác định và triển khai thực hiện những chủ trương, biện pháp quyết liệt, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị để đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những hạn chế, yếu kém, góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới./.

CẦN CÓ ĐÁNH GIÁ KHÁCH QUAN VỀ VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


CẦN CÓ ĐÁNH GIÁ KHÁCH QUAN VỀ
VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY[1]

Ngày 16-12, Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch, viết tắt: HRW) công khai đệ trình báo cáo về Việt Nam lên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (UNHRC). Mặc dù đã có đánh giá tiến bộ, song tổ chức này tiếp tục có cái nhìn phi lý, quy chụp, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Báo cáo của tổ chức này lên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc trong bối cảnh ngày 22-1-2019, Việt Nam sẽ trình bày và đối thoại Báo cáo Quốc gia về nhân quyền theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 3 của UNHRC. 
Sau khi xem xét, nghiên cứu những nội dung Báo cáo mà HRW đệ trình cho thấy, những cáo buộc của tổ chức phi chính phủ này là hoàn toàn phi lý, thiếu khách quan và đi ngược lại xu thế hợp tác, hòa bình, phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế.
Báo cáo của tổ chức này cho rằng: “Kể từ năm 1954 cho đến hiện tại, Việt Nam chưa bao giờ tổ chức bầu cử tự do và công bằng. Đại biểu Quốc hội hầu hết là thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam được chọn lựa vào. Tòa án và các bộ, ngành đều dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam…”?.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Đại hội đồng Liên hợp quốc quy định: “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá (Điều 1). 
Tuyên ngôn về nhân quyền cũng ghi rõ: Ai cũng được hưởng những quyền tự do, không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.
Trong những tuyên bố chung Việt Nam – Hoa Kỳ, nguyên thủ hai quốc gia đều nhất quán khẳng định: Tiếp tục nỗ lực làm sâu sắc thêm quan hệ hai nước trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau.
Chắc hẳn, khi xây dựng Báo cáo đệ trình lên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, HRW cố tình không biết những điều trên? Họ cũng lờ đi tình hình thực tế là, trong Hiến pháp, văn bản luật, pháp lệnh ở Việt Nam đều nhấn mạnh quyền con người, trong đó có những văn bản hết sức quan trọng như Hiến pháp 2013, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự...
Điển hình như Hiến pháp năm 2013 khẳng định, nêu rõ: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính chị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14). Các quyền cơ bản như: quyền bầu cử và quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, quyền và cơ hội bình đẳng giới… đều được nhất quán trong hệ thống quy phạm pháp luật và điều chỉnh, thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
Mọi người dân đều có quyền ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc Hội. Việc lựa chọn ai đều do người dân thông qua lá phiếu bầu cử của mình quyết định. Và thực tế là, trong Quốc Hội có đa dạng thành phần, có đại biểu là đảng viên, có đại biểu ngoài đảng, có đại biểu là chức sắc tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc khác nhau… Quốc hội là cơ quan của dân, vì dân, do dân quyết định. Với thực tế như vậy, những cáo buộc trên của HRW là không khách quan và xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, có chủ quyền, thể chế chính trị ở Việt Nam là do lịch sử và dân tộc, nhân dân Việt Nam lựa chọn, phù hợp với Công ước Liên hợp quốc, được quốc tế, các quốc gia và các tổ chức thừa nhận, tôn trọng. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam, trung thành với lợi ích nhân dân và cả dân tộc; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thống nhất giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Vì vậy, không chỉ tòa án, các bộ, ngành, mà cả hệ thống chính trị hoạt động theo pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng nằm trong quy định pháp luật. Về các quyền dân sự, chính trị, Việt Nam đã đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân. Rõ ràng đánh giá trên là cố tình suy diễn, can thiệp nội bộ tình hình Việt Nam.
Tổ chức Theo dõi nhân quyền nêu lên các vấn đề vi phạm nhân quyền tại Việt Nam điển hình như: “Việt Nam kiểm soát truyền thông, khóa hoặc đóng các trang website nhạy cảm về chính trị, bắt bớ những người sử dụng mạng xã hội để lên tiếng chỉ trích Chính phủ và Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 2018, Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật An ninh mạng, có hiệu lực vào năm 2019 để can thiệp sâu hơn liên quan quyền tự do ngôn luận và tự do biểu đạt của người dân. Việt Nam cấm đoán các hiệp hội thương mại độc lập, cũng như kiểm soát chặt chẽ các tổ chức xã hội, các nhóm sinh hoạt tôn giáo và các xã hội dân sự”.
Như đã phân tích ở trên, các quyền cơ bản như: Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp… được Hiến pháp công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật. Những nhận định trên là mang tính quy chụp và hoàn toàn không đúng với thực tiễn đang diễn ra ở Việt Nam. Cả nước hiện nay có 857 cơ quan báo chí với 1.119 ấn phẩm; là một trong số quốc gia có tốc độ phát triển, phổ cập Internet nhanh nhất thế giới với hơn 50 triệu người dùng, chiếm 54% dân số, 58 triệu tài khoản Facebook.
Từ năm 2015 đến nay có 5 cơ sở đào tạo tôn giáo được thành lập mới, mọi người được tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Đây là những số liệu cụ thể, là minh chứng rõ ràng nhất cho thấy những cáo buộc trên là không có căn cứ, phản ánh không đúng tình hình Việt Nam, nếu không muốn nói là cố tình suy diễn, xuyên tạc về tự do nguôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin, tự do tín ngưỡng… ở Việt Nam  
Ngoài ra, báo cáo này cho rằng: “Quốc hội Việt Nam thông qua Bộ luật Hình sự sửa đổi và tiếp tục sử dụng các Điều 79, Điều 89 là điều luật mơ hồ để bỏ tù các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo ôn hòa. Việt Nam hiện cầm tù ít nhất 136 người dưới các điều luật này vì họ bị cho là tạo ra mối đe dọa đối với Nhà nước Việt Nam. Trong vòng 6 tháng đầu năm 2018, Chính phủ Việt Nam đã bắt giữ và bỏ tù ít nhất 26 nhà hoạt động nhân quyền và blogger”.
Bộ luật Hình sửa đổi tiếp tục quy định tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và “Tội phá rối an ninh” (Điều 79, Điều 89, Bộ luật Hình sự 1999). Đây là những điều luật quy định có nội hàm rõ ràng, quy định hành vi, hình phạt tù cụ thể. Theo đó, người có hành vi chống chính quyền nhân dân; kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Đối với mỗi quốc gia có độc lập, chủ quyền, hệ thống pháp luật đầy đủ, nghiêm minh thì những hành vi lật đổ chính quyền, nhà nước, tụ tập, lôi kéo gây mất an ninh trật tự, chống người thi thành công vụ… đều bị nghiêm trị. Do vậy, những người đã bị xét xử và đang chịu hình phạt tù theo quy định của luật này là cá nhân phạm tội cụ thể, rõ ràng, chứ không phải “mơ hồ” như Tổ chức Theo dõi nhân quyền nêu ra.
Tình hình thế giới biến động mau lẹ, phức tạp và khó lường. Ở nơi này, nơi khác, đấu tranh vũ trang, chiến tranh dân tộc, sắc tộc, bạo loạn, lật đổ, chạy đua vũ trang, từng ngày, từng giờ đang diễn ra; ở nước này, thành phố kia, “phe áo đỏ”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” luôn luôn rình rập, đe dọa…, hay ngay cả trung tâm được mệnh danh là “Kinh đô ánh sáng Pari” hoa lệ bậc nhất, biểu tình “áo gile vàng” đi liền hỗn loạn, bất ổn, chưa có hồi kết. Trái ngược với hình ảnh đó, ở Việt Nam là cuộc sống thanh bình. Suy cho cùng, đó là thành quả của tự do, nhân quyền của con người được đảm bảo của một xã hội ngày càng tiến bộ.
Soi lại “Đệ trình Báo cáo nhân quyền Việt Nam” năm 2018  với các “Báo cáo”, “Phúc trình”… của Tổ chức Theo dõi nhân quyền qua các năm trước đây đối với vấn đề nhân quyền Việt Nam, người ta thấy chẳng có gì thay đổi. Nội dung vẫn là những đánh giá vô căn cứ, cáo buộc thiếu khách quan, xuyên tạc, bóp méo sự thật về tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Những đánh giá mà tổ chức này đưa ra nhằm “diễn biến” tình hình Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận quá trình đổi mới, phát triển, hội nhập tích cực, chủ động, có trách nhiệm của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Mục đích của tổ chức phi chính phủ này trong nhiều năm qua là hoạt động để thúc đẩy “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, “xã hội dân sự” ở Việt Nam… Đây là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam, cần phải cảnh giác, đấu tranh. Đồng thời cũng là cơ sở để cơ quan chức năng của tổ chức quốc tế có nhìn nhận toàn diện, đánh giá khách quan, xây dựng về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam hiện nay.


[1] Bài viết của tác giả Lê Vĩnh Bình, đăng trên Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 22/12/2018

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...