Nghiên cứu lý luận,
nhất là lý luận chính trị đòi hỏi người nghiên cứu và cả đội ngũ của họ phải
thường xuyên và đồng thời trau dồi trình độ chuyên môn, học thuật, tích lũy vốn
sống và kinh nghiệm, rèn luyện phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị. Đó là
điều cần thiết. Chính vì vậy, thấm nhuần quan điểm khách quan khoa học trong
nghiên cứu thì phải đấu tranh phê phán và loại bỏ những biểu hiện bất minh, bất
chính khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học...
Khách quan khoa học
trong nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội - nhân văn
Khoa học xã hội - nhân văn là một tập hợp lớn
các ngành, chuyên ngành khoa học khác nhau cùng nghiên cứu về xã hội và con
người, lấy xã hội và con người làm đối tượng và khách thể nghiên cứu. Triết
học, đặc biệt là triết học xã hội, chính trị học và các khoa học chính trị, sử
học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học, văn hóa học,... là những môn khoa học
nằm trong hệ thống chỉnh thể các khoa học xã hội và nhân văn. Trong hệ thống các
môn khoa học này, lý luận kinh điển Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh có vị
trí và vai trò quan trọng đặc biệt. Với tính cách là một khoa học, lý luận Mác
- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò nền tảng tư tưởng, tinh thần của
xã hội, định hướng về lập trường và quan điểm, nguyên tắc và phương pháp cho
nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn, bảo đảm cho nghiên cứu khoa học về xã
hội, về con người đúng đắn, có kết quả, có tác động hữu ích và thiết thực đối
với đời sống xã hội và con người, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, sự
hoàn thiện nhân cách con người, phù hợp với quy luật khách quan - quy luật của
tiến bộ lịch sử. Theo đó, lý luận - ở đây là lý luận kinh điển Mác-xít (hay còn
có thể gọi là các môn khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin) là bộ phận
cốt yếu của khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta, cũng như ở các nước xã hội
chủ nghĩa với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của đảng cộng sản và sự quản lý của
nhà nước pháp quyền, trong đó có chức năng quản lý nhà nước về khoa học, về
hoạt động nghiên cứu khoa học.
Sự khác biệt căn bản giữa khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ với khoa học xã hội - nhân văn và lý luận là sự
khác biệt về đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Nếu khoa học tự nhiên nghiên
cứu giới tự nhiên, môi trường tự nhiên, tồn tại độc lập khách quan bên ngoài
đời sống xã hội, lịch sử xã hội và con người, không phụ thuộc vào ý thức con
người, nhằm khám phá quy luật vận động của giới tự nhiên - “thân thể vô cơ” của
con người như C. Mác nói, thì khoa học xã hội - nhân văn lại nghiên cứu về xã
hội, đời sống xã hội, cấu trúc xã hội và các quan hệ xã hội của con người.
Chính trong đời sống hiện thực xã hội đó diễn ra những hoạt động của con người
- những chủ thể có ý thức để con người và loài người sáng tạo ra lịch sử như
“một tự nhiên thứ hai” (C. Mác) của mình. C. Mác cũng từng nhấn mạnh rằng, con
người và loài người sáng tạo ra lịch sử, không phải tùy tiện, chủ quan mà tuân
theo những quy luật khách quan, do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan quy
định, chi phối và chế ước. Con người nhận thức giới tự nhiên, khám phá các quy
luật tự nhiên, chúng tác động tự phát vào trong quá trình tự vận động, tự biến
đổi của tự nhiên để tồn tại trong môi trường tự nhiên, cải biến tự nhiên một
cách có ý thức, phù hợp với quy luật khách quan, phục vụ cho nhu cầu tồn tại và
phát triển của mình, đó là sáng tạo ra xã hội, ra lịch sử, không phải hư vô,
thần bí mà trên những tiền đề vật chất nhất định. Giới tự nhiên có thể ví như
cái giá đỡ vật chất, không có cái nền tảng hiện thực đó, không thể có xã hội và
lịch sử.
Do đó, con người và loài người trước khi sáng
tạo ra xã hội và lịch sử của mình, nó đã từng là một bộ phận của giới tự nhiên
như một tất yếu. Tuân theo quy luật tự nhiên để cải biến tự nhiên vì mục đích
xã hội và nhân văn cũng là một tất yếu khách quan. Khám phá bản chất, quy luật
và hành động thuận theo quy luật chính là sức mạnh và khả năng sáng tạo của chủ
quan, chủ thể trong sự ràng buộc tất yếu của cái khách quan. Ph. Ăng-ghen đã
từng cảnh báo: con người đối xử với tự nhiên đúng như quy luật của nó thì tự
nhiên sẽ phục vụ con người như một “cô hầu gái ngoan ngoãn”, trái lại nếu con
người can thiệp tùy tiện vào giới tự nhiên một cách trái quy luật thì giới tự
nhiên sẽ trả thù con người, sẽ tác oai tác quái như một “mụ phù thủy độc ác”.
Do đó, con người không thể đối xử với tự nhiên như một “tên thực dân xâm lược”
mà trái lại, phải “hiểu” tự nhiên (bởi tự nhiên thường tự giấu mình) để ứng xử
“thuận hòa” với tự nhiên. Đòi hỏi đó là khách quan. Một triết lý sống được đưa
ra trước loài người: để “làm chủ” tự nhiên, để “chinh phục” tự nhiên theo chiều
hướng nhân văn vì mục đích sống an toàn, hạnh phúc cho cộng đồng nhân loại thì
con người văn minh và xã hội hiện đại phải “làm bạn” với tự nhiên, phải “thân
thiện” với nó chứ không phải tàn phá nó một cách vô lối và khai thác nó đến
kiệt quệ, phá vỡ tính cân bằng của môi trường sinh thái. Những biến đổi của khí
hậu, thiên tai, lũ lụt, những con sóng thần hung dữ, những dòng sông chết, nước
biển dâng như hiện nay,... đều là cái giá phải trả do hành vi làm trái quy luật
của chính con người gây ra. Thảm họa môi trường đang là một vấn đề toàn cầu, đe
dọa từng ngày, từng giờ đến cuộc sống con người càng cho thấy thái độ tôn trọng
khách quan, tuân thủ quy luật khách quan có tầm quan trọng sống còn đối với con
người và loài người như thế nào.
Khoa học xã hội - nhân văn và lý luận thấm
nhuần quan điểm khách quan khoa học trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng phải
góp phần thích đáng vào công cuộc bảo vệ môi trường tự nhiên đang bị hủy hoại -
mà sự hủy hoại này lại do chính con người gây ra như một hành vi tự sát - bằng
cách xây dựng vững chãi cơ sở khoa học cho một triết lý sống mới: từ tàn phá tự
nhiên sang bảo vệ tự nhiên, thực hiện sự hài hòa tự nhiên - xã hội trong phát
triển. Từ đây, có thể nhận rõ tính đặc thù của các quy luật xã hội và tính đặc
thù của khoa học xã hội - nhân văn, của lý luận trên quan điểm khách quan khoa
học.
Nếu quy luật tự nhiên tác động một cách tự
phát trong biến đổi tự nhiên thì quy luật xã hội lại tác động vào xã hội thông
qua nhận thức và hành động tự giác của con người. Khoa học tự nhiên và nghiên
cứu khoa học tự nhiên không có tính giai cấp nhưng ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học của các nhà tự nhiên học vào đời sống xã hội, khi xã hội đã phân chia
thành giai cấp, có đối kháng và mâu thuẫn giai cấp do những khác biệt và xung
đột lợi ích giai cấp mà ra, thì lại chịu tác động từ các giai cấp, các chủ thể
thống trị và cầm quyền, thông qua lăng kính giai cấp, thông qua thể chế chính
trị, tập trung ở quyền lực nhà nước cũng như chịu tác động từ ý thức hệ của
giai cấp thống trị. Một ví dụ kinh điển mà mọi người đều thấy, nghiên cứu và
ứng dụng sức mạnh của năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, phát triển
sản xuất và kinh tế, làm giảm nhẹ sức lao động của con người và phục vụ dân
sinh khác về bản chất với việc dùng những sức mạnh ấy của bom đạn vào chiến
tranh, xâm lược, giết hại và hủy diệt hàng loạt sinh mạng, gây ra thảm họa cho
loài người.
Khoa học xã hội - nhân văn và lý luận trên
quan điểm khách quan khoa học giúp ta nhận rõ những tính khác biệt đặc thù của
nó so với khoa học tự nhiên và kỹ thuật - công nghệ. Những tính khác biệt đặc
thù này, một mặt, vẫn không xa rời tính phổ biến của khoa học, của tri thức và
chân lý khoa học nói chung; mặt khác, đặt ra những yêu cầu cho nhà khoa học,
nhà lý luận trong nghiên cứu các vấn đề về xã hội và con người. Yêu cầu ấy, xét
đến cùng, cũng do tính khách quan quy định.
Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, cần được
nghiên cứu công phu, thấu đáo bằng những chuyên khảo lớn, làm rõ lịch sử và
lô-gíc của nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn để luận chứng những tính quy
luật đặc thù của lĩnh vực khoa học vô cùng quan trọng này. Những dự báo về khoa
học và khoa học luận đã cho thấy, trong đà phát triển của khoa học, của các
dòng thác thông tin trên toàn cầu, nhất là trong sự phát triển nhảy vọt của
cách mạng khoa học - công nghệ, kể cả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đang diễn ra hiện nay thì khoa học xã hội - nhân văn, nhất là lý luận chẳng
những không bị suy giảm như có người lầm tưởng mà trái lại ngày càng có vai trò
quan trọng, nổi bật trong sự phát triển của xã hội hiện đại, trong nhận thức
luận về thế giới đương đại trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Xã
hội càng phát triển văn minh hiện đại bao nhiêu càng cần đến vốn hiểu biết sâu
sắc bấy nhiêu về xã hội, về con người. Kỹ thuật - công nghệ dù có hiện đại đến
đâu, các dòng sản phẩm công nghệ, các thế hệ công nghệ liên tiếp xuất hiện mới,
thay thế nhau, đó là một thực tế, song không vì thế mà phương diện kỹ thuật, công
nghệ có thể đè bẹp, lấn át con người, thay thế con người được. Mọi thành tựu
công nghệ đều chỉ là bằng chứng nói lên sức mạnh sáng tạo của con người, đều từ
trí tuệ con người sáng tạo ra. Trí tuệ nhân tạo cũng vậy, là sản phẩm do trí
tuệ con người tạo ra, không có con người sáng tạo sẽ không có bất cứ thành tựu
nào có thể tự sản xuất ra được. Sự không ngừng tăng lên của tri thức nhân văn,
của khoa học xã hội - nhân văn là đòi hỏi khách quan của tiến bộ lịch sử, rằng,
đời sống xã hội ngày càng phải nhân văn hơn, ngày càng phải bộc lộ đầy đủ hơn
sức mạnh của nhân tính, cái mà C. Mác trù tính “sức mạnh bản chất người”, “sức
mạnh của nhân tính” phải được không ngừng bộc lộ, “phải làm cho hoàn cảnh ngày
càng có tính người nhiều hơn”. Kỹ thuật - công nghệ là những phương tiện kỳ
diệu để giải phóng và nâng cao con người chứ không phải để biến thành “chủ
nghĩa kỹ trị” thống trị con người và xã hội.
Đó là khách quan khoa học mà các khoa học
nghiên cứu về xã hội, về con người cần phải chứng tỏ sức mạnh cần thiết, hữu
ích của mình. Nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn cần phải luôn luôn đứng
vững trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển hướng
tới những giá trị nhân văn đích thực.
Có thể khái quát những đặc điểm đặc thù của
khoa học xã hội - nhân văn và lý luận như sau:
Thứ nhất, khoa học xã hội - nhân văn cũng như
mọi khoa học phải bảo đảm tính đúng đắn, chính xác trong những kết quả nghiên
cứu. Phản ánh đúng đắn, chính xác hiện thực khách quan trong phạm vi đối tượng
nghiên cứu là tiêu chí (thước đo) của tri thức, của chân lý khoa học. Song tính
đúng đắn, chính xác của khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt của lý luận không
giống như tính đúng đắn chính xác của tự nhiên học được lượng hóa, được thực
chứng, thực nghiệm một cách chi tiết trong phòng thí nghiệm. Trong khi có thể
áp dụng phương pháp phân tích định lượng nhằm lượng hóa đối tượng và kết quả
nghiên cứu thì khoa học xã hội - nhân văn, nhất là lý luận lại chú trọng nhiều
hơn phương pháp phân tích định tính, phương pháp phân tích so sánh, tổng hợp,
hệ thống hóa và khái quát hóa.
Tri thức, chân lý của khoa học xã hội - nhân
văn đúng đắn, chính xác ở chỗ, nó vạch ra xu thế của phát triển, bản chất, quy
luật hay tính quy luật trong phát triển, biểu đạt bằng các luận điểm, luận cứ
và luận chứng nhằm giúp cho chúng ta nhận biết bản chất của đối tượng, dự báo
xu hướng vận động, biến đổi của đối tượng. Nó đúng đắn, chính xác bởi tính chặt
chẽ của lô-gíc khoa học và các quan điểm nghiên cứu, các tư tưởng khoa học có
tác dụng gợi mở, hình thành cơ sở khoa học của niềm tin đối với mọi người trong
xã hội. Tính đúng đắn, chính xác của khoa học xã hội - nhân văn, nhất là lý
luận, học thuyết lý luận, phương pháp luận là ở tác dụng, hiệu ứng xã hội của
nó, giá trị và ý nghĩa khai sáng (khai tâm, khai trí) của nó đối với con người,
với xã hội nói chung.
Hiểu để tin, tin để hành động tự giác và sáng
tạo, sáng suốt chứ không phiêu lưu, mù quáng. Tính đúng đắn, chính xác từ những
tri thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận như vậy nhằm vào định hướng tư
tưởng, lựa chọn giá trị mục tiêu hành động của con người, khác với thực chứng,
thực nghiệm của tự nhiên học.
Thứ hai, khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt
là lý luận, do đối tượng và khách thể nghiên cứu của nó là đời sống xã hội và
hoạt động của con người quy định, lại mang tính đặc thù về tính đúng đắn, chính
xác của các tri thức khoa học xã hội - nhân văn như đã nêu trên nên nghiên cứu
cơ bản gắn chặt với nghiên cứu ứng dụng. Trong không ít trường hợp, các loại
hình nghiên cứu này thâm nhập, thẩm thấu vào nhau rất sâu sắc, thậm chí có thể
đồng nhất. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất ở lý luận. Đó cũng là chỗ khác căn bản
giữa khoa học xã hội - nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
công nghệ.
Thứ ba, khác căn bản với khoa học tự nhiên và
các nhà tự nhiên học, khoa học xã hội - nhân văn và lý luận, các nhà khoa học,
các nhà lý luận gắn chặt với chính trị (hoạt động), chính thể (thể chế đảng
chính trị, nhà nước và pháp luật), chính giới (giới chính trị lãnh đạo, cầm
quyền, tầng lớp tinh hoa có ảnh hưởng quan trọng tới các quyết sách tầm quốc
gia, quốc tế), tác động trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả của tham chính
(tham gia chính trị của mọi công dân) và chấp chính (của những người nắm giữ
cương vị quyền lực, thực thi quyền lực công được ủy thác từ dân chúng và xã
hội). Do đó, đội ngũ trí thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc củng cố nền tảng tư tưởng, ý thức hệ của xã hội.
Thứ tư, bản thân khoa học và giới trí thức
khoa học sáng tạo luôn đòi hỏi sự tôn trọng chân lý và đạo lý. Đòi hỏi này đặc
biệt nổi trội trong khoa học xã hội - nhân văn, trong lý luận.
Thứ năm, để phát triển tiềm năng và tiến bộ
trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt là nghiên cứu lý luận,
trước hết là lý luận chính trị, cần phải tạo ra môi trường xã hội dân chủ, tôn
trọng tự do tư tưởng, xác lập quan hệ hợp tác, tin cậy, trách nhiệm giữa lãnh
đạo, quản lý với giới nghiên cứu để thúc đẩy sáng tạo vì lợi ích chung của xã
hội. Đó cũng chính là đòi hỏi tất yếu khách quan mà bản thân khoa học và đời
sống đặt ra trong quá trình phát triển.
Đó cũng là cơ sở khách quan quy định sự thống
nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng, giữa tính đảng với tính khoa học,
giữa khoa học với chính trị, giữa khoa học với đạo đức, với văn hóa.
Sự liên kết và thống nhất chặt chẽ những
thuộc tính nêu trên trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt là
nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận chính trị đòi hỏi người nghiên cứu và cả
đội ngũ của họ phải thường xuyên và đồng thời trau dồi trình độ chuyên môn, học
thuật, tích lũy vốn sống và kinh nghiệm, rèn luyện phẩm chất đạo đức và bản
lĩnh chính trị. Đó là điều cần thiết. Chính vì vậy, thấm nhuần quan điểm khách
quan khoa học trong nghiên cứu thì phải đấu tranh phê phán và loại bỏ những
biểu hiện bất minh, bất chính khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu
khoa học.
Tôn trọng hiện thực
khách quan và nhận thức đúng bản chất của sự thật khách quan - yêu cầu hàng đầu
của mọi nghiên cứu khoa học
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm duy vật biện
chứng và phương pháp biện chứng duy vật - một chỉnh thể thống nhất hữu cơ không
thể tách rời của triết học Mác, triết học khoa học và cách mạng, không chỉ giải
thích thế giới mà còn cải tạo thế giới đó, V. I. Lê-nin đã khẳng định rằng,
quan điểm thực tiễn, quan điểm đời sống là quan điểm cơ bản, số một, hàng đầu
của lý luận nhận thức. Luận điểm có tính nền tảng này đặt cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc xác lập thái độ khách quan khoa học của người nghiên cứu, của hoạt
động nghiên cứu để tìm ra bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, những đặc điểm,
thuộc tính của đối tượng, nhận thức đúng về nó và cải biến nó bằng hoạt động
sáng tạo trong thực tiễn, phù hợp với quy luật khách quan, thúc đẩy sự phát
triển.
Sứ mệnh của khoa học, của các nhà khoa học là
cho dù đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu khác nhau, tùy thuộc các
lĩnh vực, ngành và chuyên ngành khác nhau, song đã là khoa học thì điểm chung,
phổ biến và tất yếu đều là tìm tòi chân lý và phát hiện quy luật để hiểu bản
chất của thế giới khách quan, xu hướng vận động và biến đổi của nó, đồng thời
cắt nghĩa xem, con người và loài người có vị trí, vai trò và khả năng như thế
nào trong thế giới ấy, con người có thể và cần phải làm gì để trở thành tự do
trong cái tất yếu, để sáng tạo ra đời sống, tức là lịch sử của mình và thụ
hưởng hạnh phúc đích thực.
Ph. Ăng-ghen đã từng đánh giá về thời đại
Phục hưng và thế kỷ Ánh sáng (Khai sáng) trong lịch sử nhân loại. Đó là thời
đại “khổng lồ” sản sinh ra những con người “khổng lồ”. Họ vĩ đại về mọi phương
diện: trí tuệ, tài năng, đạo đức và nhân cách. Hoàn toàn có thể mượn lời này
của Ph. Ăng-ghen để nói về các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, của chủ nghĩa
xã hội khoa học, chủ nghĩa cộng sản khoa học. Là nhà tư tưởng Mác-xít sáng tạo
lớn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam mà còn có những phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, làm phong phú, sống động chủ nghĩa Mác -
Lê-nin trong thời đại ngày nay. Cống hiến vô giá về lý luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được chứng thực bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới trong thế kỷ
XX đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tầm vóc một tác gia kinh điển. Cùng với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ
nam hành động của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức là một quá trình, đi từ hiện tượng
tới bản chất, như V. I. Lê-nin nói, từ nông đến sâu, từ đơn giản đến phức tạp,
từ “bản chất cấp 1” đến “bản chất cấp 2”,... tới vô tận.
Bàn về nhận thức, C. Mác cho rằng, để từng
bước chiếm lĩnh đối tượng, con người ta đi từ trừu tượng tới cụ thể. Cái trừu
tượng ban đầu thật ra là cái cụ thể nhưng trong hình thức trừu tượng của nó, là
một cảm nhận chung, giản đơn, cảm tính, trực tiếp, toàn bộ. Quá trình phân
tích, đi sâu vào các mối liên hệ, quan hệ giữa đối tượng - khách thể với chủ
thể, giúp con người dần dần nhận ra từng thuộc tính bản chất của nó. Cái trừu
tượng ban đầu vốn là điểm xuất phát của tư duy, nhận thức trong hình thức của
những trực quan và biểu tượng, vốn là cái cụ thể chưa đi qua các thao tác phân
tích của lô-gíc khoa học, chưa được tái sản sinh trong tư duy để đạt tới một
khái quát lý luận. Chỉ có phân tích và tổng hợp mới giúp cho chủ thể nhận thức
phát hiện ra những mối liên hệ bên trong phản ánh bản chất. Từ cái trừu tượng
ban đầu về cái cụ thể còn nghèo nàn sơ lược đi qua trừu tượng hóa khoa học -
đặc trưng cho sức mạnh của lý tính, “khoảng trống về nội dung” của cái trừu
tượng - cụ thể được khỏa lấp làm cho cái cụ thể - trừu tượng đã được tái sản
sinh trong tư duy trở nên phong phú, sâu sắc, sống động. Bởi thế, càng xa cái
cụ thể ban đầu trong hình thái trừu tượng bao nhiêu, con người càng tiến gần
tới cái cụ thể đích thực bấy nhiêu. Đó chính là cái cụ thể được nhận thức về
bản chất nhờ sức mạnh của tư duy lý luận, đem lại cho con người - chủ thể tri
thức, những “hạt” chân lý, những xu hướng, quy luật và tính quy luật về sự vật,
về đối tượng, về thế giới khách quan trong tiến trình vận động, biến đổi và phát
triển của nó.
Với ý nghĩa đó, khoa học, từ khoa học tự
nhiên đến khoa học xã hội - nhân văn, khoa học kỹ thuật - công nghệ, trong mỗi
loại hình ấy, lý luận, triết học và khoa học luận có vị trí, vai trò quan trọng
nổi bật... Nghiên cứu khoa học chính là hoạt động sản xuất ra tri thức, biểu
đạt năng lực trí tuệ của con người và loài người. Hành trình của lịch sử khoa
học là hành trình của hiểu biết - khám phá - sáng tạo. Đó cũng là yêu cầu mà
chính cuộc sống đặt ra đối với nghiên cứu khoa học, cũng là thiên chức cao quý
thuộc về lẽ sống của nhà khoa học chân chính.
Để tồn tại và tiến hành hoạt động sống(1) của
mình, con người, từ cá thể đến tộc loại, tức là cả loài người, phải tất yếu và
thường xuyên nhận thức thế giới xung quanh, đồng thời nhận thức chính bản thân
mình. Quá trình nhận thức và tự nhận thức ấy, bao gồm cả tự điều chỉnh, “tự phê
phán” là một tương tác giữa đối tượng - khách thể với chủ thể, giữa khách quan
với chủ quan. Ở cấp độ triết học, khoa học về thế giới quan, về bản thể luận và
nhận thức luận, trong tư duy triết học thường xuất hiện “những phản tư” ở những
thời kỳ phát triển bước ngoặt. Triết học Phục hưng, triết học Khai sáng trong
buổi bình minh của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là triết học Mác vào những năm 40
của thế kỷ XIX dẫn đến sự hình thành lý luận của chủ nghĩa xã hội, chuyển chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng tới khoa học là những ví dụ điển hình, làm nên cuộc
cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Bản “Luận
cương về Phoi-ơ-bắc” (năm 1845) với 11 luận đề do C. Mác xác lập và được hoàn
thiện bởi Ph. Ăng-ghen sau khi C. Mác qua đời, dù dung lượng rất nhỏ nhưng tầm
vóc tư tưởng lại vô cùng lớn, bởi đó là “một phác thảo thiên tài về một thế
giới quan mới” - khoa học và cách mạng. Thành tựu ấy của tư duy và tư tưởng
không phải là sản phẩm của chủ quan và tư biện mà trái lại, là “con đẻ” của
thực tiễn lịch sử, của hiện thực khách quan đã chín muồi, nó “gợi ý”, “mách
bảo” cho những thiên tài sáng tạo của chủ quan và chủ thể như C. Mác phát hiện
và thể hiện. Cho nên, chỉ có xuất phát từ thực tiễn khách quan, với thái độ
khách quan khoa học thì mới tiếp cận được chân lý, mới đem lại câu trả lời
chính xác, đúng đắn mà thực tiễn đòi hỏi.
Câu hỏi nghiên cứu nào, giả thuyết khoa học
nào cũng đều nằm trong thực tiễn, trên mảnh đất hiện thực của cuộc sống thực tế
chứ không hư ảo. Câu trả lời nào - trong hình thái tư tưởng lý luận được khái
quát lên từ nghiên cứu cũng đều “ủ mầm”, “thai nghén” trong lòng hiện thực
khách quan chứ không chủ quan, tư biện. Chỉ với thái độ khách quan khoa học mới
giúp cho việc nghiên cứu và người nghiên cứu tìm thấy lời giải minh xác. C. Mác
phân biệt rất rõ ràng “tồn tại người” khác căn bản với “tồn tại vật”, “động
vật”, dù con người, trước hết cũng là một thực thể sinh học. Động vật bị bản năng
(thú tính) chi phối và thống trị. Con người có ý thức dẫn dắt và chế ngự bản
năng để có nhân tính. “Tồn tại người” là tiền đề vật chất để con người và chỉ
có con người mới có hoạt động, đó là “hoạt động sống - sáng tạo”.
Song thế giới khách quan là rộng lớn, phức
tạp và biến đổi không ngừng, bởi vận động là tuyệt đối trong cả không gian lẫn
thời gian.
Hê-ra-clit, nhà biện chứng và duy vật thuần
phác thời cổ Hy-La đã nói một câu nổi tiếng, thành một danh ngôn: “Người ta
không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Nhận thức thế giới đối tượng
không chỉ một lần là xong và cũng không chỉ một lần mà nhận thức được tất cả.
Tri thức lớn dần lên theo năm tháng. Chân lý cũng sâu sắc hơn cùng thời gian,
thậm chí qua những biến cố của lịch sử, của thời cuộc, thời đại, không ít
trường hợp con người ta phải nhận thức lại, phải “làm mới” những tri thức,
những chân lý đã có. Đòi hỏi ấy của khách quan, của hoàn cảnh mà chủ quan của
chủ thể phải đáp ứng. Cho hay, để đổi mới xã hội phải bắt đầu từ đổi mới tư
duy. Đó là tất yếu, là đặc điểm mang tính quy luật.
Thế giới là một chỉnh thể. Toàn bộ “cái phổ”
rộng lớn của khoa học và từng lĩnh vực, ngành, chuyên ngành, kể cả những chuyên
ngành rất hẹp do chuyên môn hóa rất sâu quy định trong đời sống khoa học như là
“những lát cắt” riêng biệt, đặc thù đều nỗ lực nhận biết, phản ánh gần đúng cái
chỉnh thể ấy. Đòi hỏi ấy là khách quan, từ thế giới khách quan đặt ra.
Lịch sử khoa học đã biết đến sự phân ngành
lại còn biết đến hợp ngành nữa. Về mặt phương pháp, sự kết hợp các phương pháp
chuyên ngành với liên ngành và đa ngành trở nên cần thiết, nhất là trong nghiên
cứu các lĩnh vực xã hội của khoa học xã hội - nhân văn nhằm có một cái nhìn đa
chiều, tiếp cận hệ thống chỉnh thể, nhận thức sâu hơn bản chất của cấu trúc đối
tượng. Yêu cầu này mang tính khách quan, bởi hoạt động của các chủ thể người
trong xã hội hiện đại muốn nâng cao được năng lực sáng tạo, muốn đạt được hiệu
quả ngày một tốt hơn tất yếu phải huy động tri thức tổng hợp, liên kết các tri
thức trong tính hệ thống chỉnh thể của nó phù hợp với hệ thống - chỉnh thể của
bản thân thế giới đối tượng(2). Ph. Ăng-ghen đã từng nhấn mạnh, bản chất của
thế giới là biện chứng và chỉ có tư duy biện chứng mới giúp cho người nghiên
cứu nhận ra tính biện chứng vốn có của thế giới. Phép siêu hình đã phản ánh sai
lạc, phiến diện, cực đoan, do đó xuyên tạc bản chất biện chứng của thế giới.
Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” nổi tiếng của ông giúp cho việc định hình
nhận thức luận đúng đắn, đó là biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan.
Chỉ với thái độ, đồng thời là quan điểm, nguyên tắc và phương pháp khách quan
khoa học thì mới có thể dẫn đường cho hoạt động nghiên cứu đúng đắn, tránh phạm
vào sai lầm của chủ nghĩa chủ quan trong nghiên cứu, trong hoạt động thực tiễn
nói chung.
Tính liên kết tri thức thành một hệ thống -
nhìn nhận tri thức hệ thống, tư duy hệ thống ở tầm tri thức của mọi tri thức(3)
hết sức cần thiết trong nghiên cứu khoa học, nhất là nghiên cứu về con người và
đời sống xã hội với tính phong phú, muôn vẻ của các quan hệ và liên hệ trong
lô-gíc và lịch sử của nó. Quan điểm của C. Mác coi con người là “một thực thể
song trùng”, “tự nhiên và xã hội”, đòi hỏi phải nghiên cứu, bằng cách sử dụng
có hiệu quả các phương pháp chuyên ngành (triết học) kết hợp với liên ngành (sử
học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học...) và đa ngành (nhân học, văn hóa
học). Ngay cả các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên, từ thống kê toán
học, sinh lý học, y học, sinh học,... cũng có thể hữu ích và cần thiết cho
nghiên cứu phức hợp con người. Hai lĩnh vực then chốt của đời sống xã hội là
kinh tế và chính trị mà nghiên cứu phức hợp con người không thể tách rời, do đó
những tri thức và phương pháp kinh tế học, chính trị học cũng được huy động vào
nghiên cứu con người, nhất là nghiên cứu các nhân tố động lực thúc đẩy con
người hoạt động, các vấn đề phát huy nguồn lực con người như một nguồn vốn xã
hội quan trọng nhất, các chương trình và biện pháp quản lý, quản trị nhân lực
trong xã hội hiện đại.
Các tác gia kinh điển Mác-xít không chỉ là
các triết gia, các nhà tư tưởng kiệt xuất mà họ còn có tầm viễn kiến với “sức
bay” của tư duy khoáng đạt, của tư tưởng “vòng quanh chân trời” - nên đã có
những dự báo và dự phóng tương lai theo chủ nghĩa lạc quan lịch sử trên một
tinh thần khoa học nghiêm túc. Nhiều dự báo tương lai trong chủ nghĩa Mác, cho
đến nay vẫn còn có ý nghĩa thức tỉnh và xây dựng niềm tin khoa học vào xu thế
vận động của lịch sử. Điển hình là những dự báo của Mác - Ăng-ghen trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848): “Thắng lợi của giai cấp vô sản (giai cấp
công nhân hiện đại) và thất bại của giai cấp tư sản đều là một tất yếu lịch sử
như nhau”. “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người” (Đây là mục tiêu cao quý của chủ nghĩa cộng sản, là
mục đích tự thân của lịch sử).
Lý thuyết về mô hình phát triển bền vững dựa
trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường càng xác tín tư tưởng về bảo vệ
môi trường sinh thái trong chủ nghĩa Mác là một giá trị đặc sắc và hiện đại.
Trong những dự báo của C. Mác, dự báo cho rằng, đến một lúc nào đó, mọi khoa
học sẽ gặp nhau trong một khoa học tổng hợp duy nhất - khoa học về con người
ngày càng tỏ rõ tính triển vọng hiện thực của nó. Rõ ràng, tính khách quan khoa
học, tôn trọng hiện thực khách quan luôn luôn đồng hành với hoạt động nghiên
cứu, là nguyên tắc hàng đầu, là yêu cầu sống còn làm cho khoa học không đánh
mất bản chất và sứ mệnh cao cả của mình trước đời sống và xã hội. Tôn trọng
hiện thực khách quan, nhận thức đúng bản chất sự thật khách quan cũng đồng thời
là nhân cách của nhà khoa học, là một trong những thước đo về bản lĩnh trong
nghiên cứu khoa học. Với khoa học và nhà khoa học chân chính, kiên trì đấu
tranh bảo vệ sự thật, lẽ phải, chân lý, không chỉ là vấn đề của lý trí tỉnh
táo, sáng suốt mà còn là một thước đo đạo đức, gắn liền với trách nhiệm, nghĩa
vụ công dân của họ trước xã hội, với danh dự, lương tâm, nhân phẩm có trong
thiên chức cao quý của nhà khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội - nhân văn và
lý luận.
Lẽ dĩ nhiên, tôn trọng khách quan và nhận
thức đúng bản chất sự thật khách quan đòi hỏi nghiên cứu khoa học phải xuất
phát từ tiền đề đúng và có phương pháp nghiên cứu đúng. Yêu cầu ấy lại gắn liền
với trình độ và năng lực sáng tạo của người nghiên cứu.
Phản ánh đúng đắn, chân thực hiện thực khách
quan không có một chút gì chung với “chủ nghĩa tự nhiên”, cơ giới, máy móc và
cứng nhắc. Nó biện chứng chứ không siêu hình, sáng tạo chứ không giáo điều,
phải thấm nhuần tinh thần khách quan khoa học chứ không chủ quan tư biện. Thống
nhất về bản chất với nhận thức luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V. I. Lê-nin đã
nhấn mạnh, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường nhận thức chân lý, là biện chứng của nhận thức.
Chân lý là sự phản ánh đúng hiện thực khách
quan. Những tri thức khoa học sở dĩ được xem là chân lý bởi nó đúng đắn, chính
xác. Song, chân lý có tính tuyệt đối, chỉ với nghĩa là nó đúng đắn. Và chân lý
còn có tính tương đối, bởi nó có tính mức độ và tính giới hạn. Thực tiễn biến
đổi không ngừng, “động” chứ không “tĩnh”. Tri thức khoa học phải thường xuyên
được bổ sung, phát triển để ngày càng phản ánh đầy đủ, chính xác hơn chân lý
khách quan, phù hợp hơn với hiện thực khách quan.
Nỗ lực sáng tạo của chủ thể nhận thức chính
là dựa trên nguyên tắc và quan điểm khách quan khoa học để phản ánh đúng bản
chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
C. Mác nhấn mạnh những luận đề quan trọng soi
sáng cho nhận thức khoa học trong nghiên cứu:
- Nếu hiện tượng luôn trùng khít với bản chất
thì khoa học trở nên thừa. Sở dĩ cần đến khoa học và nghiên cứu khoa học bởi
phải trải qua phân tích vô số các hiện tượng mới đi tới bản chất. Lại có những
hiện tượng xuyên tạc bản chất, đó là những “giả tượng”. Cho nên người nghiên
cứu thấm nhuần quan điểm khách quan phải biết phân biệt hiện tượng với bản
chất, phân biệt những hiện tượng phản ánh bản chất với những “giả tượng” xuyên
tạc bản chất, để “lọc bỏ” nó, để đạt tới tính đúng, gần đúng và phòng ngừa
những sai lầm chủ quan. Gi.V.Ph. Hê-ghen có một nhận xét sâu sắc, “bản chất
“ánh lên” qua các hiện tượng”.
- C. Mác còn nói, chỗ nào “tư biện” dừng lại
(ý nói những hạn chế, những bất lực) thì đó là chỗ khởi đầu, bắt đầu của nhận
thức khoa học thực sự (đó là thực tiễn, vừa là điểm xuất phát và kiểm chứng,
vừa là chỗ đến của nghiên cứu khoa học. Thực tiễn là nguồn gốc của nhận thức,
là tiêu chuẩn của chân lý, nhận thức và cải biến thực tiễn là mục đích của mọi
nghiên cứu).
- Nghiên cứu phải triệt để và nhất quán.
Triệt để là nắm lấy sự vật tận gốc rễ của nó, mà “gốc rễ đối với con người
chính là bản thân con người”, như C. Mác nhấn mạnh.
- Ph. Ăng-ghen cũng xác định, “hãy gọi tên sự
vật đúng như bản thân nó...”.
Một trong những vấn đề sâu xa của khách quan
khoa học là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, giữa
lý luận và thực tiễn.
Tinh thần và phương pháp mà lý luận kinh điển
Mác-xít do C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đề ra chính là “khách quan hóa chủ
quan” gắn liền với “chủ quan hóa khách quan”. Đây là hai mặt của một vấn đề,
làm cho nhận thức của con người ngày càng đúng đắn, phù hợp với khách quan và
cũng không ngừng mở rộng phạm vi, đối tượng của thế giới khách quan vào trong
nhận thức và hoạt động của chủ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách “nhà biện
chứng thực hành xuất sắc” của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn lý luận
với thực tiễn, trên tinh thần khách quan khoa học, Người nhấn mạnh: “Thực hành
sinh ra hiểu biết/ Hiểu biết tiến lên lý luận/ Lý luận lãnh đạo thực hành”(4).
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn của
Người là một minh chứng sinh động cho sự thống nhất hữu cơ giữa “lý luận hóa
thực tiễn” với “thực tiễn hóa (hay “kinh nghiệm hóa”) lý luận”. Tôn trọng khách
quan và quy luật khách quan đồng thời phải đặc biệt chú trọng phát huy tính
năng động chủ quan, vai trò độc lập tự chủ sáng tạo của nhân tố chủ quan. Đề
cao vai trò của nhân tố chủ quan nhưng không rơi vào chủ quan duy ý chí - đó là
bản lĩnh sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
------------------------------
(1) Theo C. Mác, con vật chỉ tồn tại theo bản
năng, bị bản năng (thú tính) thống trị. Chỉ con người mới có hoạt động, dựa
trên những tiền đề vật chất để tồn tại và trên cơ sở đó mới có hoạt động. Đó là
hoạt động sống - sáng tạo, biểu lộ và làm bộc lộ những sức mạnh bản chất người
của con người. Đó là nhân tính (Xem các tác phẩm: “Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844” của C. Mác và “Hệ tư tưởng Đức” của C. Mác và Ph. Ăng-ghen)
(2) Ét-ga Mo-rin: “Bảy tri thức tất yếu của
nền giáo dục tương lai”, Nguyễn Hồi Thủ dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008
(3) Ét-ga Mo-rin: “Tri thức về tri thức (Nhân
học về tri thức)”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 120