Thứ Tư, 4 tháng 12, 2019

HÃY DỪNG VIỆC QUY KẾT, ĐỔ LỖI CHO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐÃ LỖI THỜI



 (ĐCSVN) – Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn là nỗi ám ảnh của một số học giả và thế lực thù địch trong và ngoài nước, họ cho rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, lỗi thời. Nhưng sự thật hiển nhiên thực tiễn và lý luận không thể chối cãi: Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn.
 Vin vào cớ chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những tiền đề kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở châu Âu và sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và Đông Âu cũng như sự điều chỉnh, thích nghi của các nước tư bản phát triển nhờ tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nhất là thành tựu của cuộc mạng công nghiệp lần thứ tư, một số học giả trong và ngoài nước đã vội cho rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, lỗi thời; Việt Nam muốn phát triển cần phải “thay máu cho hệ tư tưởng”, cần phải có một lý luận khác phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, v.v..
Chúng ta không hề ngạc nhiên trước những luận điệu xuyên tạc ấy bởi “điệp khúc này” đã tua đi tua lại nhiều lần kể từ ngày học thuyết Mác còn là “một bóng ma ám ảnh châu Âu” cho đến khi trở thành hệ tư tưởng thống trị phong trào công nhân quốc tế từ những năm 70 của thế kỷ XIX; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của các Đảng Cộng sản và công nhân trong sự nghiệp đấu tranh chống các thế lực thù địch, giành thắng lợi và hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới ra đời, phát triển trong suốt thế kỷ XX đến hiện nay. Sự thật hiển nhiên không thể chối cãi: Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn. Đây là điểm khác biệt căn bản mà các học thuyết của các bậc tiền bối và cùng thời với C.Mác không thể có được bởi có học thuyết dựa trên thế giới quan duy vật nhưng phương pháp tư duy lại siêu hình; có học thuyết có phương pháp tư duy biện chứng nhưng quan điểm lại duy tâm, tôn giáo hoặc rơi vào chủ nghĩa xã hội không tưởng dù có một số quan điểm tiến bộ, nhân văn. Vượt lên trên mọi thiên kiến và các rào cản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện ra quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; trong đó chỉ rõ quy luật phát triển của lịch sử, xã hội là do những mâu thuẫn nội tại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dẫn đến những mâu thuẫn của xã hội biểu hiện ở đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Với quan điểm duy vật biện chứng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã chấm dứt sự lũng đoạn của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải thích các hiện tượng xã hội và lịch sử, tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người.
Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin không những được thể hiện ở giá trị lớn lao của phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa nhân đạo trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác: Quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, mà còn thể hiện trong quá trình hình thành, phát triển học thuyết ấy với tư cách là sản phẩm phát triển chín muồi của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, ở việc C.Mác phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều này là khách quan bởi lịch sử xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, cái mới sẽ thay thế cái cũ, tiến bộ sẽ thay thế thoái bộ; chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản như chủ nghĩa tư bản đã từng thay thế chủ nghĩa phong kiến. Không ai có thể đảo ngược quy luật. Phải chăng những người xuyên tạc, muốn hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, đã run sợ trước bản chất khoa học, cách mạng và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin?
Lý luận và thực tiễn cách mạng thế giới đã khẳng định sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là công cụ nhận thức vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Điều này thể hiện ở chỗ:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công; đem lại cuộc sống hoà bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã tìm ra các quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người, bóc trần những “bí mật” của các hình thái kinh tế - xã hội, chỉ ra động lực và chủ thể phát triển của lịch sử chính là con người và sản xuất vật chất - cơ sở quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Dù ai có xuyên tạc hoặc cố tình bôi đen chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự thật ấy vĩnh viễn không thể thay đổi. Đây là cơ sở khoa học để luận giải sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất biện chứng giữa học thuyết duy vật với phương pháp biện chứng, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng và tính khoa học, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là một học thuyết mở, sống động, có khả năng tự đổi mới, tự phát triển trong dòng tư duy, trí tuệ của nhân loại, luôn thu nạp những thành tựu, tinh hoa trí tuệ mới nhất, tiến bộ nhất của nhân loại để không ngừng phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học thuyết giáo điều, kinh viện bởi linh hồn sống động của nó là phép biện chứng duy vật không bao giờ chấp nhận, thỏa hiệp với quan điểm duy tâm, tôn giáo, phương pháp tư duy siêu hình.
Năm tháng đã đi qua, một số luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin có thể không còn phù hợp với thực tiễn ngày nay; đó cũng là lẽ đương nhiên, nhưng tinh hoa của phép biện chứng duy vật, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết giá trị thăng dư và chủ nghĩa nhân văn với khát vọng giải phóng con người cùng với hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó là những giá trị vĩnh hằng, sống mãi. Chính giá trị bền vững này mà chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ có nó mà đứng trước những biến động của thời cuộc, Đảng ta vẫn tự tin khẳng định: Lịch sử loài người đang trải qua những khúc quanh co, phức tạp, song loài người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa cộng sản.
Các học thuyết, trào lưu tư tưởng hiện nay đã, đang và có thể sẽ đưa ra những quan điểm, học thuyết mới với nhiều cách tiếp cận, kiến giải khác nhau về thế giới, song cho đến nay, chưa có một học thuyết nào có đủ sức, tâm, tầm, tuệ để có thể thay thế học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, dù điểm này, điểm khác ở một số học thuyết ấy có giá trị nhất định.
Qua các biến cố thăng trầm của lịch sử, chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; song chính nó đã và đang chứng minh tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, rằng trong thời đại ngày nay, bất cứ một Đảng Cộng sản nào, cá nhân lãnh tụ của Đảng Cộng sản nào, nếu vi phạm những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, chà đạp thô bạo lên giá trị khoa học, cách mạng của học thuyết Mác - Lênin, thì Đảng Cộng sản ấy, cá nhân lãnh tụ của Đảng Cộng sản ấy phải trả giá đắt. Những phát minh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chứng minh “C.Mác đúng”; loài người không thể có tương lai, nhân loại không thể phát triển nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường. Thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam và một số nước chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI là minh chứng khẳng định chân lý ấy.
Sự thật khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin không lỗi thời, chỉ có những người vận dụng nó lỗi thời hoặc mắc những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây dựng đất nước. Đó cũng là điều khó tránh khỏi vì xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi thời gian, trí tuệ, kinh nghiệm, công sức và tiền của. Với đường lối đổi mới sáng tạo, hơn 30 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; chúng ta có cơ ngơi và tiền đồ xán lạn như ngày hôm nay. Thực tiễn sinh động ấy đã bác bỏ quan điểm quy kết chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời và nó cũng mách bảo rằng, ai đó đừng vì chút lợi trước mắt mà cố tình quay lưng lại với lịch sử dân tộc, đừng a dua, hùa theo bọn người xấu để chống lại chế độ, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam. Hãy dừng việc quy kết, đỗ lỗi cho chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin dẫn lại lời khẳng định của Giắccơ Đêriđa, một học giả tư sản, một triết gia hiện đại phương Tây có uy tín từng tuyên bố: Chủ nghĩa Mác không lỗi thời, loài người cần phải trở về với C.Mác, phải tìm thấy chân lý từ học thuyết của C.Mác; học giả này quả quyết: Loài người “không có tương lai nếu không có C.Mác, nếu không có các di sản của Mác”[1]. Điđiê Êribông - nhà chính luận Pháp khẳng định: Sức sống mãnh liệt của học thuyết Mác là bất diệt, vai trò dẫn đường thời đại mới chính là chủ nghĩa Mác[2], không có C.Mác, chúng ta không thể có tương lai. Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận do Đài BBC tiến hành trên Internet công bố ngày 1 tháng 10 năm 2000 thì C.Mác đã được bình chọn là nhà tư tưởng vĩ đại của thiên niên kỷ.
Đối với nước ta, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta giành được trong gần 9 thập kỷ qua đã khẳng định thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó khẳng định tính đúng đắn của chân lý: Ngày nay, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chắc chắn nhất, sâu sắc nhất và chân chính nhất, là “cẩm nang thần kỳ” cần thiết để dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.


[1] Giắccơ Đêriđa, Những bóng ma của Mác, Nxb Chinh trị quốc gia và Tổng cục II - Bộ Quốc phòng xuất bản, Hà Nội, 1994, tr.16.
[2] Báo Người quan sát, số ra ngày 17/10/1993.

TÔN GIÁO VỚI CÁC VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI"



 (ĐCSVN) – Hội thảo khoa học “Tôn giáo với các vấn đề về quyền con người” góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc chỉ rõ những luận điểm đổi mới nhận thức về tôn giáo thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng thời gian gần đây.
Ngày 26/11 tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học “Tôn giáo với các vấn đề về quyền con người” nhằm mục đích chỉ rõ quyền con người thể hiện trong giáo thuyết các tôn giáo; nêu bật việc thực hiện hoá quyền con người trong đời sống tôn giáo và đời sống xã hội của các tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay; bước đầu đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm phát huy giá trị quyền con người của các tôn giáo trong đời sống tôn giáo và đời sống xã hội trên cơ sở tuân thủ pháp luật và giáo luật.
Hội thảo góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc chỉ rõ những luận điểm đổi mới nhận thức về tôn giáo thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng thời gian gần đây, đặc biệt là Nghị quyết số 24/NQ-TW về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới (năm 1990), Nghị quyết số 25 – NQ/TW về công tác tôn giáo (năm 2003) và Chỉ thị số 18/CT-TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới (năm 2018) như: đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới; phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá và đạo đức của tôn giáo; khai thác và phát huy nguồn lực xã hội của tôn giáo…
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Duy Bắc, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, việc nhận diện đầy đủ và cập nhật các quan điểm, nhận định, giáo thuyết của tôn giáo về quyền con người trong tương quan quyền và giới hạn quyền mà chính sách, luật pháp của các chính phủ quy định để có cái nhìn so sánh, tham chiếu, định hướng tạo nên một quan điểm chung, thống nhất về quyền con người, quyền tự do tôn giáo là một việc làm cần thiết.
Việt Nam được biết đến là một trong những quốc gia đa tôn giáo. Không khí dân chủ và tự do tôn giáo không chỉ thể hiện trên các văn bản pháp quy của Đảng và Nhà nước Việt Nam mà bằng thực tế sống động đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi động; các tôn giáo đều có sự phát triển về số lượng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành; cơ sở thờ tự được xây dựng mới nhiều; các tôn giáo đều được tự do quan hệ quốc tế qua đó góp phần tạo lập vị thế, uy tín của mình đối với các tổ chức tôn giáo trên thế giới.
Các ý kiến cùng 27 bài viết tham gia Hội thảo xoay quanh các nội dung: Lý luận chung về quyền con người và quyền tự do tôn giáo; quan điểm của các tôn giáo về quyền con người; đánh giá về quyền con người và quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Ở nhóm nội dung thứ nhất, các ý kiến nhấn mạnh vấn đề bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Theo đó, việc giải quyết quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam có nhiều thay đổi từ năm 1990 đến nay. Bên cạnh việc coi tự do tôn giáo là một quyền hiến định, Việt Nam đã có khung pháp luật về quyền này khá rõ ràng. Nhà nước luôn tạo điều kiện và hỗ trợ người dân thực hành quyền tự do tôn giáo.
Do vậy, các tôn giáo ở Việt Nam đang được sống đời sống tôn giáo và đời sống xã hội ngày một phấn khởi hơn, sống động hơn trong bầu không khí chung của sự đồng thuận xã hội ngày một mở rộng.
Nhóm nội dung thứ hai đi sâu phân tích sự đa diện và tổng thể quyền con người theo quan điểm của các tôn giáo lớn; các nội dung cụ thể về quyền con người trong giáo thuyết của các tôn giáo như quyền được sống và bảo đảm sự sống, quyền bình đẳng giới, quyền trong tình yêu và hôn nhân, quyền tự do cá nhân,…
Qua đó thấy rằng, dù không trực tiếp bàn đến quyền con người theo cách tiếp cận hiện đại nhưng giáo thuyết của nhiều tôn giáo đều đụng chạm đến những khía cạnh khác nhau của quyền con người. Những quan điểm đó ảnh hưởng nhất định đến cách tiếp cận và thực thi quyền con người ở một số quốc gia hiện nay.
Nhóm nội dung thứ ba chú trọng làm rõ sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tôn giáo là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước, không những nêu rõ trong các văn bản pháp luật mà còn được bảo đảm trên thực tế với nhiều kết quả đáng ghi nhận, được đông đảo người dân Việt Nam đồng tình và cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Đồng bào các tôn giáo ngày càng nhận thức đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, về thực hiện quyền con người không được xâm phạm lợi ích quốc gia dân tộc và lợi ích hợp pháp của người khác. Từ đó, chức sắc và tín đồ các tôn giáo luôn hướng về cộng đồng, lợi ích quốc gia; đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động, vu cáo của các thế lực xấu về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam./.

TỰ DO LÀ TỰ DO NÀO



Không lấy gì làm ngạc nhiên, khi một lần nữa một tổ chức nước ngoài lại có những nhận xét, đánh giá hết sức thiếu thực tiễn, chụp mũ, đặt điều về các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Lần này là tự do Internet.
Sự tăng trưởng thần kỳ
Ngày 5/11/2019, Freedom House - một tổ chức phi chính phủ quốc tế có trụ sở tại Washington D.C, Mỹ - đưa ra báo cáo về tự do Internet, trong đó ngang ngược, vô lối xếp Việt Nam vào danh sách các nước không có tự do Internet.
Trước sự đặt điều vô lý, trắng trợn ấy, ngày 7/11, tại họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Phó Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng “hoàn toàn bác bỏ những đánh giá này của Freedom House”. Ông Thắng khẳng định: “Việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán của Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp, pháp luật và được thực hiện đầy đủ trên thực tế”. Thực tế, Việt Nam luôn chủ trương thúc đẩy sự phát triển Internet nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trao đổi thông tin, học tập và làm việc của người dân.
“Hơn 20 năm qua, với tốc độ phát triển nhanh chóng của Internet, Việt Nam đã vươn mình ra thế giới và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Internet đã trở thành một công cụ kết nối vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, chi phí sử dụng Internet tại Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho đông đảo người dân tiếp cận và sử dụng. Thực tế, Việt Nam hiện là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng, sử dụng Internet nhanh nhất thế giới”- ông Thắng khẳng định.
Đó là điều rõ ràng, không thể chối cãi. Xin đưa ra những con số cụ thể cho thấy những bước tiến vượt bậc trong việc sử dụng Internet ở Việt Nam, tự bản thân nó sẽ nói rõ nhiều điều mà không cần bất kỳ sự bình luận nào. Kể từ khi chính thức kết nối mạng thông tin toàn cầu vào ngày 19/11/1997, đến năm 2003, Internet băng rộng ADSL chính thức có mặt trên thị trường, tạo ra những cú hích đột biến cho phép người dùng truy nhập Internet tốc độ cao, đồng thời giá cước Internet giảm mạnh chưa từng có (từ 10%-40%), kích thích nhu cầu người dùng tăng trưởng mạnh mẽ - gấp nhiều lần so với con số khoảng 200.000 người dùng thuở ban đầu.
Năm 2009, Internet cáp quang FTTH được triển khai với tốc độ truy cập mạng tăng đáng kể so với ADSL. Cùng thời điểm này, mạng 3G của VinaPhone được khai trương, mở ra kỷ nguyên Internet cho di động tại Việt Nam. Từ năm 2010, Internet Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc với xu hướng chuyển dịch từ dịch vụ cáp đồng sang cáp quang. Việt Nam nằm trong top đầu những quốc gia có lượng người dùng Internet nhiều nhất trên thế giới… Tính đến năm 2017, Việt Nam có gần 64 triệu người dùng Internet, chiếm 67% dân số cả nước. Tại thời điểm đó, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6/35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Trong “Báo cáo Digital Marketing 2019” công bố hồi tháng 7/2019 cho biết, Việt Nam hiện có hơn 64 triệu người dùng Internet. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet. Người dùng Việt Nam dành trung bình 2 giờ 32 phút để dùng mạng xã hội, 2 giờ 31 phút để xem các stream hoặc các video trực tuyến và 1 giờ 11 phút để nghe nhạc. 94% là tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày…
Rõ ràng, chỉ cần nhìn vào số liệu khô khan thống kê kể trên cũng đủ thấy những sự tự do không thể chối cãi trong bức tranh hơn 20 năm hình thành, phát triển Internet ở Việt Nam. Điều đáng nói hơn, Internet đã tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội từng bước tăng trưởng nhanh chóng, bền vững.
Vì vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, báo cáo của Freedom House vào ngày 5/11/2019 là hết sức vô lối, vẫn không ngoài ý thức xuyên tạc, chống phá thường xuyên, liên tục, trên nhiều mặt trận, trong đó có vấn đề tự do thông tin, tự do Internet. Đấy là chưa kể đến việc người dùng Internet ở Việt Nam có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân thông qua Internet, nhất là qua các trang web, mạng xã hội. Trong khi đó, nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp ở Trung ương và địa phương quan tâm, chú trọng việc sử dụng Internet, mạng xã hội để làm việc, giải quyết thủ tục hành chính, liên hệ, trao đổi trực tiếp với người dân…
Không có thứ tự do vô lối
Xin được đưa thêm những ví dụ hết sức sinh động khác để chứng minh rằng, các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do Internet luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng, bảo đảm thực thi một cách xuyên suốt, nhất quán. Việc bảo đảm các quyền tự do cơ bản của con người ở Việt Nam dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế, phù hợp với tình hình thực tiễn chính là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước. Sự tự do trong sử dụng Internet ở Việt Nam đã có tác động tích cực, đóng góp lớn vào quá trình phát triển của đất nước.
Trong khi tình hình thế giới biến động phức tạp, khó lường về nhiều mặt thì sự phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam vẫn luôn đạt mức tăng trưởng khả quan so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm 2019, GDP tăng 6,98% - mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, bình quân 9 tháng tăng 2,5% - mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Thu ngân sách nhà nước tăng cao (10,1%), bội chi còn 3,4% GDP, nợ công còn dưới 57% GDP... Đó là những số liệu minh chứng một cách thuyết phục về sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sự xuất hiện của ngày càng nhiều các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới…
Thực tế, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, để phù hợp với tình hình thực tiễn, trong bối cảnh “thế giới phẳng” toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã điều chỉnh, bổ sung, xây dựng nhiều đạo luật mới, đề cao, tôn trọng các quyền cơ bản, chính đáng của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do Internet. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay như trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Báo chí (năm 2016); Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)… vấn đề tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm.
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, không một quốc gia nào trên thế giới lại cho phép các thế lực thù địch, phản động, chống phá tụ tung tự tác, tác oai tác quái, xấc xược, đặt điều vu khống nói xấu đất nước, chế độ, lãnh tụ. Không một quốc gia nào tự do để các phần tử xấu vi phạm pháp luật, ngăn cản, chống phá sự phát triển đất nước cũng như những quyền và lợi ích hợp pháp của dân tộc, của người dân, đi ngược lại sự phát triển của thế giới. Thực tế, quyền tự do Internet luôn được đặt trong khuôn khổ pháp luật. Đơn cử như Ủy ban châu Âu đã ban hành luật về bảo vệ sự riêng tư toàn cầu nhằm hạn chế hoạt động của Internet, mạng xã hội vi phạm quyền riêng tư của công dân của các nước thành viên. Trong khi đó, Trung Quốc chặn tất cả các mạng xã hội, trong đó có Facebook, Google nhằm ngăn chặn người dùng truy cập các trang web đồi trụy hoặc có nội dung nhằm mục đích chính trị. Hàn Quốc, Thái Lan yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet phải kiểm duyệt, ngăn chặn các tài khoản, clip có “nội dung không phù hợp” trên các mạng xã hội. Chính Quốc hội Mỹ cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm xử lý, ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để khủng bố, kích động bạo lực hay là vi phạm sở hữu trí tuệ...
Rõ ràng, không chỉ Việt Nam, quốc gia nào trên thế giới cũng có những biện pháp quyết liệt để đấu tranh chống lại các mặt trái trên không gian mạng, cụ thể là trên Internet. Không có một quốc gia nào cho phép các hành vi tội phạm công nghệ cao được tồn tại trên Internet để phá hoại kinh tế, cản trở các hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, của những người dân vô tội. Thế nên, việc phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các đối tượng lợi dụng Internet vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân là việc làm hiển nhiên. Điều đó rõ ràng phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác... Việc không có tự do trên không gian mạng đã được khu biệt, giới hạn rõ là nghiêm cấm các mặt trái do Internet gây ra, trái với bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, cản trở sự phát triển xã hội, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.
Chính Các Mác và Ph.Ăng-ghen cũng khẳng định rằng: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”; tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì quyền cũng khác nhau. Theo đó, quan niệm về tự do ngôn luận không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử. Và trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, những quyền tự do cơ bản của con người, như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do Internet vẫn luôn phải bảo đảm dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và đặc thù mỗi quốc gia, chứ không thể có thứ nhân danh để tự do vô lối, chống đối, phá hoại.
Tự do là quyền của con người, nhưng đó không phải là sự tự do vô lối, tùy tiện, vô chính phủ, mà nó chỉ được bảo đảm khi con người nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và hành động phù hợp luật pháp. Rõ ràng, không thể có một thứ tự do là muốn làm gì thì làm. Tự do buộc phải hình thành, tồn tại trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cá nhân và Nhà nước. Tự do Internet cũng không là ngoại lệ./.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH



 (ĐCSVN) – Muốn phê phán, phản bác đúng các loại quan điểm sai, trái thù địch thì trước hết phải nhận diện cho đúng các loại quan điểm ấy, đồng thời, người làm báo phải có dũng khí, bản lĩnh để nhận diện và đấu tranh thể hiện qua từng trang viết…
Tại cuộc Tọa đàm “Nâng cao chất lượng bài viết phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên Tạp chí Tuyên giáo” mới đây do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, các đại biểu đã có nhiều ý kiến đóng góp kinh nghiệm quý từ thực tiễn.
Nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng
Theo đồng chí Lê Huy Nam, Tổng biên tập Tạp chí Tuyên giáo, trước các hoạt động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động cùng những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (Nghị quyết 35).
Nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 35, một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm được đồng chí Võ Văn Thưởng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị Báo cáo viên các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tháng 7/2019, đó là: Phát huy vai trò của báo chí truyền thông trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch…
Là cơ quan ngôn luận của Ban Tuyên giáo Trung ương, Tạp chí Tuyên giáo đã tổ chức bài viết phê phán, phản bác quan điểm sai trái, thù địch đã thực hiện trong suốt hơn 60 năm qua kể từ khi số đầu tiên phát hành. Phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ được quy định cụ thể trong Quyết định của Ban Tuyên giáo Trung ương về chức năng, nhiệm vụ của Tạp chí.
Chỉ tính từ đầu năm 2018 đến nay, Tạp chí đã đăng tải hơn 200 bài viết trực tiếp và gián tiếp tham gia đấu tranh phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, tập trung vào  những chủ đề, vấn đề: Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; phân tích, lý giải kinh tế thị trường định hướng XHCN và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; quyết tâm đổi mới tư duy, phát triển lý luận của Đảng ta; quyết tâm của Đảng trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; quyết tâm bảo vệ chủ quyền, biển, đảo của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta; phê phán, phản bác các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; chống các biểu hiện lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để nói xấu chế độ; phê phán các biểu hiện coi thường những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc; đấu tranh với các biểu hiện lợi dụng danh nghĩa phản biện xã hội để chống lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi dụng những mặt trái, mặt tiêu cực của xã hội để đả kích, phê phán chế độ; đấu tranh phê phán, phản bác những biểu hiện xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử cách mạng, lịch sử đất nước…  
Các tuyến bài phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên cả hai ấn phẩm in và điện tử được thể hiện dưới những thể loại - dạng bài viết chính luận, bình luận, phản ánh hoặc phiếm chỉ…
Phải nhận diện cho đúng để đấu tranh, phản bác
Nhà báo lão thành Hà Đăng cho rằng, muốn phê phán, phản bác đúng các loại quan điểm sai trái thù địch thì trước hết phải nhận diện cho đúng các loại quan điểm ấy. Vậy thế nào là sai trái, thế nào là thù địch? Giữa sai trái và thù địch, liệu có lằn ranh nào ngăn cách? Có thể có những quan điểm sai trái nhưng không hẳn là thù địch. Nhưng đã là quan điểm thù địch thì đương nhiên không thể không sai trái. Ở đây ta không xếp vào loại quan điểm sai trái, thù địch việc phê bình, chỉ trích, thậm chí phê phán gay gắt các sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước nhưng trong tinh thần xây dựng chứ không phải chống đối, phá phách, cơ hội chủ nghĩa…
Ông khẳng định, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch thực chất là đấu tranh về chính trị, lý luận. Mũi nhọn phải chĩa vào các thế lực thù địch, dù núp bóng hay công khai lộ diện. Bài viết không phải để các thế lực chống đối, thù địch đọc và nghe mà là để giáo dục, thuyết phục đông đảo quần chúng, bạn đọc nhận rõ bộ mặt thật quan điểm sai trái, thù địch ấy, từ đó trang bị cho họ vũ khí đấu tranh, chống lại nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta...
Xác định rõ tính chất, mức độ để đấu tranh, ngăn ngừa
Theo đồng chí Nguyễn Quang Vinh, Phó Cục trưởng Cục truyền thông Công an nhân dân, Bộ Công an, cần xác định rõ tính chất và mức độ của từng đối tượng, phần tử để có thái độ, biện pháp đấu tranh phù hợp. Trong quá trình đấu tranh, rất cần có sự chung tay, phối hợp giữa các lực lượng trong phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, các thế lực cơ hội, phản động, có tư tưởng lệch lạc về chính trị.
Cùng quan điểm này, Phó Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng Trần Văn Hiệp chia sẻ, từ thực tế của tỉnh, để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trước hết phải nắm bắt thông tin, sau đó mới tiếp cận vận động để hiểu rõ tính chất, mức độ, nội dung rồi mới có thể phản bác ngăn ngừa. Đồng chí cho rằng, cách làm này sẽ tạo thế chủ động trong phản bác, không bị động chờ có bài xuyên tạc, chống phá mới phản bác. Việc nhanh chóng tiếp xúc đối tượng, giải thích vận động là để kịp thời kéo họ trở lại, không để tư tưởng của họ bị lung lay dao động…
Phó Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng cho rằng, mục tiêu trước mắt mà các thế lực thù địch quyết phá là làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân bị dao động, lung lay. Vì vậy, muốn làm tốt công tác tư tưởng ngoài xã hội thì trước hết phải làm tốt công tác tư tưởng trong đảng viên từng chi bộ. Từ đảng viên chi bộ sẽ lan tỏa ra gia đình và lan tỏa ra xã hội, cho nên việc cung cấp các luận điểm, luận cứ, thực tiễn khoa học đấu tranh phản bác trong bản tin nội bộ là rất cần thiết và hiệu quả cũng khá rõ ràng.
Xác minh, xử lý, không để kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân
Đồng chí Đỗ Thắng, Phó Trưởng phòng Báo chí Xuất bản, Ban Tuyên giáo Thành uỷ TP. Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần tích cực trong việc ngăn chặn, đấu tranh, xử lý các đối tượng đăng tải thông tin sai trái, xấu, độc trên internet và mạng xã hội. Bước đầu các tổ chức Đảng, nhất là ở cấp chi bộ ở Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đều quan tâm, nắm bắt hoạt động của cán bộ, đảng viên trên mạng xã hội; thường xuyên nhắc nhở, lãnh đạo cán bộ đảng viên sử dụng internet, mạng xã hội có trách nhiệm, đăng tải, chia sẻ thông tin chính thống, tích cực, tham gia phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc.
Với kinh nghiệm xử lý, ngăn chặn sự kích động, chống phá của các thế lực thù địch thông qua mạng xã hội thời gian qua trên địa bàn tỉnh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh Nguyễn Thị Hà Tân cho rằng, trước hết, cần thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quán triệt, tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với người dân. Hai là, tăng cường công tác quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, địa bàn nhất là những địa bàn, lĩnh vực nhạy cảm, dự báo tiềm ẩn về an ninh trật tự, không để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động. Ba là, thường xuyên làm tốt công tác theo dõi, nắm bắt dư luận xã hội, kịp thời kiến nghị, đề xuất giải quyết những vấn đề phát sinh ngay từ cơ sở. Bốn là, khi có vụ việc phức tạp, phát sinh được dư luận quan tâm, cần kịp thời tham mưu cơ quan thẩm quyền chỉ đạo, vào cuộc xác minh, xử lý, không để kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân, đồng thời thực hiện nghiêm quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí; không tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động chống phá. Năm là, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân cần thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bảo mật thông tin; tuyệt đối không để lộ lọt thông tin, bí mật nhà nước, gây hệ lụy lớn đối với tình hình an ninh chính trị...
Nâng cao bản lĩnh người làm báo
Năm 2020, là năm có nhiều sự kiện quan trọng của đất nước trong đó có việc chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng lần thứ 13 của Đảng. Đây là thời điểm các thế lực thù địch ra sức chống phá, với nhiều thủ đoạn tinh vi, quyết liệt.
Vì vậy, theo đồng chí Trần Thanh Lâm, Vụ trưởng Vụ Báo chí – Xuất bản, Ban Tuyên giáo Trung ương đề nghị trong thời gian tới, để báo chí phát huy tốt vai trò phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cần nhất quán nguyên tắc hoạt động của các cơ quan báo chí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, luôn luôn đi đầu trong việc bảo vệ Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước, đảm bảo tính tư tưởng, tính nhân dân, tính chân thực, tính chiến đấu, tính đa dạng, có trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh, đoàn kết trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh các quan điểm sai trái, thù địch; khắc phục biểu hiện thương mại hoá, biểu hiện lệch lạc, tiêu cực khác.... Tiếp tục nâng cao nâng cao nhận thức cho các cơ quan báo chí về vai trò, tầm quan trọng, biểu dương các điển hình tiêu biểu trong việc tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, chống âm mưu diễn biến hòa bình trên lĩnh vực văn hoá, trong đó chú trọng phát huy vai trò quan trọng của các cơ quan báo chí chủ lực như Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, TTXVN, Đài Tiếng nói Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Quân đội Nhân dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Tuyên giáo, cũng như các cơ quan báo Đảng ở Trung ương và địa phương…
Bên cạnh đó, cần chú trọng biểu dương các điển hình tiên tiến nhằm cổ vũ, động viên, tạo ảnh hưởng lan toả, hiệu ứng trong xã hội trên mặt trận đấu tranh quan điểm, sai trái của các thế lực thù địch, từ đó trở thành phong trào lớn trong toàn xã hội. Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, lực lượng, phương tiện nâng cao hiệu quả đấu tranh, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng, coi đây là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, nội dung các tuyến bài viết cần tập trung các vấn đề nóng các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng chống phá. Đồng thời đa dạng hóa hình thức thông tin tuyên truyền, định hướng hệ giá trị, bồi dưỡng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam cho thế hệ trẻ; chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ, bản lĩnh cho người làm báo…/.

CẦN TỈNH TÁO TRƯỚC NHỮNG THỦ ĐOẠN KÍCH ĐỘNG TRÊN INTERNET


Thời gian qua, nhiều vụ việc cho thấy tổ chức khủng bố “Việt Tân” đã lợi dụng triệt để sự phát triển của Internet, nhất là mạng xã hội để tuyên truyền, công kích, lôi kéo người dân tham gia các hội, nhóm trá hình trên không gian mạng. Nhóm này luôn sử dụng danh nghĩa phản biện xã hội, đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền, xây dựng xã hội dân sự, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ... nhưng thực chất là để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng, thái độ thù địch của một bộ phận nhân dân.
Cụ thể trong vụ án trên, Đỗ Hoàng Điềm đã sử dụng facebook mang tên “Hoang Nguyen” rồi kết bạn với Trần Văn Quyền thông qua mạng xã hội này. Điềm đã hướng dẫn Quyền sử dụng các ứng dụng mạng xã hội khác và chỉ cho Quyền tìm đọc các vấn đề chính trị xã hội ở Việt Nam, gợi sự bất mãn với chính quyền để lôi kéo Quyền tham gia tổ chức khủng bố “Việt Tân”.
Còn Châu Văn Khảm sử dụng mạng xã hội facebook với tên “Khảm Châu” để giải đáp các thắc mắc về tổ chức “Việt Tân” trên trang facebook “Việt Tân”. Sau khi Châu Văn Khảm bị bắt, trang facebook “Việt Tân” tán phát nhiều tài liệu, có nội dung phản ánh sai lệch sự việc, vu cáo, bịa đặt, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, tán phát nhiều “thư ngỏ” có nội dung kêu gọi các tổ chức được cho là vì tự do, dân chủ, nhân quyền lên tiếng, can thiệp buộc Chính phủ Việt Nam trả tự do cho Châu Văn Khảm. Đây là những chiêu trò xuyên tạc nhằm chống phá cách mạng Việt Nam của tổ chức khủng bố “Việt Tân”, người dân cần hết sức cảnh giác trước sự bịa đặt của các đối tượng này.
Mới đây, tháng 8/2019, trên cơ sở khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Bộ Công an đã công bố danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố. Ngoài “Tổ chức khủng bố Việt Tân” và “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” (là tổ chức liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố), Bộ Công an còn bổ sung thêm danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố do Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc chỉ định./.
http://dangcongsan.vn/phap-luat/canh-giac-ngan-chan-kip-thoi-hanh-vi-chong-pha-cua-to-chuc-khung-bo-viet-tan-542211.html

NGĂN CHẶN KỊP THỜI HÀNH VI PHÁ HOẠI CỦA TỔ CHỨC KHỦNG BỐ “VIỆT TÂN”



 Sau khi thành lập, “Việt Tân” đã tổ chức tuyển dụng, huấn luyện cho thành viên cách thức sử dụng vũ khí, vật liệu nổ; tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, bắt cóc, thủ tiêu con tin…; tiến hành các chiến dịch đưa các nhóm vũ trang với hàng trăm đối tượng từ Thái Lan xâm nhập qua Lào, Campuchia về Việt Nam để lập “mật cứ”, tiến hành hoạt động bạo loạn, khủng bố nhưng đã bị các cơ quan chức năng của Việt Nam, Lào ngăn chặn, vô hiệu hóa.
Hiện, “Việt Tân” tiếp tục tuyển dụng, huấn luyện, chỉ đạo thành viên xâm nhập về Việt Nam kích động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, thủ tiêu, bắt cóc con tin; đưa người ra nước ngoài đào tạo, huấn luyện, tổ chức các khóa đào tạo trực tuyến về phương thức, hoạt động khủng bố, phá hoại; tán phát lên mạng Internet hướng dẫn cách chế tạo bom xăng để phục vụ hoạt động khủng bố, phá hoại, ám sát…
Tương tự như vụ án Châu Văn Khảm, để thực hiện mục tiêu chống phá, “Việt Tân” đã nhiều lần cho các thành viên xâm nhập trái phép về Việt Nam. Năm 2007, Nguyễn Hải, Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Quốc Quân, Nguyễn Thị Thanh Vân, Trương Leon là các thành viên của “Việt Tân” đã xâm nhập về Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo “cơ sở nội địa” làm, phát tán truyền đơn có nội dung kích động biểu tình, phá rối án ninh, bạo loạn nhằm gây hoang mang quần chúng nhân dân. Nhóm đối tượng này bị lực lượng chức năng ngăn chặn kịp thời, đưa ra xét xử vào tháng 5/2008.
Một vụ việc khác tinh vi hơn là đối tượng Phạm Minh Hoàng (thành viên của “Việt Tân” tại Pháp) về Việt Nam trà trộn vào làm giảng viên hợp đồng của một trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian tại đây, Hoàng đã viết 33 bài viết có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam rồi gửi cho tổ chức khủng bố Việt Tân đăng phát trên mạng internet nhằm mục đích kích động, lôi kéo người dân biểu tình. Năm 2011, Hoàng phải hầu tòa vì những hành vi phạm tội của mình.
Ngoài ra, từ tháng 8/2009 đến tháng 11/2011, tổ chức khủng bố “Việt Tân” đã đưa 17 đối tượng làm cơ sở trong nước nhiều lần sang Thái Lan, Campuchia, Lào, Philippine và Mỹ để được các “lãnh đạo của Việt Tân” huấn luyện. Ngày 2/8/2011, khi các đối tượng nhập cảnh về Việt Nam thì bị Cơ quan An ninh Bộ Công an phát hiện, bắt giữ.

ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG CÓ PHẢI LÀ "MỆNH LỆNH" ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC?



 (ĐCSVN) - Phải là người Việt Nam yêu nước thực sự mới thấm thía hết được giá trị của những thành quả mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gần chín thập kỷ qua, mới có thể nhận thức được đâu là “mệnh lệnh” đích thực của đất nước và quyết tâm phấn đấu theo “mệnh lệnh” đó.
Hiện nay, trong khi nhân dân ta đang có những hoạt động sôi nổi tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội càng ráo riết, quyết liệt chống phá cách mạng Việt Nam. Chiêu trò “đa nguyên, đa đảng” lại được chúng phát động, tung lên dồn dập trên các phương tiện thông tin, truyền thông, trên internet, mạng xã hội với thái độ hằn học và giọng điệu thù địch. Chúng ra sức kêu gọi và yêu sách nhân dân ta phải thiết lập một “chế độ dân chủ đa nguyên”, coi đó là một “mệnh lệnh” của đất nước hiện nay! Chúng lớn tiếng xằng bậy rằng, “đất nước sẽ tàn tạ đến nỗi tàn tật”, nếu vẫn chấp nhận “chế độ cộng sản”!
Những người đưa ra luận điệu trên xem ra cũng chẳng hiểu gì về lịch sử Việt Nam và cũng chưa hiểu, hay cố tình làm sai lệch nội dung bản chất “mệnh lệnh” của đất nước Việt Nam lúc này.
Mọi người đều biết, những thập kỷ đầu thế kỷ XX qua sự “sàng lọc” dữ dội của lịch sử, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất dẫn dắt mình đi đến độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự. Thực tiễn cũng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiền phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Năm 1945, Đảng lãnh đạo toàn dân tộc, toàn thể nhân dân ta đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền, Đảng đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia...
Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng đã có và cũng đã phủ định đa đảng. Song điều quan trọng là, toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và hoạt động của Nhà nước Việt Nam mới là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất nguyên. Chế độ chính trị đó là do nhân dân ta lựa chọn từ những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho dân tộc và toàn thể nhân dân lao động thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được sống cuộc đời tự do, hạnh phúc.
Không thể phủ nhận những hy sinh, mất mát to lớn của nhiều thế hệ người Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc ở thế kỷ XX, và vững bước đi lên trên con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tinh thần anh dũng hy sinh và lao động sáng tạo của dân tộc ta là tấm gương để nhân dân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới noi theo; là điểm sáng được bạn bè thế giới ngưỡng mộ và lạc quan tin tưởng vào tương lai phát triển phồn thịnh của Việt Nam.
Đó là sự thật. Nó đó đã, đang và vẫn diễn ra, hoàn toàn bác bỏ những luận điệu muốn bóp méo, xuyên tạc, phủ định thành quả của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nó đập tan mọi luận điệu thù địch, chống đối, cố tình nói xằng rằng “đất nước sẽ tàn tạ đến nỗi tàn tật”, nếu dân tộc Việt Nam vẫn chấp nhận “chế độ cộng sản độc tài”!
Thực chất luận điệu đòi thiết lập “chế độ dân chủ đa nguyên”, coi đó là “mệnh lệnh” của đất nước là nhằm hướng lái nền chính trị nước ta sang chính trị tư sản. Điều tệ hại dẫn đến sẽ là: Đất nước diễn ra cảnh hỗn loạn, mất ổn định, đổ vỡ nền kinh tế, rơi vào thảm họa như đã từng xảy ra ở một số nước. Thảm họa đó chắc chắn sẽ giáng cả lên đầu nhân dân. Và nhân dân chỉ là cái cớ cho sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái.
Họ đã mượn ở đâu cái cụm từ “mệnh lệnh” của đất nước khi cho rằng thực hiện đa nguyên chính trị là “mệnh lệnh” của đất nước hiện nay. Ở đây vừa cho thấy họ chẳng hiểu thế nào là “mệnh lệnh” của nước ta hiện nay, lại vừa cho thấy sự méo mó và dã tâm cố tình lái nguyện vọng, lợi ích của dân tộc ta theo một hướng khác. Họ đã cố tình không thấy, không biết thực chất mục tiêu, động lực và “mệnh lệnh” - như họ nói” của nhân dân ta hiện nay là: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phải là người Việt Nam yêu nước thực sự mới thấm thía hết được giá trị của những thành quả mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gần chín thập kỷ qua, mới có thể nhận thức được đâu là “mệnh lệnh” đích thực của đất nước và quyết tâm phấn đấu theo “mệnh lệnh” đó./.

KHOÁC ÁO “CHỦ NGHĨA KHÁCH QUAN” TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - MỐI NGUY HẠI CẦN BÓC TRẦN VÀ LOẠI BỎ



Nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận chính trị đòi hỏi người nghiên cứu và cả đội ngũ của họ phải thường xuyên và đồng thời trau dồi trình độ chuyên môn, học thuật, tích lũy vốn sống và kinh nghiệm, rèn luyện phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị. Đó là điều cần thiết. Chính vì vậy, thấm nhuần quan điểm khách quan khoa học trong nghiên cứu thì phải đấu tranh phê phán và loại bỏ những biểu hiện bất minh, bất chính khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học...
Khách quan khoa học trong nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội - nhân văn
Khoa học xã hội - nhân văn là một tập hợp lớn các ngành, chuyên ngành khoa học khác nhau cùng nghiên cứu về xã hội và con người, lấy xã hội và con người làm đối tượng và khách thể nghiên cứu. Triết học, đặc biệt là triết học xã hội, chính trị học và các khoa học chính trị, sử học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học, văn hóa học,... là những môn khoa học nằm trong hệ thống chỉnh thể các khoa học xã hội và nhân văn. Trong hệ thống các môn khoa học này, lý luận kinh điển Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí và vai trò quan trọng đặc biệt. Với tính cách là một khoa học, lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò nền tảng tư tưởng, tinh thần của xã hội, định hướng về lập trường và quan điểm, nguyên tắc và phương pháp cho nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn, bảo đảm cho nghiên cứu khoa học về xã hội, về con người đúng đắn, có kết quả, có tác động hữu ích và thiết thực đối với đời sống xã hội và con người, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, sự hoàn thiện nhân cách con người, phù hợp với quy luật khách quan - quy luật của tiến bộ lịch sử. Theo đó, lý luận - ở đây là lý luận kinh điển Mác-xít (hay còn có thể gọi là các môn khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin) là bộ phận cốt yếu của khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta, cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của đảng cộng sản và sự quản lý của nhà nước pháp quyền, trong đó có chức năng quản lý nhà nước về khoa học, về hoạt động nghiên cứu khoa học.
Sự khác biệt căn bản giữa khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ với khoa học xã hội - nhân văn và lý luận là sự khác biệt về đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Nếu khoa học tự nhiên nghiên cứu giới tự nhiên, môi trường tự nhiên, tồn tại độc lập khách quan bên ngoài đời sống xã hội, lịch sử xã hội và con người, không phụ thuộc vào ý thức con người, nhằm khám phá quy luật vận động của giới tự nhiên - “thân thể vô cơ” của con người như C. Mác nói, thì khoa học xã hội - nhân văn lại nghiên cứu về xã hội, đời sống xã hội, cấu trúc xã hội và các quan hệ xã hội của con người. Chính trong đời sống hiện thực xã hội đó diễn ra những hoạt động của con người - những chủ thể có ý thức để con người và loài người sáng tạo ra lịch sử như “một tự nhiên thứ hai” (C. Mác) của mình. C. Mác cũng từng nhấn mạnh rằng, con người và loài người sáng tạo ra lịch sử, không phải tùy tiện, chủ quan mà tuân theo những quy luật khách quan, do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan quy định, chi phối và chế ước. Con người nhận thức giới tự nhiên, khám phá các quy luật tự nhiên, chúng tác động tự phát vào trong quá trình tự vận động, tự biến đổi của tự nhiên để tồn tại trong môi trường tự nhiên, cải biến tự nhiên một cách có ý thức, phù hợp với quy luật khách quan, phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, đó là sáng tạo ra xã hội, ra lịch sử, không phải hư vô, thần bí mà trên những tiền đề vật chất nhất định. Giới tự nhiên có thể ví như cái giá đỡ vật chất, không có cái nền tảng hiện thực đó, không thể có xã hội và lịch sử.
Do đó, con người và loài người trước khi sáng tạo ra xã hội và lịch sử của mình, nó đã từng là một bộ phận của giới tự nhiên như một tất yếu. Tuân theo quy luật tự nhiên để cải biến tự nhiên vì mục đích xã hội và nhân văn cũng là một tất yếu khách quan. Khám phá bản chất, quy luật và hành động thuận theo quy luật chính là sức mạnh và khả năng sáng tạo của chủ quan, chủ thể trong sự ràng buộc tất yếu của cái khách quan. Ph. Ăng-ghen đã từng cảnh báo: con người đối xử với tự nhiên đúng như quy luật của nó thì tự nhiên sẽ phục vụ con người như một “cô hầu gái ngoan ngoãn”, trái lại nếu con người can thiệp tùy tiện vào giới tự nhiên một cách trái quy luật thì giới tự nhiên sẽ trả thù con người, sẽ tác oai tác quái như một “mụ phù thủy độc ác”. Do đó, con người không thể đối xử với tự nhiên như một “tên thực dân xâm lược” mà trái lại, phải “hiểu” tự nhiên (bởi tự nhiên thường tự giấu mình) để ứng xử “thuận hòa” với tự nhiên. Đòi hỏi đó là khách quan. Một triết lý sống được đưa ra trước loài người: để “làm chủ” tự nhiên, để “chinh phục” tự nhiên theo chiều hướng nhân văn vì mục đích sống an toàn, hạnh phúc cho cộng đồng nhân loại thì con người văn minh và xã hội hiện đại phải “làm bạn” với tự nhiên, phải “thân thiện” với nó chứ không phải tàn phá nó một cách vô lối và khai thác nó đến kiệt quệ, phá vỡ tính cân bằng của môi trường sinh thái. Những biến đổi của khí hậu, thiên tai, lũ lụt, những con sóng thần hung dữ, những dòng sông chết, nước biển dâng như hiện nay,... đều là cái giá phải trả do hành vi làm trái quy luật của chính con người gây ra. Thảm họa môi trường đang là một vấn đề toàn cầu, đe dọa từng ngày, từng giờ đến cuộc sống con người càng cho thấy thái độ tôn trọng khách quan, tuân thủ quy luật khách quan có tầm quan trọng sống còn đối với con người và loài người như thế nào.
Khoa học xã hội - nhân văn và lý luận thấm nhuần quan điểm khách quan khoa học trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng phải góp phần thích đáng vào công cuộc bảo vệ môi trường tự nhiên đang bị hủy hoại - mà sự hủy hoại này lại do chính con người gây ra như một hành vi tự sát - bằng cách xây dựng vững chãi cơ sở khoa học cho một triết lý sống mới: từ tàn phá tự nhiên sang bảo vệ tự nhiên, thực hiện sự hài hòa tự nhiên - xã hội trong phát triển. Từ đây, có thể nhận rõ tính đặc thù của các quy luật xã hội và tính đặc thù của khoa học xã hội - nhân văn, của lý luận trên quan điểm khách quan khoa học.
Nếu quy luật tự nhiên tác động một cách tự phát trong biến đổi tự nhiên thì quy luật xã hội lại tác động vào xã hội thông qua nhận thức và hành động tự giác của con người. Khoa học tự nhiên và nghiên cứu khoa học tự nhiên không có tính giai cấp nhưng ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học của các nhà tự nhiên học vào đời sống xã hội, khi xã hội đã phân chia thành giai cấp, có đối kháng và mâu thuẫn giai cấp do những khác biệt và xung đột lợi ích giai cấp mà ra, thì lại chịu tác động từ các giai cấp, các chủ thể thống trị và cầm quyền, thông qua lăng kính giai cấp, thông qua thể chế chính trị, tập trung ở quyền lực nhà nước cũng như chịu tác động từ ý thức hệ của giai cấp thống trị. Một ví dụ kinh điển mà mọi người đều thấy, nghiên cứu và ứng dụng sức mạnh của năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, phát triển sản xuất và kinh tế, làm giảm nhẹ sức lao động của con người và phục vụ dân sinh khác về bản chất với việc dùng những sức mạnh ấy của bom đạn vào chiến tranh, xâm lược, giết hại và hủy diệt hàng loạt sinh mạng, gây ra thảm họa cho loài người.
Khoa học xã hội - nhân văn và lý luận trên quan điểm khách quan khoa học giúp ta nhận rõ những tính khác biệt đặc thù của nó so với khoa học tự nhiên và kỹ thuật - công nghệ. Những tính khác biệt đặc thù này, một mặt, vẫn không xa rời tính phổ biến của khoa học, của tri thức và chân lý khoa học nói chung; mặt khác, đặt ra những yêu cầu cho nhà khoa học, nhà lý luận trong nghiên cứu các vấn đề về xã hội và con người. Yêu cầu ấy, xét đến cùng, cũng do tính khách quan quy định.
Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, cần được nghiên cứu công phu, thấu đáo bằng những chuyên khảo lớn, làm rõ lịch sử và lô-gíc của nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn để luận chứng những tính quy luật đặc thù của lĩnh vực khoa học vô cùng quan trọng này. Những dự báo về khoa học và khoa học luận đã cho thấy, trong đà phát triển của khoa học, của các dòng thác thông tin trên toàn cầu, nhất là trong sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học - công nghệ, kể cả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra hiện nay thì khoa học xã hội - nhân văn, nhất là lý luận chẳng những không bị suy giảm như có người lầm tưởng mà trái lại ngày càng có vai trò quan trọng, nổi bật trong sự phát triển của xã hội hiện đại, trong nhận thức luận về thế giới đương đại trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Xã hội càng phát triển văn minh hiện đại bao nhiêu càng cần đến vốn hiểu biết sâu sắc bấy nhiêu về xã hội, về con người. Kỹ thuật - công nghệ dù có hiện đại đến đâu, các dòng sản phẩm công nghệ, các thế hệ công nghệ liên tiếp xuất hiện mới, thay thế nhau, đó là một thực tế, song không vì thế mà phương diện kỹ thuật, công nghệ có thể đè bẹp, lấn át con người, thay thế con người được. Mọi thành tựu công nghệ đều chỉ là bằng chứng nói lên sức mạnh sáng tạo của con người, đều từ trí tuệ con người sáng tạo ra. Trí tuệ nhân tạo cũng vậy, là sản phẩm do trí tuệ con người tạo ra, không có con người sáng tạo sẽ không có bất cứ thành tựu nào có thể tự sản xuất ra được. Sự không ngừng tăng lên của tri thức nhân văn, của khoa học xã hội - nhân văn là đòi hỏi khách quan của tiến bộ lịch sử, rằng, đời sống xã hội ngày càng phải nhân văn hơn, ngày càng phải bộc lộ đầy đủ hơn sức mạnh của nhân tính, cái mà C. Mác trù tính “sức mạnh bản chất người”, “sức mạnh của nhân tính” phải được không ngừng bộc lộ, “phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn”. Kỹ thuật - công nghệ là những phương tiện kỳ diệu để giải phóng và nâng cao con người chứ không phải để biến thành “chủ nghĩa kỹ trị” thống trị con người và xã hội.
Đó là khách quan khoa học mà các khoa học nghiên cứu về xã hội, về con người cần phải chứng tỏ sức mạnh cần thiết, hữu ích của mình. Nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn cần phải luôn luôn đứng vững trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển hướng tới những giá trị nhân văn đích thực.
Có thể khái quát những đặc điểm đặc thù của khoa học xã hội - nhân văn và lý luận như sau:
Thứ nhất, khoa học xã hội - nhân văn cũng như mọi khoa học phải bảo đảm tính đúng đắn, chính xác trong những kết quả nghiên cứu. Phản ánh đúng đắn, chính xác hiện thực khách quan trong phạm vi đối tượng nghiên cứu là tiêu chí (thước đo) của tri thức, của chân lý khoa học. Song tính đúng đắn, chính xác của khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt của lý luận không giống như tính đúng đắn chính xác của tự nhiên học được lượng hóa, được thực chứng, thực nghiệm một cách chi tiết trong phòng thí nghiệm. Trong khi có thể áp dụng phương pháp phân tích định lượng nhằm lượng hóa đối tượng và kết quả nghiên cứu thì khoa học xã hội - nhân văn, nhất là lý luận lại chú trọng nhiều hơn phương pháp phân tích định tính, phương pháp phân tích so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa.
Tri thức, chân lý của khoa học xã hội - nhân văn đúng đắn, chính xác ở chỗ, nó vạch ra xu thế của phát triển, bản chất, quy luật hay tính quy luật trong phát triển, biểu đạt bằng các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm giúp cho chúng ta nhận biết bản chất của đối tượng, dự báo xu hướng vận động, biến đổi của đối tượng. Nó đúng đắn, chính xác bởi tính chặt chẽ của lô-gíc khoa học và các quan điểm nghiên cứu, các tư tưởng khoa học có tác dụng gợi mở, hình thành cơ sở khoa học của niềm tin đối với mọi người trong xã hội. Tính đúng đắn, chính xác của khoa học xã hội - nhân văn, nhất là lý luận, học thuyết lý luận, phương pháp luận là ở tác dụng, hiệu ứng xã hội của nó, giá trị và ý nghĩa khai sáng (khai tâm, khai trí) của nó đối với con người, với xã hội nói chung.
Hiểu để tin, tin để hành động tự giác và sáng tạo, sáng suốt chứ không phiêu lưu, mù quáng. Tính đúng đắn, chính xác từ những tri thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận như vậy nhằm vào định hướng tư tưởng, lựa chọn giá trị mục tiêu hành động của con người, khác với thực chứng, thực nghiệm của tự nhiên học.
Thứ hai, khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt là lý luận, do đối tượng và khách thể nghiên cứu của nó là đời sống xã hội và hoạt động của con người quy định, lại mang tính đặc thù về tính đúng đắn, chính xác của các tri thức khoa học xã hội - nhân văn như đã nêu trên nên nghiên cứu cơ bản gắn chặt với nghiên cứu ứng dụng. Trong không ít trường hợp, các loại hình nghiên cứu này thâm nhập, thẩm thấu vào nhau rất sâu sắc, thậm chí có thể đồng nhất. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất ở lý luận. Đó cũng là chỗ khác căn bản giữa khoa học xã hội - nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Thứ ba, khác căn bản với khoa học tự nhiên và các nhà tự nhiên học, khoa học xã hội - nhân văn và lý luận, các nhà khoa học, các nhà lý luận gắn chặt với chính trị (hoạt động), chính thể (thể chế đảng chính trị, nhà nước và pháp luật), chính giới (giới chính trị lãnh đạo, cầm quyền, tầng lớp tinh hoa có ảnh hưởng quan trọng tới các quyết sách tầm quốc gia, quốc tế), tác động trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả của tham chính (tham gia chính trị của mọi công dân) và chấp chính (của những người nắm giữ cương vị quyền lực, thực thi quyền lực công được ủy thác từ dân chúng và xã hội). Do đó, đội ngũ trí thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc củng cố nền tảng tư tưởng, ý thức hệ của xã hội.
Thứ tư, bản thân khoa học và giới trí thức khoa học sáng tạo luôn đòi hỏi sự tôn trọng chân lý và đạo lý. Đòi hỏi này đặc biệt nổi trội trong khoa học xã hội - nhân văn, trong lý luận.
Thứ năm, để phát triển tiềm năng và tiến bộ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt là nghiên cứu lý luận, trước hết là lý luận chính trị, cần phải tạo ra môi trường xã hội dân chủ, tôn trọng tự do tư tưởng, xác lập quan hệ hợp tác, tin cậy, trách nhiệm giữa lãnh đạo, quản lý với giới nghiên cứu để thúc đẩy sáng tạo vì lợi ích chung của xã hội. Đó cũng chính là đòi hỏi tất yếu khách quan mà bản thân khoa học và đời sống đặt ra trong quá trình phát triển.
Đó cũng là cơ sở khách quan quy định sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng, giữa tính đảng với tính khoa học, giữa khoa học với chính trị, giữa khoa học với đạo đức, với văn hóa.
Sự liên kết và thống nhất chặt chẽ những thuộc tính nêu trên trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt là nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận chính trị đòi hỏi người nghiên cứu và cả đội ngũ của họ phải thường xuyên và đồng thời trau dồi trình độ chuyên môn, học thuật, tích lũy vốn sống và kinh nghiệm, rèn luyện phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị. Đó là điều cần thiết. Chính vì vậy, thấm nhuần quan điểm khách quan khoa học trong nghiên cứu thì phải đấu tranh phê phán và loại bỏ những biểu hiện bất minh, bất chính khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học.
Tôn trọng hiện thực khách quan và nhận thức đúng bản chất của sự thật khách quan - yêu cầu hàng đầu của mọi nghiên cứu khoa học
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật - một chỉnh thể thống nhất hữu cơ không thể tách rời của triết học Mác, triết học khoa học và cách mạng, không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới đó, V. I. Lê-nin đã khẳng định rằng, quan điểm thực tiễn, quan điểm đời sống là quan điểm cơ bản, số một, hàng đầu của lý luận nhận thức. Luận điểm có tính nền tảng này đặt cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xác lập thái độ khách quan khoa học của người nghiên cứu, của hoạt động nghiên cứu để tìm ra bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng, nhận thức đúng về nó và cải biến nó bằng hoạt động sáng tạo trong thực tiễn, phù hợp với quy luật khách quan, thúc đẩy sự phát triển.
Sứ mệnh của khoa học, của các nhà khoa học là cho dù đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu khác nhau, tùy thuộc các lĩnh vực, ngành và chuyên ngành khác nhau, song đã là khoa học thì điểm chung, phổ biến và tất yếu đều là tìm tòi chân lý và phát hiện quy luật để hiểu bản chất của thế giới khách quan, xu hướng vận động và biến đổi của nó, đồng thời cắt nghĩa xem, con người và loài người có vị trí, vai trò và khả năng như thế nào trong thế giới ấy, con người có thể và cần phải làm gì để trở thành tự do trong cái tất yếu, để sáng tạo ra đời sống, tức là lịch sử của mình và thụ hưởng hạnh phúc đích thực.
Ph. Ăng-ghen đã từng đánh giá về thời đại Phục hưng và thế kỷ Ánh sáng (Khai sáng) trong lịch sử nhân loại. Đó là thời đại “khổng lồ” sản sinh ra những con người “khổng lồ”. Họ vĩ đại về mọi phương diện: trí tuệ, tài năng, đạo đức và nhân cách. Hoàn toàn có thể mượn lời này của Ph. Ăng-ghen để nói về các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa cộng sản khoa học. Là nhà tư tưởng Mác-xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam mà còn có những phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, làm phong phú, sống động chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay. Cống hiến vô giá về lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh được chứng thực bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tầm vóc một tác gia kinh điển. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức là một quá trình, đi từ hiện tượng tới bản chất, như V. I. Lê-nin nói, từ nông đến sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ “bản chất cấp 1” đến “bản chất cấp 2”,... tới vô tận.
Bàn về nhận thức, C. Mác cho rằng, để từng bước chiếm lĩnh đối tượng, con người ta đi từ trừu tượng tới cụ thể. Cái trừu tượng ban đầu thật ra là cái cụ thể nhưng trong hình thức trừu tượng của nó, là một cảm nhận chung, giản đơn, cảm tính, trực tiếp, toàn bộ. Quá trình phân tích, đi sâu vào các mối liên hệ, quan hệ giữa đối tượng - khách thể với chủ thể, giúp con người dần dần nhận ra từng thuộc tính bản chất của nó. Cái trừu tượng ban đầu vốn là điểm xuất phát của tư duy, nhận thức trong hình thức của những trực quan và biểu tượng, vốn là cái cụ thể chưa đi qua các thao tác phân tích của lô-gíc khoa học, chưa được tái sản sinh trong tư duy để đạt tới một khái quát lý luận. Chỉ có phân tích và tổng hợp mới giúp cho chủ thể nhận thức phát hiện ra những mối liên hệ bên trong phản ánh bản chất. Từ cái trừu tượng ban đầu về cái cụ thể còn nghèo nàn sơ lược đi qua trừu tượng hóa khoa học - đặc trưng cho sức mạnh của lý tính, “khoảng trống về nội dung” của cái trừu tượng - cụ thể được khỏa lấp làm cho cái cụ thể - trừu tượng đã được tái sản sinh trong tư duy trở nên phong phú, sâu sắc, sống động. Bởi thế, càng xa cái cụ thể ban đầu trong hình thái trừu tượng bao nhiêu, con người càng tiến gần tới cái cụ thể đích thực bấy nhiêu. Đó chính là cái cụ thể được nhận thức về bản chất nhờ sức mạnh của tư duy lý luận, đem lại cho con người - chủ thể tri thức, những “hạt” chân lý, những xu hướng, quy luật và tính quy luật về sự vật, về đối tượng, về thế giới khách quan trong tiến trình vận động, biến đổi và phát triển của nó.
Với ý nghĩa đó, khoa học, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội - nhân văn, khoa học kỹ thuật - công nghệ, trong mỗi loại hình ấy, lý luận, triết học và khoa học luận có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật... Nghiên cứu khoa học chính là hoạt động sản xuất ra tri thức, biểu đạt năng lực trí tuệ của con người và loài người. Hành trình của lịch sử khoa học là hành trình của hiểu biết - khám phá - sáng tạo. Đó cũng là yêu cầu mà chính cuộc sống đặt ra đối với nghiên cứu khoa học, cũng là thiên chức cao quý thuộc về lẽ sống của nhà khoa học chân chính.
Để tồn tại và tiến hành hoạt động sống(1) của mình, con người, từ cá thể đến tộc loại, tức là cả loài người, phải tất yếu và thường xuyên nhận thức thế giới xung quanh, đồng thời nhận thức chính bản thân mình. Quá trình nhận thức và tự nhận thức ấy, bao gồm cả tự điều chỉnh, “tự phê phán” là một tương tác giữa đối tượng - khách thể với chủ thể, giữa khách quan với chủ quan. Ở cấp độ triết học, khoa học về thế giới quan, về bản thể luận và nhận thức luận, trong tư duy triết học thường xuất hiện “những phản tư” ở những thời kỳ phát triển bước ngoặt. Triết học Phục hưng, triết học Khai sáng trong buổi bình minh của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX dẫn đến sự hình thành lý luận của chủ nghĩa xã hội, chuyển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng tới khoa học là những ví dụ điển hình, làm nên cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Bản “Luận cương về Phoi-ơ-bắc” (năm 1845) với 11 luận đề do C. Mác xác lập và được hoàn thiện bởi Ph. Ăng-ghen sau khi C. Mác qua đời, dù dung lượng rất nhỏ nhưng tầm vóc tư tưởng lại vô cùng lớn, bởi đó là “một phác thảo thiên tài về một thế giới quan mới” - khoa học và cách mạng. Thành tựu ấy của tư duy và tư tưởng không phải là sản phẩm của chủ quan và tư biện mà trái lại, là “con đẻ” của thực tiễn lịch sử, của hiện thực khách quan đã chín muồi, nó “gợi ý”, “mách bảo” cho những thiên tài sáng tạo của chủ quan và chủ thể như C. Mác phát hiện và thể hiện. Cho nên, chỉ có xuất phát từ thực tiễn khách quan, với thái độ khách quan khoa học thì mới tiếp cận được chân lý, mới đem lại câu trả lời chính xác, đúng đắn mà thực tiễn đòi hỏi.
Câu hỏi nghiên cứu nào, giả thuyết khoa học nào cũng đều nằm trong thực tiễn, trên mảnh đất hiện thực của cuộc sống thực tế chứ không hư ảo. Câu trả lời nào - trong hình thái tư tưởng lý luận được khái quát lên từ nghiên cứu cũng đều “ủ mầm”, “thai nghén” trong lòng hiện thực khách quan chứ không chủ quan, tư biện. Chỉ với thái độ khách quan khoa học mới giúp cho việc nghiên cứu và người nghiên cứu tìm thấy lời giải minh xác. C. Mác phân biệt rất rõ ràng “tồn tại người” khác căn bản với “tồn tại vật”, “động vật”, dù con người, trước hết cũng là một thực thể sinh học. Động vật bị bản năng (thú tính) chi phối và thống trị. Con người có ý thức dẫn dắt và chế ngự bản năng để có nhân tính. “Tồn tại người” là tiền đề vật chất để con người và chỉ có con người mới có hoạt động, đó là “hoạt động sống - sáng tạo”.
Song thế giới khách quan là rộng lớn, phức tạp và biến đổi không ngừng, bởi vận động là tuyệt đối trong cả không gian lẫn thời gian.
Hê-ra-clit, nhà biện chứng và duy vật thuần phác thời cổ Hy-La đã nói một câu nổi tiếng, thành một danh ngôn: “Người ta không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Nhận thức thế giới đối tượng không chỉ một lần là xong và cũng không chỉ một lần mà nhận thức được tất cả. Tri thức lớn dần lên theo năm tháng. Chân lý cũng sâu sắc hơn cùng thời gian, thậm chí qua những biến cố của lịch sử, của thời cuộc, thời đại, không ít trường hợp con người ta phải nhận thức lại, phải “làm mới” những tri thức, những chân lý đã có. Đòi hỏi ấy của khách quan, của hoàn cảnh mà chủ quan của chủ thể phải đáp ứng. Cho hay, để đổi mới xã hội phải bắt đầu từ đổi mới tư duy. Đó là tất yếu, là đặc điểm mang tính quy luật.
Thế giới là một chỉnh thể. Toàn bộ “cái phổ” rộng lớn của khoa học và từng lĩnh vực, ngành, chuyên ngành, kể cả những chuyên ngành rất hẹp do chuyên môn hóa rất sâu quy định trong đời sống khoa học như là “những lát cắt” riêng biệt, đặc thù đều nỗ lực nhận biết, phản ánh gần đúng cái chỉnh thể ấy. Đòi hỏi ấy là khách quan, từ thế giới khách quan đặt ra.
Lịch sử khoa học đã biết đến sự phân ngành lại còn biết đến hợp ngành nữa. Về mặt phương pháp, sự kết hợp các phương pháp chuyên ngành với liên ngành và đa ngành trở nên cần thiết, nhất là trong nghiên cứu các lĩnh vực xã hội của khoa học xã hội - nhân văn nhằm có một cái nhìn đa chiều, tiếp cận hệ thống chỉnh thể, nhận thức sâu hơn bản chất của cấu trúc đối tượng. Yêu cầu này mang tính khách quan, bởi hoạt động của các chủ thể người trong xã hội hiện đại muốn nâng cao được năng lực sáng tạo, muốn đạt được hiệu quả ngày một tốt hơn tất yếu phải huy động tri thức tổng hợp, liên kết các tri thức trong tính hệ thống chỉnh thể của nó phù hợp với hệ thống - chỉnh thể của bản thân thế giới đối tượng(2). Ph. Ăng-ghen đã từng nhấn mạnh, bản chất của thế giới là biện chứng và chỉ có tư duy biện chứng mới giúp cho người nghiên cứu nhận ra tính biện chứng vốn có của thế giới. Phép siêu hình đã phản ánh sai lạc, phiến diện, cực đoan, do đó xuyên tạc bản chất biện chứng của thế giới. Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” nổi tiếng của ông giúp cho việc định hình nhận thức luận đúng đắn, đó là biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan. Chỉ với thái độ, đồng thời là quan điểm, nguyên tắc và phương pháp khách quan khoa học thì mới có thể dẫn đường cho hoạt động nghiên cứu đúng đắn, tránh phạm vào sai lầm của chủ nghĩa chủ quan trong nghiên cứu, trong hoạt động thực tiễn nói chung.
Tính liên kết tri thức thành một hệ thống - nhìn nhận tri thức hệ thống, tư duy hệ thống ở tầm tri thức của mọi tri thức(3) hết sức cần thiết trong nghiên cứu khoa học, nhất là nghiên cứu về con người và đời sống xã hội với tính phong phú, muôn vẻ của các quan hệ và liên hệ trong lô-gíc và lịch sử của nó. Quan điểm của C. Mác coi con người là “một thực thể song trùng”, “tự nhiên và xã hội”, đòi hỏi phải nghiên cứu, bằng cách sử dụng có hiệu quả các phương pháp chuyên ngành (triết học) kết hợp với liên ngành (sử học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học...) và đa ngành (nhân học, văn hóa học). Ngay cả các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên, từ thống kê toán học, sinh lý học, y học, sinh học,... cũng có thể hữu ích và cần thiết cho nghiên cứu phức hợp con người. Hai lĩnh vực then chốt của đời sống xã hội là kinh tế và chính trị mà nghiên cứu phức hợp con người không thể tách rời, do đó những tri thức và phương pháp kinh tế học, chính trị học cũng được huy động vào nghiên cứu con người, nhất là nghiên cứu các nhân tố động lực thúc đẩy con người hoạt động, các vấn đề phát huy nguồn lực con người như một nguồn vốn xã hội quan trọng nhất, các chương trình và biện pháp quản lý, quản trị nhân lực trong xã hội hiện đại.
Các tác gia kinh điển Mác-xít không chỉ là các triết gia, các nhà tư tưởng kiệt xuất mà họ còn có tầm viễn kiến với “sức bay” của tư duy khoáng đạt, của tư tưởng “vòng quanh chân trời” - nên đã có những dự báo và dự phóng tương lai theo chủ nghĩa lạc quan lịch sử trên một tinh thần khoa học nghiêm túc. Nhiều dự báo tương lai trong chủ nghĩa Mác, cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa thức tỉnh và xây dựng niềm tin khoa học vào xu thế vận động của lịch sử. Điển hình là những dự báo của Mác - Ăng-ghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848): “Thắng lợi của giai cấp vô sản (giai cấp công nhân hiện đại) và thất bại của giai cấp tư sản đều là một tất yếu lịch sử như nhau”. “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Đây là mục tiêu cao quý của chủ nghĩa cộng sản, là mục đích tự thân của lịch sử).
Lý thuyết về mô hình phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường càng xác tín tư tưởng về bảo vệ môi trường sinh thái trong chủ nghĩa Mác là một giá trị đặc sắc và hiện đại. Trong những dự báo của C. Mác, dự báo cho rằng, đến một lúc nào đó, mọi khoa học sẽ gặp nhau trong một khoa học tổng hợp duy nhất - khoa học về con người ngày càng tỏ rõ tính triển vọng hiện thực của nó. Rõ ràng, tính khách quan khoa học, tôn trọng hiện thực khách quan luôn luôn đồng hành với hoạt động nghiên cứu, là nguyên tắc hàng đầu, là yêu cầu sống còn làm cho khoa học không đánh mất bản chất và sứ mệnh cao cả của mình trước đời sống và xã hội. Tôn trọng hiện thực khách quan, nhận thức đúng bản chất sự thật khách quan cũng đồng thời là nhân cách của nhà khoa học, là một trong những thước đo về bản lĩnh trong nghiên cứu khoa học. Với khoa học và nhà khoa học chân chính, kiên trì đấu tranh bảo vệ sự thật, lẽ phải, chân lý, không chỉ là vấn đề của lý trí tỉnh táo, sáng suốt mà còn là một thước đo đạo đức, gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của họ trước xã hội, với danh dự, lương tâm, nhân phẩm có trong thiên chức cao quý của nhà khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội - nhân văn và lý luận.
Lẽ dĩ nhiên, tôn trọng khách quan và nhận thức đúng bản chất sự thật khách quan đòi hỏi nghiên cứu khoa học phải xuất phát từ tiền đề đúng và có phương pháp nghiên cứu đúng. Yêu cầu ấy lại gắn liền với trình độ và năng lực sáng tạo của người nghiên cứu.
Phản ánh đúng đắn, chân thực hiện thực khách quan không có một chút gì chung với “chủ nghĩa tự nhiên”, cơ giới, máy móc và cứng nhắc. Nó biện chứng chứ không siêu hình, sáng tạo chứ không giáo điều, phải thấm nhuần tinh thần khách quan khoa học chứ không chủ quan tư biện. Thống nhất về bản chất với nhận thức luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V. I. Lê-nin đã nhấn mạnh, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường nhận thức chân lý, là biện chứng của nhận thức.
Chân lý là sự phản ánh đúng hiện thực khách quan. Những tri thức khoa học sở dĩ được xem là chân lý bởi nó đúng đắn, chính xác. Song, chân lý có tính tuyệt đối, chỉ với nghĩa là nó đúng đắn. Và chân lý còn có tính tương đối, bởi nó có tính mức độ và tính giới hạn. Thực tiễn biến đổi không ngừng, “động” chứ không “tĩnh”. Tri thức khoa học phải thường xuyên được bổ sung, phát triển để ngày càng phản ánh đầy đủ, chính xác hơn chân lý khách quan, phù hợp hơn với hiện thực khách quan.
Nỗ lực sáng tạo của chủ thể nhận thức chính là dựa trên nguyên tắc và quan điểm khách quan khoa học để phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
C. Mác nhấn mạnh những luận đề quan trọng soi sáng cho nhận thức khoa học trong nghiên cứu:
- Nếu hiện tượng luôn trùng khít với bản chất thì khoa học trở nên thừa. Sở dĩ cần đến khoa học và nghiên cứu khoa học bởi phải trải qua phân tích vô số các hiện tượng mới đi tới bản chất. Lại có những hiện tượng xuyên tạc bản chất, đó là những “giả tượng”. Cho nên người nghiên cứu thấm nhuần quan điểm khách quan phải biết phân biệt hiện tượng với bản chất, phân biệt những hiện tượng phản ánh bản chất với những “giả tượng” xuyên tạc bản chất, để “lọc bỏ” nó, để đạt tới tính đúng, gần đúng và phòng ngừa những sai lầm chủ quan. Gi.V.Ph. Hê-ghen có một nhận xét sâu sắc, “bản chất “ánh lên” qua các hiện tượng”.
- C. Mác còn nói, chỗ nào “tư biện” dừng lại (ý nói những hạn chế, những bất lực) thì đó là chỗ khởi đầu, bắt đầu của nhận thức khoa học thực sự (đó là thực tiễn, vừa là điểm xuất phát và kiểm chứng, vừa là chỗ đến của nghiên cứu khoa học. Thực tiễn là nguồn gốc của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý, nhận thức và cải biến thực tiễn là mục đích của mọi nghiên cứu).
- Nghiên cứu phải triệt để và nhất quán. Triệt để là nắm lấy sự vật tận gốc rễ của nó, mà “gốc rễ đối với con người chính là bản thân con người”, như C. Mác nhấn mạnh.
- Ph. Ăng-ghen cũng xác định, “hãy gọi tên sự vật đúng như bản thân nó...”.
Một trong những vấn đề sâu xa của khách quan khoa học là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, giữa lý luận và thực tiễn.
Tinh thần và phương pháp mà lý luận kinh điển Mác-xít do C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đề ra chính là “khách quan hóa chủ quan” gắn liền với “chủ quan hóa khách quan”. Đây là hai mặt của một vấn đề, làm cho nhận thức của con người ngày càng đúng đắn, phù hợp với khách quan và cũng không ngừng mở rộng phạm vi, đối tượng của thế giới khách quan vào trong nhận thức và hoạt động của chủ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách “nhà biện chứng thực hành xuất sắc” của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, trên tinh thần khách quan khoa học, Người nhấn mạnh: “Thực hành sinh ra hiểu biết/ Hiểu biết tiến lên lý luận/ Lý luận lãnh đạo thực hành”(4).
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn của Người là một minh chứng sinh động cho sự thống nhất hữu cơ giữa “lý luận hóa thực tiễn” với “thực tiễn hóa (hay “kinh nghiệm hóa”) lý luận”. Tôn trọng khách quan và quy luật khách quan đồng thời phải đặc biệt chú trọng phát huy tính năng động chủ quan, vai trò độc lập tự chủ sáng tạo của nhân tố chủ quan. Đề cao vai trò của nhân tố chủ quan nhưng không rơi vào chủ quan duy ý chí - đó là bản lĩnh sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

------------------------------
(1) Theo C. Mác, con vật chỉ tồn tại theo bản năng, bị bản năng (thú tính) thống trị. Chỉ con người mới có hoạt động, dựa trên những tiền đề vật chất để tồn tại và trên cơ sở đó mới có hoạt động. Đó là hoạt động sống - sáng tạo, biểu lộ và làm bộc lộ những sức mạnh bản chất người của con người. Đó là nhân tính (Xem các tác phẩm: “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” của C. Mác và “Hệ tư tưởng Đức” của C. Mác và Ph. Ăng-ghen)
(2) Ét-ga Mo-rin: “Bảy tri thức tất yếu của nền giáo dục tương lai”, Nguyễn Hồi Thủ dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008
(3) Ét-ga Mo-rin: “Tri thức về tri thức (Nhân học về tri thức)”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 120

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...