ĐẤU TRANH NHỮNG HÀNH VI LỢI DỤNG TỰ DO NGÔN
LUẬN BÁO CHÍ ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA
Đại
Nguyễn
Ở Việt Nam, “quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”[1] đã
được quy định trong Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) và
được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật, nghị định, như: Luật Báo chí (2016), Luật
tiếp cận thông tin (2016), Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-07-2013 của Chính
phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng,…và
thực thi nghiêm túc, tạo không khí dân chủ trong xã hội. Điều đó khẳng định và
thể chế hóa quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm
thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền sáng
tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên
báo chí; tiếp cận thông tin báo chí...Quyền tiếp cận thông tin của công dân
được quy định rộng rãi hơn; đó không chỉ là một quyền thụ động do cơ quan nhà
nước công khai thông tin theo nhận thức của mình, mà còn là quyền chủ động,
được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng. Trên không gian mạng, Nhà
nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông
tin. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các
dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định
về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội
dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội…
Tuy nhiên, cũng như các
quyền khác của con người, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin phải do pháp luật quy định và trong khuôn khổ pháp luật; quy
định rõ mối quan hệ giữa quyền
với nghĩa vụ công dân; “không
được xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác”. Vì thế, việc hạn chế các quyền này “theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[2] là
một tất yếu. Những hành vi đăng, phát thông tin xuyên tạc, phỉ báng, phủ
nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch
sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin
sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh
dự, nhân phẩm của cá nhân,...đều bị pháp luật xử lý.
Hiện nay, quyền tự do ngôn
luận, báo chí ở Việt Nam không những được bảo đảm tốt mà còn là nhân tố tích
cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Nhiều vụ
tham nhũng lớn được báo chí phanh phui, trước khi cơ quan chức năng phát hiện,
như: vụ án Trịnh Xuân Thanh bắt nguồn từ bài báo “Xe tư gắn biển xanh” là một
minh chứng. Những năm gần đây, các tổ chức đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc tham gia
tích cực việc giám sát, phản biện đối với chính sách của Nhà nước. “Quyền phát
biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới”, tham gia phản biện, giám sát
của cá nhân, tổ chức được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng, khuyến khích. Tuy nhiên,
vấn đề là phản biện ở đâu và động cơ phản biện như thế nào để đảm bảo tính
khách quan; tránh hiện tượng “bôi đen” xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng gây tổn hại
cho người dân, xã hội và đất nước.
Trong thời gian gần đây,
xuất hiện cái gọi là “đấu tranh bất bạo động”, “hội chứng đám đông” của một số
“người bất đồng chính kiến”... được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây
“tăng âm”, phát tán với các bình luận bao che, cổ súy cho các hành vi phạm tội
của họ với luận điệu lặp đi, lặp lại rằng: Việt Nam đang “bóp nghẹt quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, quyền thông tin”; “vi phạm quyền con người, quyền
công dân”...Điều này hoàn toàn phi lý và ngang ngược. Vì, pháp luật Việt Nam
không có quy định về cái mà báo chí phương Tây gọi là những “người bất đồng
chính kiến”. Do đó, cũng không có quy định pháp luật nào về tội danh đối với
“người bất đồng chính kiến”; không có quy định nào về những ý kiến “bất đồng”
hay ý kiến khác với Nhà nước là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
một số người lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự gắn cho mình cái mác “người bất
đồng chính kiến” để viết, phát tán những nội dung xuyên tạc sự thật, chống phá
chế độ xã hội chủ nghĩa trên mạng internet…Điển hình là: Vũ Quang Thuận, Nguyễn
Văn Điển, Trần Hoàng Phúc, Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…và họ đã nhận
những bản án thích đáng về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (1999). Đó là minh chứng cho cái
giá phải trả của việc lợi dụng tự do ngôn luận, báo chí để thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật Việt Nam. Trước Tòa, họ biện luận rằng: họ chỉ là những “người
bất đồng chính kiến”, đấu tranh hợp pháp, bằng “bất bạo động” và điều này hoàn
toàn không vi phạm pháp luật. Thực tế chứng minh điều ngược lại. Những người
này đã đăng tải nhiều video/clip trên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin
bịa đặt, xuyên tạc sự thật; lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi
ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân trong xã hội. Nói
cách khác, những “người bất đồng chính kiến” bị pháp luật xử lý là vì hành vi
vi phạm pháp luật của chính họ.
Ở nước ta, quyền tự do ngôn
luận, nhất là quyền sử dụng mạng internet đã và đang bị các thế lực thù địch
trong và ngoài nước lợi dụng triệt để để vu cáo, bội nhọ vai trò lãnh đạo cầm
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá chế độ xã hội và Nhà nước ta. Những
luận điệu cho rằng: “Chế độ Hà Nội là độc tài toàn trị”, Đảng Cộng sản Việt Nam
“chiếm quyền” của dân, “đứng trên pháp luật”,…là một sự vu khống trắng trợn,
hoàn toàn sai trái cả về lý luận và thực tiễn. Cũng như pháp luật của tất cả
các quốc gia trên thế giới và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền tự do
ngôn luận nói riêng luôn luôn có mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội. Công ước quốc
tế về các quyền dân sự chính trị ghi rõ: mọi dân tộc đều có quyền tự quyết;
xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình
và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Quy định này đã mặc nhiên thừa
nhận các dân tộc có quyền tự quyết lựa chọn chế độ chính trị; quyền và nghĩa vụ
công dân đều do pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Hơn nữa, pháp luật luôn
mang tính chính trị, lịch sử và đặc thù về văn hóa. Ở nước ta, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến định tại Điều 4, Hiến pháp (2013) và được
Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ta, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất ghi nhận. Đảng ta không chỉ là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội mà còn có chức năng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt
động trong khuôn khổ của pháp luật. Về thể chế chính trị của nước ta, Điều 2,
Hiến pháp (2013), quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”6. Những thông tin, luận
điệu cổ súy “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, lấy mô hình “tam quyền phận
lập” phương Tây làm đối chứng để bác bỏ thể chế của Nhà nước ta không chỉ là
một thủ đoạn bôi nhọ chế độ ta, mà còn ấu trĩ trong nhận thức về sự đa dạng các
mô hình xã hội trên thế giới hiện nay.