Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

NHẬN DIỆN CÁC LOẠI QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

 


Tóm tắt: Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch thì việc nhận diện các loại quan điểm sai trái, thù địch đặc biệt quan trọng. Bài viết chỉ rõ 6 loại quan điểm sai trái, thù địch hiện nay: 1) Loại tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta với biểu hiện rất đa dạng; 2) Loại chống phá sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; 3) Loại xuyên tạc lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng; 4) Loại bôi nhọ cá nhân các lãnh tụ, lãnh đạo của Đảng; 5) Loại lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng; 6) Loại ca ngợi chủ nghĩa tư bản với những giá trị khác nhau của nó

Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo càng đi vào chiều sâu càng đạt được những thành tựu rất đỗi tự hào thì càng nảy sinh những vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Đó cũng là lẽ thường tình, bởi thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, luôn làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi con người phải giải quyết. Chính thực tiễn đổi mới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề mới trên tất cả các lĩnh vực đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải kịp thời giải quyết. Hơn nữa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tác động của biến đổi khí hậu; thực tiễn chính trị thế giới thay đổi nhanh, khó lường; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, v.v. đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Trong tình hình ấy, lực lượng thù địch lợi dụng những khó khăn, yếu kém của ta tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước ta. Trong bối cảnh mới, các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay rất đa dạng, phong phú, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, vừa trực diện, vừa ẩn mình chống phá Đảng, Nhà nước ta, nhưng có thể đưa về 6 loại chủ yếu nổi lên như sau:

1. Những quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta với biểu hiện rất đa dạng

Quan điểm cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn nhưng chỉ đúng đắn trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước), nền sản xuất dựa trên máy móc cơ khí. Còn hiện nay, nhân loại đã chuyển mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, dữ liệu lớn (Big data). Hay nói như một số nhà lý luận phương Tây là thời đại “hậu công nghiệp”, kinh tế - xã hội có rất nhiều đổi thay, vì vậy hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp nữa. Trong thời đại ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại đã sử dụng nhiều robot - người máy, tự động hóa, người công nhân được tuyển dụng và sử dụng rất ít, cho nên học thuyết giá trị thặng dư của Mác, học thuyết về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân... không còn phù hợp nữa. Trong điều kiện hiện đại thì nhà tư bản không còn bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân lao động nữa. Giai cấp công nhân không còn vai trò trong nền sản xuất hiện đại mà chính tầng lớp trí thức mới là người quyết định vận mệnh tương lai của nhân loại. Những quan điểm cho rằng thế giới đã có sự thay đổi “quyền lực”. Chẳng hạn, Alvin Toffler cho rằng “quyền lực” trong quá trình vận động và phát triển của chính bản thân nó đã trải qua các hình thức phát triển: Đi từ “bạo lực quyền, đến của cải quyền, rồi đến tri thức quyền” hay có người gọi là “trí quyền”. Nghĩa là thuở hoang sơ, phải dùng sức mạnh bạo lực mới có quyền lực như thông qua xâm lược, ăn cướp,...; sau đó kẻ nào có tiền là có quyền lực và đến hiện nay, ai có trí tuệ, có tri thức là có quyền lực (trí quyền). Nếu thoáng qua chúng ta thấy có vẻ hợp lý, bởi lẽ trong một xã hội chưa hoàn thiện, còn dựa trên sở hữu tư nhân thì kẻ nào có tiền thì kẻ đó có quyền lực. Nhưng thực chất ở đây, Alvin Toffler muốn khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay đổi, không còn xâm lược hay bạo lực nữa, có tiền cũng không có quyền lực nữa, giai cấp công nhân không còn vai trò sứ mệnh lịch sử giải phóng lao động nữa mà tầng lớp trí thức mới đóng vai trò này trong xã hội hiện đại. Nếu tách quyền lực ra khỏi sản xuất vật chất, ra khỏi kinh tế thì quyền lực không còn cơ sở để tồn tại nữa. Xét về bản chất, quyền lực vẫn do kinh tế quyết định. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen khi phê phán Đuyrinh vì không hiểu bạo lực đã viết “vậy một lần nữa, bạo lực lại do tình hình kinh tế quyết định, tình hình kinh tế cung cấp cho bạo lực những phương tiện để tạo ra và duy trì những công cụ bạo lực”1. Đồng thời, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, những điều kiện kinh tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái đã giúp cho “bạo lực” chiến thắng, nếu không có những điều kiện và tài nguyên đó thì bạo lực không còn là bạo lực nữa”2. Điều này hoàn toàn phù hợp, tương thích với quyền lực. Do vậy, nếu có tri thức nhưng không có điều kiện kinh tế, điều kiện vật chất để chuyển hóa những tri thức ấy thành của cải vật chất thì tri thức ấy cũng không có vai trò gì. Cho nên cách tiếp cận của Alvin Toffler chỉ là một cách xa rời khôn khéo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà thôi.

Quan điểm khác cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập, được V.I.Lênin phát triển là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, văn hóa của châu Âu là chủ yếu. Mà đó lại là châu Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Do vậy, đối với châu Âu hiện nay thì nó không còn phù hợp. Đối với châu Á thì càng không phù hợp. Bởi lẽ, châu Á có sự phát triển kinh tế khác, có trình độ văn hóa, cùng phong tục, tập quán khác châu Âu. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin không phù hợp với Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Triều Tiên,... Tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cơ sở, do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không thể và không nên vận dụng vào Việt Nam. Vì vậy, không nên lấy học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho dân tộc Việt Nam. Đúng là các châu lục khác nhau có những đặc thù khác nhau trong quá trình vận động, phát triển. Nhưng như thế không có nghĩa mỗi châu lục phải có nền toán học, vật lý, hóa học, hay khoa học nói chung riêng biệt. Tại sao các dân tộc khác nhau ở những châu lục khác nhau họ có thể hiểu được các tác phẩm văn học, nghệ thuật, những tác phẩm điện ảnh v.v. của nhau được? Họ hiểu được những điều này là bởi lẽ, mặc dù giữa các dân tộc có sự khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý nhưng họ đều dựa trên những tri thức khách quan, những quy luật khách quan được phản ánh trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh đó. Chính những tri thức khách quan, chính cái quy luật khách quan hay nói khác đi chính cái biện chứng khách quan đã quy định cái biện chứng chủ quan trong đầu óc họ. Các tri thức khách quan, các quy luật khách quan không phụ thuộc vào ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán, chỉ phụ thuộc vào nội dung khách quan mà nó phản ánh. Các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán... chỉ làm cho các tri thức khách quan, các quy luật khách quan được phát hiện, trình bày mang thêm sắc thái chủ quan khác nhau mà thôi chứ nội dung khách quan mà chúng phản ánh vẫn là một, là không đổi. Đúng như V.I.Lênin đã viết “Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”3. Chủ nghĩa Mác - Lênin mặc dù ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX, nhưng luôn được bổ sung, phát triển và dù được trình bày bằng ngôn ngữ nào thì nó vẫn phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của lịch sử loài người, trong đó có quy luật: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”4. Chính vì vậy, giai cấp tư sản không thích thú gì với học thuyết khoa học chỉ ra rằng chính họ - chính giai cấp tư sản - sẽ bị sụp đổ cả. Vì vậy, việc họ quyết liệt chống đối, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và những chủ thuyết dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin là điều không khó hiểu.

Có quan điểm đồng nhất sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội nói riêng. Từ đây, họ ca ngợi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ. Cho rằng chính chủ nghĩa xã hội dân chủ là mô hình phát triển phù hợp với thế giới đương đại, vừa tích hợp được những mặt mạnh của chủ nghĩa tư bản với mặt mạnh của chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, có một số ý kiến cho rằng những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, mặc dù có những bất cập nhất định nhưng tốc độ phát triển kinh tế nhanh, những vấn đề xã hội, môi trường thường được giải quyết tốt hơn các nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, các nước đi theo chủ nghĩa xã hội thường xảy ra tình trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán. Chính tình trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán đã cản trở xã hội phát triển lành mạnh. Họ thường đồng nhất những yếu kém, hạn chế của chủ nghĩa xã hội hiện thực, hay những sai lầm, hạn chế của một số đảng cộng sản để minh chứng cho sự không đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin.

Những loại ý kiến này đều sai lầm ở một điểm là đồng nhất một mô hình chủ nghĩa xã hội sai lầm với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội nói chung. Họ cố tình làm ngơ trước những thành tựu của chủ nghĩa xã hội cải cách, mở cửa, đổi mới ở Cộng hòa Cuba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên. Họ đồng nhất hiện trạng tham nhũng, quan liêu, độc đoán với chủ nghĩa xã hội. Chúng ta không phủ định những hạn chế biểu hiện ở tình hình tham nhũng, quan liêu, độc đoán ở một số nước xã hội chủ nghĩa, nhưng hiện trạng này cũng tồn tại ở các nước tư bản phát triển, ở các nước không đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dường như hiện trạng này tồn tại khá phổ biến trên thế giới, không loại trừ quốc gia nào. Nó là căn bệnh của bộ máy quan liêu mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang quyết tâm làm trong sạch.

2. Quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

Biểu hiện của loại này cũng đa dạng như cho rằng sự ra đời của Đảng là sai lầm; đòi đa nguyên chính trị; cho kinh tế thị trường không thể đi cùng định hướng xã hội chủ nghĩa; lôi kéo theo Mỹ “bài” Trung Quốc; cho rằng sự lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là ngược, là trái với quy luật tự nhiên; không nên đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v.. Những người có quan điểm này thường là những người có lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình liên quan đến chế độ cũ, bởi lẽ sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ làm cho bản thân họ, gia đình họ mất đi những lợi ích to lớn. Đứng trước lợi ích gia đình và lợi ích Tổ quốc họ đã sẵn sàng hy sinh lợi ích Tổ quốc, dân tộc. Những người có quan điểm này là những người đã từng phục vụ cho lợi ích của thực dân, đế quốc ngoại bang. Chính họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc từ lâu rồi. Bởi lẽ, một công dân bình thường của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng sẽ luôn muốn bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không muốn làm nô lệ cho ngoại bang, cho dân tộc khác. Nhưng những người này lại sẵn sàng làm tay sai, nô lệ cho ngoại bang. Vì vậy, chính họ đã xúc phạm đến sự hy sinh của hàng nghìn, hàng vạn các anh hùng liệt sỹ, thương binh - những người đã hy sinh tính mạng, một phần thân thể của mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm nhất định, bởi Đảng ta không phải là thánh, nhưng Đảng luôn nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa sai lầm và kiên quyết sửa chữa. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, vị thế thực sự của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế, sự nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân... đã nói lên tất cả.

3. Quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng

Loại quan điểm này thường xuyên xuyên tạc lịch sử cách mạng, ví như cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và Nhân dân ta là sai lầm, gây đổ máu; đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì đã không phải thực hiện hai cuộc chiến tranh; phủ nhận những thành quả cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đã giành được. Hiện nay, những kẻ chống lại lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng Việt Nam bất chấp mọi hành động đê tiện, hèn mạt như xuyên tạc, vu khống, lừa dối, chửi bới, tìm mọi cách và bằng mọi thủ đoạn nhằm đổi trắng thay đen, “thay đổi lịch sử dân tộc”, bôi nhọ, xuyên tạc, gây nghi ngờ không rõ về lịch sử của Đảng, của dân tộc, lịch sử cách mạng của chúng ta. Một số ý kiến chống đối khó nhận ra, họ bằng cách đánh tráo vấn đề, đánh tráo tên gọi để cố ý đồng nhất chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc với chiến tranh ăn cướp, xâm lược phi nghĩa của thực dân, đế quốc. Nhân danh nhân đạo, nhân ái để làm lu mờ ranh giới lịch sử thân nhân của những người đã từng tích cực tham gia phục vụ chế độ đế quốc, thực dân cũ. Chúng ta nhân đạo, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai nhưng chúng ta không quên quá khứ hy sinh, mất mát của hàng triệu người vì nền độc lập của dân tộc. Chúng ta phân biệt rõ ranh giới lịch sử thân nhân các cá nhân không phải để trả thù mà để rút ra bài học kinh nghiệm, để biết người, biết ta, để biết rõ bạn - thù.

4. Quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào cá nhân các đồng chí lãnh đạo, các lãnh tụ của Đảng

Loại quan điểm này đã xuyên tạc, bôi đen lý lịch, đời tư của một số đồng chí lão thành cách mạng; đổi trắng thay đen, tung hỏa mù gây nghi ngờ trong dư luận về phẩm chất đạo đức, năng lực và lý lịch gia đình; gây chia rẽ nội bộ trong Đảng. Đặc biệt, loại quan điểm này hay tung hỏa mù làm cho thế hệ trẻ ít hiểu biết và đông đảo quần chúng nhân dân không có thông tin, hiền lành, chất phác dễ tin và dễ bị lừa bởi thông tin mập mờ không rõ. Mục đích của loại quan điểm này là gây nghi ngờ trong Nhân dân về uy tín của cá nhân các đồng chí lãnh đạo. Từ hạ thấp uy tín cá nhân một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để hạ uy tín của Đảng. Loại quan điểm này thường lợi dụng công nghệ thông tin, các trang mạng xã hội tung tin giả, làm nhiễu thông tin. Do vậy, chúng ta phải rất thận trọng khi tham gia các trang mạng xã hội. Không vội hùa theo những thông tin trên mạng xã hội khi chưa được kiểm chứng, xác thực.

5. Lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng

Loại quan điểm này luôn luôn lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng ta; lợi dụng những khó khăn, hạn chế của chúng ta, hay lợi dụng tình trạng có một số đảng viên có chức quyền tham nhũng, quan liêu để qua đó nói xấu, xuyên tạc bản chất của Đảng, cho Đảng ta là quan liêu, tham nhũng, xa dân, không vì lợi ích của Nhân dân; gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng sự sụp đổ, khó khăn của chủ nghĩa xã hội để phủ định con đường lên chủ nghĩa xã hội. Những kẻ xấu thậm chí còn dùng thuật ngữ Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng “lời lẽ” của Đảng, Nhà nước ta để chống lại chính hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối, chính sách của chúng ta thông qua việc chống tiêu cực. Vì khi làm như vậy chúng mới “lừa” được những quần chúng nhân dân chất phác, ngây thơ, những người ít am hiểu lý luận và thực tiễn. Cũng có những ý kiến thuộc dạng này khi lợi dụng việc phát biểu của cá nhân đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý nào đó chưa chặt chẽ chúng cắt, ghép, trích dẫn không đầy đủ tung lên mạng xã hội với dụng ý hạ bệ uy tín cá nhân các đồng chí lãnh đạo. Qua đó muốn hạ uy tín của Đảng ta.

6. Ca ngợi chủ nghĩa tư bản với những giá trị khác nhau của nó

Loại quan điểm này lấy chủ nghĩa tư bản làm mục đích tối thượng, ca ngợi các nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; ca ngợi tự do kiểu phương Tây; ca ngợi dân chủ phương Tây; ca ngợi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ; ca ngợi những giá trị của phương Tây; ca ngợi văn hóa thực dụng phương Tây; tuyên truyền cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ngoại lai vào nước ta; phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực; thông tin sai lệch, không đúng về thực tế Cuba, Vênêxuêla, các nước xã hội chủ nghĩa khác, phủ định những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực, ca ngợi con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc phi xã hội chủ nghĩa... Qua đó, gián tiếp phủ định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ những nhận diện trên, có thể thấy, các quan điểm sai trái, thù địch rất tinh vi, đa dạng, phong phú. Các loại ý kiến này có liên hệ với nhau và cùng mục tiêu chung là chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Muốn đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch này một cách hiệu quả cần kiên trì, bình tĩnh và phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp. Với từng loại quan điểm sai trái, thù địch chúng ta phải có đối sách riêng, phù hợp. Trong cuộc đấu tranh này, dù thuộc loại quan điểm sai trái, thù địch nào trong 6 nhóm biểu hiện trên cũng cần quán triệt tốt một số nguyên tắc cơ bản:

Một là, đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước Việt Nam để đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch.

Hai là, phân biệt rõ quan điểm thù địch, quan điểm sai trái và xem xét xem chúng thuộc loại nào, trên cơ sở đó có các phương pháp đấu tranh, phê phán cụ thể, phù hợp, hiệu quả. Đối với các quan điểm thù địch, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống lại, bác bỏ toàn diện, triệt để trên nhiều phương diện lý luận, pháp lý, lịch sử, khoa học, thực tiễn. Phân biệt những quan điểm sai trái do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ với những quan điểm sai trái do cố ý, cố tình để có phương thức đấu tranh phù hợp.

Ba là, vận dụng uyển chuyển nguyên tắc khách quan trong đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch.

Bốn là, quán triệt nguyên tắc dân chủ trong đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch.

Các nguyên tắc cơ bản trên phải được quán triệt, thực hiện một cách triệt để, đồng bộ. Cùng với quán triệt tốt các nguyên tắc trên thì biện pháp quan trọng nhất là phải phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; ổn định chính trị, xã hội, an ninh, an toàn, trật tự. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu trong cuộc sống và trong công việc. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh. Có như vậy thì việc nhận diện và đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch mới hiệu quả, thiết thực.

--------------------------------------

Bài đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị số 10 (59) - 2019

1, 2C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 235, 242.

3V.I.Lênin, Toàn tập, t.29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 223-224.

4C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, t.4, tr. 613.

https://hcma.vn/daotao/Pages/boi-duong.aspx?ItemId=29955&CateID=0

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG NHỮNG THÔNG TIN SAI TRÁI TRÊN MẠNG INTERNET TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 


Khánh Anh

Lợi dụng mạng Internet, các thế lực thù địch đưa tràn lan lên mạng với vô số loại thông tin bịa đặt. “Lập các trang web, trang blog, kích động người dân, xuyên tạc nhằm chia rẽ nội bộ Việt Nam, giả là người trong nước để lên tiếng chỉ trích tất cả”. Trong lúc đó chúng ta thiếu chủ động, không kịp thời cung cấp thông tin đúng đắn, chính xác cho đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân, ,… dẫn tới băn khoăn, thắc mắc của cán bộ, đảng viên và người dân. Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, những phần tử xấu, cơ hội, phản động "mượn gió bẻ măng" lợi dụng sự phát triển của công nghệ, mạng Internet, lan truyền thông tin xuyên tạc, nói xấu cán bộ, đảng viên như: thêu dệt về bí mật đời tư, bịa đặt về tình hình sức khỏe, đạo đức, lối sống của cán bộ; bóp méo các thông tin, vu khống các bước của quy trình nhân sự là “đấu đá phe phái”, “lợi ích nhóm”… hòng gây hoang mang, gieo rắc hoài nghi trong nhân dân, chia rẽ nội bộ, phá hoại công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác nhân sự nói riêng. Điều này đã làm gia tăng những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

          Những vấn đề trên đây không phải cho đến nay các thế lực thù địch mới tiến hành mà chúng đeo đuổi hàng chục năm nay nhưng quyết liệt hơn trong thời điểm chúng ta đang tiến hành chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Mưu toan bao trùm của các tư tưởng thù địch, sai trái là nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi mục tiêu và đường lối phát triển đất nước và cuối cùng là “phủ định” định hướng XHCN ở nước ta. Do đó, cần tỉnh táo nhận diện đúng, cảnh giác và vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch, không để bị động, bất ngờ hay hoảng hốt trước sự tấn công trên mặt trận chính trị, tư tưởng; bình tĩnh xem xét, phân tích và nhận rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm mà các thế lực thù địch đang ra sức chống phá. Cần phân biệt các quan điểm sai trái với các thư, ý kiến phát biểu, kiến nghị của một số cử tri có ý thức tổ chức, tâm huyết với đất nước….Chủ động có giải pháp đúng đắn để ngăn chặn phòng, chống và vô hiệu hoá mọi thủ đoạn tung tin, truyền bá những quan điểm thù địch, sai trái trên mạng Internet nhằm tạo ra khả năng “miễn dịch” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ - đây là vấn đề cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng, của chế độ ta trong tình hình hiện nay.

Để phòng chống có hiệu quả thực trạng nêu trên, theo PGS, TS Đào Duy Quát kiến nghị nên có một “tư lệnh” trong cuộc chiến thông tin này. Tuy nhiên, báo chí tuyệt đối không được “chạy theo thông tin xuyên tạc, bịa đặt trên mạng” mà phải vào cuộc với sự tỉnh táo, trách nhiệm. Các cơ quan Nhà nước phải làm tốt công việc là vai trò người phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, chính xác, nhanh nhạy và liên tục. Đồng thời: Cần phải có một cơ chế cung cấp thông tin thật nhanh và chính xác cho báo chí trong nước. Các phương tiện truyền thông trong nước phải đưa thông tin thật nhanh nhạy, hấp dẫn, bổ ích để đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Khi công chúng được đáp ứng đủ nhu cầu thông tin thì họ không cần phải tìm kiếm ở bên ngoài.

Đối với đảng viên, cần gương mẫu chấp hành 19 điều đảng viên không được làm, trong đó chú trọng các điều liên quan đến phát ngôn. Đây cũng là vấn đề thời gian qua, còn một số cán bộ, đảng viên vi phạm. Trong đó, đáng chú ý có cả phát biểu của cán bộ cấp cao về kinh tế thị trường, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, gây phân tâm trong cán bộ, đảng viên, bị nhiều đài, báo nước ngoài lợi dụng, xuyên tạc. Không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ; thậm chí có người còn phụ họa theo những quan điểm sai trái. Sinh thời, V.I.Lênin từng căn dặn: Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa.

Do đó, để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội XIII, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức trách nhiệm về cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Trong đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cần bám sát các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương trong việc chuẩn bị đại hội Đảng các cấp, đặc biệt là Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị “về Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Quy định 205-QĐ/TW ngày 23/09/2019 về “kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”. Đồng thời, luôn tích cực, chủ động và coi trọng nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm trạng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước những âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của các đối tượng chống phá. Đặc biệt, các tổ chức Đảng cần kịp thời xử lý các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ; tập trung giải quyết tốt những vấn đề bất cập, bức xúc xã hội, không để chúng lợi dụng kích động khiếu kiện, biểu tình gây mất ổn định chính trị, chống phá Đảng.

Hai là, cần chủ động bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên Internet, mạng xã hội. Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp các cán bộ có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.

Ba là, thường xuyên đổi mới phương thức, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, chủ động động đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, của các thế lực thù địch. Đây là giải pháp cơ bản phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu thù địch, sai trái của các đối tượng, phần tử xấu trên Internet, mạng xã hội. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”, phản động được đối tượng sử dụng. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, cả trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để viết bài đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

Bốn là, chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ thông tin để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Thực hiện tốt những nội dung, giải pháp cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hiệu quả, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, nhất là khi chúng ta tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.

 

 

KHÔNG THỀ ĐỔ LỖI CHO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN ĐÃ LỖI THỜI

 


Khánh Anh

Kể từ khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, các thế lực thù địch chưa bao giờ “hạ nhiệt” xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lênin mà càng ngày càng bành trướng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất và càng thâm độc về mức độ. Tuy nhiên, với thành tựu đạt được của đất nước ta qua 35 đổi mới thì mọi quy kết, đổ cho chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, đó là điều không thể.

 Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra quy luật khách quan của quá trình ra đời, phát triển của CNXH, chủ nghĩa cộng sản; đồng thời cũng chỉ ra điều kiện chủ quan quyết định của quá trình đó là: lý luận tiên phong và Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông đã chỉ rõ: những người cộng sản tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất..., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là, họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.

Trong tác phẩm Làm gì?, V.I.Lênin đã khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”[1]; “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong”[2].

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ, học thuyết Mác - Lênin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Với truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, nhiều nhà yêu nước đã phất cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân xâm lược hơn nửa thế kỷ với ý chí “khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam chống người Tây” nhưng đều đã không thành công. Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cũng lần lượt thất bại. Đất nước như đêm tối không có đường ra...

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành, với tên Văn Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau gần 10 năm bôn ba khắp các châu lục vừa lao động bảo đảm cho cuộc sống, vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức. Tiếp đó, Người phải qua 10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930). Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý luận, trang đầu cuốn Đường Cách mệnh xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi tiếng của V.I.Lênin trong tác phẩm Làm gì: Cách mệnh, trước hết cần cái gì?

Và Người trả lời rõ ràng: “Trước hết cần có Đảng cách mệnh... Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[3].

Đối với V.I. Lênin, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích về chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư bản chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã chứng minh cho điều đó. Đồng thời, V.I.Lênin đã đưa ra luận thuyết khoa học và cách mạng về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và trên quy mô cả nước (từ năm 1975). Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ, học thuyết của V.I.Lênin về cách mạng XHCN trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện nay...

Đặc biệt, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới mà Việt Nam đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo, phát triển những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Những thành tựu Việt Nam đạt được đó cho chúng ta cơ sở để khẳng định:

Thứ nhất, học thuyết Mác - Lênin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học thuyết khoa học và cách mạng nhất cho đến ngày nay. Học thuyết Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài người. Học thuyết Mác - Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin mặc dù rất khoa học và đúng đắn cũng không thể giải đáp đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia... Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ cách mạng để vận dụng một cách sáng tạo và phát triển không ngừng. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng sáng tạo và sự đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - Lênin của Đảng ta, của nhân dân ta.

Thứ ba, vận dụng lý luận vào thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với xung lực là kinh tế tri thức, kinh tế số đang tiến triển đột phá và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta những trọng trách mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn. Hàng loạt vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra quan hệ tới tương lai của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta phải tìm câu trả lời để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo con đường XHCN.

Vì vậy, trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta càng phải trở về với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là phải coi đó không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về phương diện chính trị - xã hội, mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như chính bản thân học thuyết Mác - Lênin chứa đựng và thể hiện.

Cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng là minh chứng hùng hồn và đầy thuyết phục cho điều đó, nhất là thực tiễn 35 đổi mới vừa qua. Vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nghiên cứu lý luận chính trị trên nền tảng học thuyết Mác - Lênin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay và của dân tộc, của đất nước trong tương lai. Đó là bài học thành hay bại của chúng ta trong thực tiễn xây dựng CNXH mấy thập niên vừa qua, cũng là bài học thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi chệch hướng hay lạc hướng về mặt kiến tạo đường lối chính trị, rộng hơn là lý luận chính trị. Thực tiễn xác nhận, chỉ có trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên.



[1] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr. 30.

[2] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr. 32.

 

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 289.

PHẢI CHĂNG Ở VIỆT NAM DÂN CHỦ BỊ “HÒA TAN” TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY?

 


Khánh Anh

Nhân loại nói chung, Việt Nam nói riêng đang trong thời đại toàn cầu hóa với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Khác với quá trình toàn cầu hóa trước đây, toàn cầu hóa ngày nay dựa trên cuộc cách mạng khoa học hiện đại, công nghệ thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy, cùng với các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, quốc phòng, ngoại giao,.. đang được phát huy mạnh mẽ, nền dân chủ ở Việt Nam không thể bị “hòa tan” như một số người vẫn rêu rao, mà nó đang trong quá trình hội nhập luôn được phát huy và mở rộng

Nếu như trước đây người ta chỉ có thể nhận được thông tin từ hệ thống tuyến tính thì ngày nay, với sự phát triển của internet, mạng xã hội, con người có thể tiếp cận với các nguồn thông tin đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Qua các công cụ lưu trữ, tìm kiếm dữ liệu, như: Google, Yahoo, facebook, YouTube… con người có thể tiếp cận thông tin hoàn toàn chủ động, có lựa chọn… Điều này làm cho thế giới ngày càng “thu nhỏ” và trở thành “thế giới phẳng” (theo Thomas L.Friedman). Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các chế độ xã hội, nhà nước dân tộc vẫn không mất đi mà còn được khẳng định, duy trì sự tồn tại của mình một cách vững chắc hơn.

Ngày nay, các giá trị dân chủ và quyền con người được chia sẻ giữa các quốc gia, dân tộc thông qua cơ chế gia nhập, ký kết các công ước của Liên hợp quốc. Thế nhưng một số kẻ kỳ thị với chế độ xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo vẫn cố tình lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bôi nhọ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước ráo riết tuyên truyền rằng Việt Nam vi phạm dân chủ và quyền con người . “Chứng cứ” mà họ đưa ra thường là “pháp luật Việt Nam lạc hậu”, nhiều điều luật của Việt Nam vi phạm chuẩn mực quyền con người. Chẳng hạn, Điều 258 (Bộ Luật Hình sự 2015 về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”[1]. Có kẻ còn nói: “Pháp luật Việt Nam vi phạm chuẩn mực pháp luật quốc tế về quyền con người”, “lạc hậu” so với pháp luật các nước...

Vậy chế độ dân chủ và quyền con người là gì? Trên thế giới có mô hình “chuẩn” về dân chủ và quyền con người không? Và vì sao có thể khẳng định nền dân chủ ở Việt Nam đang được phát huy và mở rộng, và ở Việt Nam không thể có một nền dân chủ “hòa tan” như một số người vẫn rêu rao?

Chế độ dân chủ là gì?

Chế độ dân chủ là một giá trị xã hội được hình thành từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước. Chế độ dân chủ sở dĩ được xem là một giá trị xã hội vì ở đó nhà nước ra đời với sự thừa nhận của một bộ phận dân cư dưới một hình thức nào đó. Mở đầu của chế độ dân chủ là chế độ nô lệ. Trong chế độ nô lệ chỉ có người dân tự do và giới chủ nô mới có quyền tham gia vào việc định ra bộ máy cầm quyền, còn người nô lệ chỉ như các “công cụ lao động biết nói”.

Trải qua nhiều hình thái kinh tế, xã hội, chế độ dân chủ đã có những bước phát triển nhất định, quyền của người dân được mở rộng dần. Các cuộc cách mạng dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng đối với tất cả mọi người. Nền dân chủ ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa là một bước tiến lớn của lịch sử nhân loại. Hiến pháp của các nhà nước tư bản chủ nghĩa tuyên bố tôn trọng, bảo đảm các quyền về tinh thần và vật chất của tất cả mọi người, nói cách khác là bảo vệ các quyền con người. Hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích lại trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1945 là dấu mốc quan trọng thể hiện chế độ dân chủ và quyền con người trong xã hội Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”… “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”[2].

Tuy nhiên, xem xét trong nội bộ mỗi quốc gia, chế độ dân chủ và quyền con người ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn hạn hẹp do tình trạng bất bình đẳng về chế độ sở hữu, về sự phân hóa giàu, nghèo và về sự kỳ thị chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo... Thực tế cho thấy, hiện nay, các cuộc bầu cử ở nhiều nước phát triển, số cử tri đi bầu cử thường thấp. Cuộc bầu cử gần đây nhất của Hoa Kỳ (2016) chỉ “ở mức dưới 70%. Số cử tri tham gia bầu vào những năm 1980 còn thấp hơn, dao động từ 48% đến 57%”[3].

Mặt khác, sự phân biệt chủng tộc đang tác động đến nhiều mặt của cuộc sống. Hoa Kỳ có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn nhiều quốc gia nhưng vẫn còn không ít người nghèo (theo tiêu chuẩn quốc gia). Điều đáng nói là sự phân hóa giàu, nghèo lại gắn với tình trạng phân biệt chủng tộc. Theo một thống kê (vào năm 2014), “tỷ lệ người nghèo của dân da đen là 26%, so với dân gốc người Tây Ban Nha (Hispanics) là 24%, dân Á châu 12% và dân da trắng là 10%”[4].

Xem xét trên phạm vi thế giới thì chủ nghĩa tư bản, bao gồm cả sản phẩm của chế độ đó là chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã đi ngược lại các giá trị dân chủ và quyền con người. Các quốc gia thuộc địa của chủ nghĩa tư bản là những chế độ áp bức, bóc lột, độc tài hà khắc. Bởi vì đó là sự câu kết giữa các quan cai trị thực dân với quan lại phong kiến. Sự thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam hơn 80 năm (từ năm 1858 đến 1945) là một ví dụ.

Dân tộc Việt Nam không bao giờ quên được nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945. Chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên. “Nạn đói đã diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, từ Quảng Trị trở ra. Nghiêm trọng nhất là ở các tỉnh đồng bằng, nơi dân số tập trung đông, có nhiều ruộng, như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa. Nhiều làng xã chết 50% đến 80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai…”[5]

Ở Việt Nam, đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, tổ chức nhân dân thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Lần đầu tiên chế độ dân chủ với các quyền công dân và Quyền con người không những được tuyên bố mà còn được bảo đảm về mặt pháp luật, cũng như trong cuộc sống. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và bản Hiến pháp 1946 đã ghi nhận điều này.

Trên thế giới không có mô hình “chuẩn” về dân chủ và quyền con người

Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều mô hình về chế độ dân chủ với những tên gọi khác nhau, như: Cộng hòa dân chủ nhân dân; chế độ cộng hòa; chế độ cộng hòa nhân dân. Ngoài một số ít quốc gia vẫn theo chế độ quân chủ, các nhà nước có chế độ nghị viện; cộng hòa đại nghị... đều là những chế độ dân chủ tư bản chủ nghĩa. Trong những nước dân chủ này lại có nhiều mô hình dân chủ khác nhau; chẳng hạn: Chế độ dân chủ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chế độ dân chủ một đảng cầm quyền…

Tương tự như chế độ dân chủ, quyền con người ở các quốc gia cũng không giống nhau, cho dù những quy định pháp luật ở đó đều mang những giá trị phổ biến. Trong tính hiện thực của nó, quyền con người là các quy định của pháp luật (quốc gia) nhằm tôn trọng, bảo vệ những nhu cầu, lợi ích về vật chất và tinh thần của tất cả mọi người không phân biệt già - trẻ, gái - trai, dân tộc, quốc tịch, vị thế chính trị, tài sản và những vị thế khác…

Trong mỗi chế độ xã hội nói chung, chế độ dân chủ nói riêng, đều có những quy định về quyền công dân và quyền con người khác nhau. Điều này bắt nguồn từ sự khác biệt về truyền thống lịch sử, bản chất chính trị và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ví dụ, ở nhiều quốc gia phương Tây, quyền tự do ngôn luận không loại trừ việc xúc phạm niềm tin tôn giáo. Chẳng hạn, vụ xả súng ngày 7-1-2015 tại tòa soạn Tạp chí Charlie Hebdo ở Paris (Pháp) khiến 12 người thiệt mạng. Thủ phạm là những người theo đạo Hồi. Họ phẫn nộ vì tạp chí này đăng tải bức biếm họa xúc phạm thánh A-la. Hoặc ở Hoa Kỳ thì người dân có quyền sở hữu và sử dụng súng. Gần đây, người dân ở quốc gia này còn có cả “quyền” được sử dụng máy in 3D tự sản xuất súng (tại gia đình)[6].

Như vậy có thể nói, trên thế giới hoàn toàn không có mô hình dân chủ, quyền con người “chuẩn” nào cả. Các chế độ dân chủ đều do các cơ quan lập pháp quốc gia quyết định. Thường thì những đảng chính trị chiếm đa số trong các cơ quan quyền lực chi phối các tiêu chí, cơ chế, chính sách, pháp luật của chế độ dân chủ và quyền con người ở đó. Ở Hoa Kỳ thì hai đảng là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền. Ở Trung Quốc tuy có hơn 80 đảng chính trị nhưng các đảng đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bởi vậy, việc người ta lấy một mô hình chế độ dân chủ nào đó, chẳng hạn như mô hình dân chủ Hoa Kỳ với chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” và thể chế “tam quyền phân lập” làm “chuẩn” để phủ nhận chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền là một cách nhìn phiến diện, nếu không nói là vì động cơ chính trị, muốn xóa bỏ chế độ hiện hữu và thành quả cách mạng 75 năm qua của dân tộc Việt Nam – đó là điều không thể.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam minh chứng: Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945- cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh lãnh đạo. Chế độ xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã phải chống chọi với các thế lực xâm lược hùng hậu trong các cuộc kháng chiến anh dũng bảo vệ Tổ quốc kéo dài hơn 30 năm (1945-1975) với không biết bao nhiêu hy sinh xương máu của đồng bào và chiến sĩ. Đó là thành quả đấu tranh của cả dân tộc, là nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với thực tiễn nêu trên, khẳng định ở Việt Nam hiện nay nền dân chủ luôn được mở rộng và phát huy, không có chuyện ở Việt Nam dân chủ đang bị “hòa tan” trong quá trình đổi mới và hội nhập như một số kẻ đã tuyên truyền, chống phá…



[1] Điều 258, Luật Hình sự 2015 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr. 1.

[3] “Tại sao tỷ lệ cử tri đi bầu cử tại Mỹ lại thấp?”, BBC News ngày 31-10-2016.

[4] Tại sao chưa thể chấm dứt tình trạng nghèo khổ tại Hoa Kỳ?”-VOA ngày 21-9-2016

 

[5] "Nạn đói lịch sử năm Ất Dậu", VnExpress, ngày 12-1-2015.

[6] Mỹ: “Nhiều bang kiện chính quyền liên bang cho phép sản xuất súng in 3D”, VietnamPlus ngày 31-7-2018.

 

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 


Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị đang gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng, cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch là nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn các bộ, ngành, địa phương đang tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

1. Thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động 

Trước thềm đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch ở trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng các hoạt động quyết liệt và thâm hiểm nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Trọng tâm của sự chống phá là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng và công tác nhân sự đại hội đảng các cấp... nhằm hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phê phán, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bóp méo sự thật về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang... Bản chất và mưu đồ của họ là từng bước làm cho các lực lượng vũ trang biến chất về chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn tới mất sức chiến đấu. 

Thứ hai, lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, nhất là sau một số vụ án tham nhũng kinh tế, các đối tượng thù địch thông qua các trang mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật về cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam; đăng tải các thông tin sai trái, bôi nhọ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; gây phân tâm trong xã hội, làm giảm sút ý chí, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ…

Thứ ba, tuyên truyền những nội dung xấu, độc, trá hình, bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết điểm hoặc lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong quản lý nhà nước để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của các cấp ủy, chính quyền địa phương. 

Trước tình hình trên, các cơ quan báo chí cách mạng của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức nhiều biện pháp đấu tranh ngăn chặn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận vẫn còn những hạn chế, chưa ngăn chặn được triệt để các thông tin xấu, độc, dẫn đến có những tác động tiêu cực tới nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và con đường phát triển đất nước.

Đáng lưu ý là gần đây đã xuất hiện một số tài liệu chống đối trắng trợn, xuyên tạc lịch sử cùng với những luận điệu hết sức phản động; số phần tử cơ hội chính trị đã bóp méo sự thật về các điều luật được thông qua, họ tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, đòi Đảng ta từ bỏ quyền lãnh đạo; bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam theo quan điểm của phương Tây, thực hiện nhà nước pháp quyền tư sản; hô hào tập hợp lực lượng chống phá, phản đối các chính sách, các dự án  luật.v.v… Các thế lực thù địch lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong một số cán bộ, đảng viên mà chúng ta đang lên án phê phán, đấu tranh và xử lý các vụ việc tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân và các tệ nạn xã hội khác… để gây tâm lý hoang mang với mưu đồ làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

Trong những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới đã nêu rõ: bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan thông tấn, báo chí là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và của cả hệ thống chính trị.

Nghị quyết nêu ra bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đến các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao “sức đề kháng”, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Đặc biệt, trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch càng phải được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phòng ngừa, đấu tranh trên lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII nêu rõ: “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”(1). 

Trong lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, một trong những nội dung quan trọng được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhấn mạnh là phải chủ động phòng ngừa, cảnh giác, ngăn chặn, đấu tranh, không để tác động, chi phối bởi những thông tin không chính thức, thông tin xấu độc, bịa đặt, xuyên tạc trên internet, mạng xã hội của các thế lực thù địch. Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái, xuyên tạc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng. 

2. Những định hướng cơ bản trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Trong quá trình chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xác định và nhấn mạnh, công tác nhân sự cần thực hiện phương châm bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Cấp ủy nhiệm kỳ 2020-2025 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Báo cáo chính trị cần đánh giá đúng, trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2015 - 2020, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; đồng thời, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho nhiệm kỳ tới sát tình hình thực tế, có tính khả thi cao, làm cơ sở để tổ chức thực hiện hiệu quả. Thông qua đại hội đảng bộ các cấp, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. 

Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm về cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. 

Đây là giải pháp, đồng thời là yêu cầu đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, địa phương và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận thức rõ cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay là một trong những nhiệm vụ chính trị mang tính cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Đây là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với các thế lực thù địch, phản động. Đây đồng thời là cuộc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã dày công xây dựng. 

Hai là, chủ động bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội.

Với phương châm chỉ đạo công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, các cơ quan chức năng cần quan tâm nghiên cứu biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo để phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng.

Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hàng năm; chủ động trao đổi với các cán bộ có quan điểm chưa thống nhất để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.

Ba là, thường xuyên đổi mới phương thức, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, chủ động đấu tranh phản bác luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.

Đây là giải pháp cơ bản nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu thù địch, sai trái của các đối tượng, phần tử xấu trên internet, mạng xã hội. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”, phản động được đối tượng sử dụng. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để đấu tranh, ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả.

Bốn là, tăng cường quản lý, chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách hiệu quả.

Các cơ quan chức năng cần chủ động phối hợp với các đơn vị cung cấp dịch vụ, nghiên cứu sử dụng các giải pháp về công nghệ thông tin để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu, độc trên các trang mạng. Đặc biệt, cần chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn đàn mạng xã hội để vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ, lọt bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc phát tán những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên; các chủ trương, giải pháp cơ bản cần được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm và có hệ thống.

Thực hiện tốt những nội dung, định hướng cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hiệu quả, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, góp phần cho đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành công tốt đẹp./.

 (1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.201.

 

Trần Đăng Ninh - Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIV, đơn vị tỉnh Hoà Bình

https://tcnn.vn/news/detail/47270/Tang-cuong-dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-cua-cac-the-luc-thu-dich.html

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...