Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2018

ĐỪNG NGỘ NHẬN VIỆC BẢO ĐẢM AN NINH MẠNG VỚI TÔN TRỌNG QUYỀN CON NGƯỜI


ĐỪNG NGỘ NHẬN VIỆC BẢO ĐẢM AN NINH MẠNG VỚI
TÔN TRỌNG QUYỀN CON NGƯỜI
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã hội (MXH) thì các thế lực thù địch trong và ngoài nước cũng tăng cường lợi dụng môi trường kỹ thuật số để chống phá chế độ, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, đồng thời làm tổn thương đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Ứng phó với các nguy cơ và thách thức đối với an ninh quốc gia, trật tự xã hội và quyền con người, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách, pháp luật bảo đảm an ninh internet, MXH, tạo thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền của mình. Thế nhưng, trên internet, MXH đã có kẻ xuyên tạc mục tiêu, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với môi trường thế giới ảo. Họ cho rằng, Việt Nam sửa đổi và đưa ra các đạo luật gần đây, nhất là Luật An ninh mạng, nhằm “bóp nghẹt” quyền tự do ngôn luận (trên mạng); ở Việt Nam “không có tự do internet…”;  mục tiêu “lọc thông tin mạng”, kể cả việc Thủ tướng Chính phủ yêu cầu sớm ban hành “Bộ quy tắc ứng xử trên mạng” và Luật An ninh mạng cho phép công an điều tra, xác minh các tài khoản trên mạng vi phạm pháp luật là “vi phạm quyền riêng tư”. Tuy nhiên thực tế cho thấy, đó chỉ là những luận điệu vu khống.
Như các phương tiện truyền thông đưa tin, ngày 23-9-2018, Tòa án Nhân dân quận Cái Răng, TP Cần Thơ xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Hồng Nguyên về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”… (Điều 331 Bộ luật Hình sự). Theo cáo trạng, Nguyễn Hồng Nguyên sử dụng facebook với tên tài khoản “Nguyễn Hồng Nguyên” (bút danh Bồ Công Anh). Để giao lưu kết bạn, Nguyên thường xuyên truy cập internet soạn thảo, đăng tải, chia sẻ trên trang cá nhân nhiều bài viết, hình ảnh, video clip có nội dung nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội.
Hoặc Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An đã xét xử Lê Đình Lượng (ngày 16-8-2018) về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Nghệ An, Lê Đình Lượng đã lập tài khoản trên MXH (facebook) nhằm “câu like”, phản hồi, chia sẻ với các tài khoản facebook khác với nội dung xúi giục, dụ dỗ, lôi kéo nhiều người vào tổ chức Việt Tân nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Lê Đình Lượng đã đăng tải nhiều bài viết tuyên truyền, cổ xúy cho tổ chức khủng bố Việt Tân; xuyên tạc chính sách, pháp luật của Nhà nước, nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam… Lê Đình Lượng còn lợi dụng các sự kiện chính trị, xã hội, kinh tế, môi trường để bóp méo sự thật, gây bức xúc trong nhân dân, chống chế độ xã hội và Nhà nước.
Đặc điểm chung của các vụ án chống chế độ xã hội, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong thời gian gần đây là: Về nội dung, tội phạm chủ yếu là xuyên tạc chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; bôi đen Đảng Cộng sản Việt Nam, xúc phạm các lãnh tụ của giai cấp công nhân (Mác, Ăngghen, Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh); lợi dụng những vấn đề phức tạp về xã hội, tình trạng môi trường ô nhiễm…; về đường lối đối ngoại “đa dạng hóa”, “đa phương hóa” của Đảng và Nhà nước ta để vu cáo Việt Nam đi theo quốc gia này, ngả theo quốc gia khác, phản bội lợi ích của dân tộc... Cá biệt, có nhóm đối tượng hoạt động vũ trang, sử dụng bom, mìn nhằm gây mất an ninh quốc gia, tiến đến lật đổ chế độ xã hội, như vụ án Đào Minh Quân (tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, do Tòa án Nhân dân TP Hồ Chí Minh xét xử ngày 22-8-2018).
Về phương thức, có thể nói, tất cả đối tượng phạm tội đều sử dụng internet, MXH, đặc biệt là facebook để tập hợp, mở rộng lực lượng, tuyên truyền xuyên tạc chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước… kết nối giữa các tội phạm trong nước với nhau và với các tổ chức, cá nhân chống Việt Nam ở nước ngoài.
Sự ra đời của internet, MXH tạo ra bước phát triển nhảy vọt của nhân loại trong thời đại ngày nay. Có thể nói internet, MXH là cơ sở của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 trên những lĩnh vực, như: Trí tuệ nhân tạo, rô-bốt, internet vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3D, và công nghệ nano... Với internet, MXH, nhân loại có thêm một thế giới mới-thế giới ảo, với một hệ sinh thái mới-hệ sinh thái số. Đó là một hệ thống thông tin trên tất cả lĩnh vực, đồng thời được lưu giữ và dễ dàng tìm kiếm trên mạng (trang Wikipedia) cùng với nhiều trang công cụ tìm kiếm, trao đổi thông tin, thư từ (trang Google, Yahoo, You Tube). Trên các trang mạng này, các cá nhân có thể có những hoạt động tương tác trực tuyến ở mọi nơi, mọi lúc.
Thế nhưng, trong thế giới ảo-hệ sinh thái số, lại đặt ra nhiều thách thức đối với nhân loại, quốc gia, dân tộc, nhất là việc đánh giá tính chân thực của thông tin mạng, từ những việc đơn giản như mua hàng trên mạng (có đúng chất lượng, mẫu mã hay không) cho đến những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia (như tình hình Biển Đông, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc-Hoa Kỳ…); tình hình kinh tế xã hội-xã hội (những vụ việc cơ quan nhà nước cấp phép sử dụng đất đai);… đến quyền riêng tư (chuyện quan hệ nam-nữ… hôn nhân, gia đình) đều khó xác định tính chân thực của thông tin mà mình nhận được hoặc quan tâm.
Nói cách khác, những thông tin trên thế giới ảo-trên mạng rất khó kiểm chứng. Điều này dẫn đến kẻ xấu có thể lợi dụng internet, MXH vì những mục tiêu xấu xa, như: Đưa thông tin giật gân nhằm câu view, câu like; đưa thông tin về đời tư do hẹp hòi, ích kỷ... Đáng tiếc, cho đến nay vẫn còn không ít người cho rằng, môi trường kỹ thuật số hoàn toàn thuộc quyền của cá nhân, không có luật pháp; hoặc những kẻ xấu nghĩ rằng họ có thể sử dụng kỹ thuật để che giấu hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Trong thời đại kỹ thuật số-thế giới ảo, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và quyền con người đứng trước những thách thức mới. Nếu như trước đây an ninh quốc gia là bảo vệ chủ quyền vùng đất, vùng biển, vùng trời, chế độ xã hội... thì ngày nay, đó còn là bảo vệ an ninh không gian mạng. Nội dung pháp luật nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh mạng là: Nghiêm cấm thông tin nhằm tổ chức, hoạt động, xúi giục, lôi kéo, huấn luyện người chống Nhà nước …; nghiêm cấm hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội (như kêu gọi tụ tập đông người, gây rối, tổ chức đánh bạc, giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân...; nghiêm cấm hành vi tấn công mạng (gây khủng hoảng kỹ thuật phá hoại việc sử dụng mạng)...
Trong bối cảnh internet, MXH hiện nay, việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người có những khác biệt nhất định so với các giai đoạn lịch sử đã qua. Nội dung quyền con người ngày nay mở rộng hơn trước, bao gồm quyền sử dụng internet, MXH. Nếu như trước đây, quyền tự do ngôn luận, báo chí (trong nhóm quyền dân sự chính trị) chỉ có quyền tiếp cận với báo in, báo nói, báo hình, thì ngày nay quyền này còn bao gồm cả quyền tiếp cận, sử dụng internet, MXH.
Điều 25, Hiến pháp 2013 của Nhà nước Việt Nam quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Thể chế hóa quy định nói trên, Quốc hội đã xây dựng và ban hành nhiều đạo luật, như Luật Báo chí-2016; Luật Tiếp cận thông tin -2013; Nghị định của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng-2013; Luật An ninh mạng-2018…
Luật quốc tế về quyền con người cũng quy định, quyền dân tộc tự quyết là quyền tập thể của quyền con người. Điều 1, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị-1966, quy định: “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá”... Quyền quyết định về “thể chế chính trị” ở đây được hiểu là quyền lựa chọn chế độ xã hội (là chế độ XHCN hay chế độ tư bản chủ nghĩa…) cũng như quyết định về pháp luật như thế nào là quyền của các nhà nước.
Về các quyền cá nhân, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 có quy định về hạn chế quyền. Điều 19 (về “quyền giữ quan điểm” và “quyền tự do ngôn luận”) quy định cụ thể như sau: “Việc thực hiện những quyền này “kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt”, và “có thể phải chịu một số hạn chế nhất định”, để: “(a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Như vậy, những quy định hạn chế quyền nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng và quyền cá nhân, như: “Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích: “Chống lại Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;…(Điều 5, Nghị định của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng)… hoặc “Tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi” (Điều 8 Luật An ninh mạng)… là hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng số, chủ thể chịu trách nhiệm đối với an ninh quốc gia và quyền con người được mở rộng tới ban lãnh đạo các nhà mạng quốc tế, trong đó có có Google, Yahoo, Facebook… Trách nhiệm của các nhà mạng là hợp tác với các nhà nước gỡ bỏ, khóa các tài khoản đưa thông tin sai trái, trái với pháp luật quốc gia.
Trong cuộc làm việc giữa ông Nguyễn Mạnh Hùng (khi đó giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông, nay là Bộ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông) với ông Simon Milner, Phó chủ tịch về Chính sách công tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương của facebook (ngày 14-9-2018), hai bên đều hiểu biết lẫn nhau và bày tỏ rõ thiện chí. Ông Nguyễn Mạnh Hùng mong muốn “Việt Nam và facebook nên trở thành những người bạn của nhau, vì sự thịnh vượng của cả hai bên.”[1]. Ông Simon Milner còn nói vui về tình cảm và trách nhiệm của facebook: “Ở một số nước, chúng tôi chỉ là một trong các nàng dâu, nhưng ở đây chúng tôi là nàng dâu trưởng” và ông cam kết sẽ “hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để giải quyết triệt để các vấn đề còn tồn tại thông qua việc hình thành nhóm làm việc chung với Việt Nam.”[2].
Như vậy, có thể nói tất cả đạo luật của Nhà nước Việt Nam cũng như của các quốc gia trên thế giới đều một mặt bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ nhà nước, mặt khác bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Không bảo vệ chế độ xã hội, nhà nước hiện hữu thì cũng không bảo vệ được quyền con người, quyền và lợi ích của công dân.

1, 2. "Lãnh đạo facebook cam kết hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam”- Nguồn VietnamNet, ngày 14-9-2018.
THANH NGUYỄN  
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thanh-tuu-nhan-quyen-viet-nam/dung-ngo-nhan-viec-bao-dam-an-ninh-mang-voi-ton-trong-quyen-con-nguoi-553672

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN TỘC TA


KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CON ĐƯỜNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN TỘC TA

Lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ 20 cho thấy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là một thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta-thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.
Chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) đã kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời còn kế thừa, phát triển những tư tưởng tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ năm 1776 và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng tiến bộ đó thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng chế độ xã hội dân chủ, cộng hòa theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945.
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu có ý nghĩa thời đại. Đó là thắng lợi của kháng chiến chống thực dân, đế quốc bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; vượt qua cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống của chủ nghĩa xã hội (CNXH) những năm 1985-1991, tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986) thắng lợi.
Thế nhưng, lợi dụng internet, mạng xã hội, có kẻ đã tung ra thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bôi nhọ CNXH và chế độ xã hội XHCN nói chung, chế độ xã hội và Nhà nước ta nói riêng. Trên BBC gần đây có kẻ viết rằng: “Gần như ở nơi nào mà CNXH đã được thử nghiệm, chúng cũng gây ra đau khổ, tham nhũng và mục nát”. Có người cho rằng trên thế giới, học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời; rằng “Việt Nam nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin” vì lý luận đó “đã cản trở con đường tiến lên văn minh hiện đại trong hòa bình của Việt Nam”. Có người thì “kiến nghị” Đảng nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, chuyển sang “tư tưởng dân tộc, dân chủ”. 
Vậy quan điểm cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam cần từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN sai lầm ở đâu? Vì sao Việt Nam khẳng định: Con đường phát triển của dân tộc ta chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo?
1- Kinh nghiệm lịch sử thế kỷ 20 đã chỉ ra rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và phát triển đất nước-hội nhập quốc tế duy nhất đúng đắn của nhân dân Việt Nam.
Còn nhớ trong thế kỷ 19 và 20, lực lượng chính trị cực hữu ở các quốc gia phát triển đương thời, trong đó có Pháp, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đến Việt Nam dưới khẩu hiệu “khai hóa”, nhưng thực chất đó là những cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Khi đánh bại lực lượng phong kiến Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt chế độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến, đẳng cấp, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tận tủy.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 là một ví dụ. Chỉ tính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ (với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình) nạn đói đã làm chết hơn 2 triệu người, chiếm gần 10% dân số Việt Nam khi đó. Theo con số ghi chép từ công trình nghiên cứu “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam-những chứng tích lịch sử” của GS Văn Tạo và GS Furuta Moto (Nhật Bản): “Nhiều làng xã chết từ 50% đến 80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thái Thượng, huyện Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người”[1].
Nối tiếp cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh mang tính hủy diệt đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời sử dụng chủ nghĩa thực dân mới: Xây dựng chính quyền tay sai nhằm thống trị và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Còn nhớ ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của chúng đã gây ra bao nhiêu vụ thảm sát. Không kể chế độ khắc nghiệt, tù nhân phải ăn gạo mục, cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… nhiều tù nhân cốt cán phải nằm xà lim, chuồng cọp, thường xuyên bị tra tấn dã man… 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các dân tộc trên thế giới, bao gồm cả nhân dân tiến bộ Pháp, Mỹ… đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hơn 30 năm qua (từ năm 1986 đến nay) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại những thành tựu có ý nghĩa thời đại. Từ một nước nghèo, trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị cấm vận, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình, trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bình đẳng với nhiều nước lớn, trong đó có Nga, Trung Quốc (đối tác chiến lược toàn diện) và Hoa Kỳ (đối tác toàn diện).
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thập niên 30 của thế kỷ 20 đến nay chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Tư tưởng xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền độc lập dân tộc với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định: Tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2].
Cương lĩnh năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Đại hội lần thứ XII (năm 2016) của Đảng đã xác định mục tiêu của dân tộc Việt Nam là: Xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
2- Để tiến đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, con đường duy nhất của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính tất yếu của con đường XHCN của dân tộc Việt Nam trước hết bắt nguồn từ lịch sử, từ sự lựa chọn của nhân dân. Ngày nay, trên thế giới có nhiều mô hình xã hội với nhiều chế độ xã hội khác nhau. Mỗi quốc gia, dân tộc lựa chọn mô hình nào đó đều dựa trên những điều kiện lịch sử của dân tộc mình, đồng thời tùy theo thể chế xã hội và do đảng chính trị cầm quyền lãnh đạo thực hiện. Không ít nhà nước trên thế giới ngày nay là nhà nước “cộng hòa”, “cộng hòa dân chủ nhân dân"; “cộng hòa nhân dân”; “cộng hòa-tổng thống"; "cộng hòa đại nghị"; nhà nước tôn giáo (Vatican). Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và luật pháp các quốc gia đều tôn trọng sự lựa chọn chế độ xã hội và nhà nước của các dân tộc.
Một số người lợi dụng internet, mạng xã hội tán phát quan điểm xuyên tạc, phủ nhận xã hội XHCN nói chung, phủ nhận con đường XHCN của dân tộc Việt Nam là vô căn cứ. Họ chỉ dựa vào tên gọi, hoặc tư tưởng chính trị theo quan điểm giáo điều hoặc những mặt tiêu cực nào đó của xã hội để đánh giá nước này là “văn minh”, nước kia là “lạc hậu”. Đó chỉ là những thủ đoạn chính trị cổ hủ, vô căn cứ.
Tư tưởng về cách mạng xã hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản, trong đó “sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) do Mác và Ăngghen sáng tạo trước khi có cách mạng XHCN. Lênin và Đảng Cộng sản Nga (sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) đã vận dụng, phát triển lý luận đó, lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười đưa đến sự ra đời nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, đồng thời mở ra hệ thống XHCN, phá thế độc quyền của tư bản chủ nghĩa (TBCN) thế giới. Cho dù thế giới ngày nay đã có những thay đổi lớn lao nhưng không thể phủ nhận được những sự kiện lịch sử mang tính thời đại này.
Ở Việt Nam, đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng. Cuộc Cách mạng Tháng Tám không phải là một cuộc cách mạng vô sản như ở nước Nga (năm 1917), mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo Chủ nghĩa Lênin, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Nhà nước mới, sau cách mạng cũng không phải theo mô hình nhà nước Xô-viết, mà là nhà nước “dân chủ, cộng hòa” do nhân dân làm chủ, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hướng tới xã hội XHCN.
Chế độ xã hội ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã trải qua hai mô hình xã hội với những thể chế và chính sách khác nhau. Mô hình trước đổi mới (1976-1986) là “Chế độ làm chủ tập thể XHCN”[3]. Về chính trị, đó là chế độ xã hội dựa trên nhà nước, thực sự của dân, do dân, vì dân… dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về kinh tế, đó là chủ trương “xóa bỏ chế độ sở hữu TBCN… xác lập chế độ sở hữu XHCN dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” bằng những phương pháp và bước đi thích hợp.
Mô hình xã hội XHCN trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) là sự phát triển sáng tạo chế độ xã hội XHCN, đồng thời khắc phục những sai lầm nhận thức về CNXH. Mô hình đó, về chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về kinh tế, đó là kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Về quan hệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng.
Cần phải khẳng định, Việt Nam đi theo con đường XHCN là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân tộc Việt Nam ngày nay là sự kế thừa và phát triển lịch sử dân tộc. Về mặt lý luận, chế độ Việt Nam nằm trong hình thái quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu từ sự ra đời của Nhà nước Xô-viết. Sự ra đời của hệ thống XHCN và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc (từ thập niên 1960) đã xác nhận tính chất đúng đắn của lý luận đó. Còn nhớ, sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng trăm quốc gia, dân tộc, nơi các đảng chính trị theo chủ nghĩa yêu nước, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có nhiều đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân lao động đứng lên lật đổ chế độ thuộc địa, giành được độc lập dân tộc, trong đó có nhân dân Việt Nam. Do nhiều nhân tố, trong đó có tác động của hệ thống XHCN, ở các nước TBCN đã hình thành phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, tạo ra sự biến đổi những cơ chế, chính sách ít nhiều dung hòa lợi ích giữa giới chủ với người lao động. Điển hình cho phong trào này là kết quả đạt được giữa giới chủ với các tổ chức công đoàn ở các nước Bắc Âu, do các đảng dân chủ XHCN (còn gọi là các đảng xã hội dân chủ) lãnh đạo.
Thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay khác với thể chế “Nhà nước chuyên chính vô sản” (trong thời kỳ trước đổi mới), đó là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện toàn diện những bước phát triển về tư tưởng chính trị và pháp lý của Nhà nước Việt Nam.
Về chế độ xã hội, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. (Điều 2).
Về vai trò và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều 4 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày nay là rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng, dựa trên các nguyên tắc-đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Tóm lại, đó là đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa…; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng).
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên đã dành cả một chương để quy định về quyền con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền dân sự, chính trị đến các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Những quy định này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc.
Đảng và Nhà nước Việt Nam không phủ nhận những mặt tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam công khai hóa, đồng thời đang triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách có bài bản và quyết liệt. Các nghị quyết Đại hội XI, XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cho thấy rõ quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh này như thế nào. Trong những năm gần đây, không ít cán bộ có chức, có quyền ở cả cấp cao, lực lượng vũ trang đã bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý hình sự.
Tại Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, chiều 27-4-2018 ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “làm đến cùng”[4]. Gần đây, ngày 1-8-2018, trong buổi làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn lưu ý: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, lãng phí, phòng, chống tiêu cực, chúng ta thường nói nhiều đến công tác cán bộ… “nhưng điều cốt yếu là gì? Đó là sự kiên định đi lên CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lịch sử thế kỷ 20 cho thấy: Không có lực lượng chính trị nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có Cương lĩnh xác định mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; không có lực lượng chính trị nào có lý luận cách mạng khoa học sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với xu thế của thời đại; có hệ thống tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và sẵn sàng hy sinh như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy có thể nói, sự phát triển của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là đi theo con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
---------------------------------
[1] - Nạn đói năm Ất Dậu, 1944-1945 - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
[2] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
[3] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị, Đại hội IV, NXB ST, 1997, HN, tr. 53,52.
[4] - “Tổng Bí thư khẳng định: Không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong chống tham nhũng”.Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, 27-4-2018 19:58 GMT+7
PHAN THANH
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/khong-the-xuyen-tac-phu-nhan-con-duong-xa-hoi-chu-nghia-cua-dan-toc-ta-552550

VI PHẠM CỦA ĐỒNG CHÍ CHU HẢO - ĐẢNG VIÊN TRÍ THỨC CÓ BIỂU HIỆN SUY THOÁI, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” RẤT NGHIÊM TRỌNG


VI PHẠM CỦA ĐỒNG CHÍ CHU HẢO - ĐẢNG VIÊN TRÍ THỨC CÓ BIỂU HIỆN SUY THOÁI, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” RẤT NGHIÊM TRỌNG

Tại Kỳ họp thứ 30, Uỷ ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã có Thông báo kết luận về vi phạm của đồng chí Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ, Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản Tri thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với nhiều vi phạm. Vậy đồng chí Chu Hảo có những vi phạm gì? Tại sao một đảng viên tri thức, gia đình truyền thống cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước lại vi phạm rất nghiêm trọng đến mức phải kỷ luật về đảng như vậy?
Vi phạm của đồng chí Chu Hảo bắt đầu từ năm 2005, khi đồng chí nghỉ hưu (không còn là Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ) và chuyển sang công tác ở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Với cương vị là Tổng Biên tập, Giám đốc Nhà xuất bản Tri thức, đồng chí đã lựa chọn, biên tập, xuất bản nhiều cuốn sách có nội dung sai phạm, trái quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng. Cụ thể trong các năm (2005-2009), đồng chí đã cho xuất bản 5 cuốn sách có nội dung chính trị tư tưởng sai trái, bị cơ quan chức năng thẩm định, kết luận, xử lý cấm phát hành. Chẳng hạn, cuốn “Đường về nô lệ” của F.A. Hayek đã thổi phồng các mặt hạn chế của chủ nghĩa xã hội, đánh đồng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với chủ nghĩa phát xít; đề cao các giá trị dân chủ của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận hoàn toàn hệ thống triết học, chính trị, kinh tế, văn hóa của chủ nghĩa xã hội, phủ định chủ nghĩa Mác, gắn mô hình kinh tế của Liên Xô trước đây với mô hình của chủ nghĩa phát xít, cho rằng tất yếu mô hình đó sẽ dẫn đến nô lệ. Cuốn Karl Marx” của Peter Singer, nội dung giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp cùng những tư tưởng triết học của Marx qua góc nhìn một số học giả phương Tây. Cuốn sách này đưa ra những nhận xét sai lầm về học thuật, phủ định những nội dung tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Marx. Cuốn sách “Tranh luận để đồng thuận” của nhiều tác giả, có một số bài viết có những luận điểm đi ngược lại chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Cuốn sách “Việt Nam thay đổi và hạnh phúc” có những quan điểm, nhận định, đánh giá thiếu căn cứ khoa học, mơ hồ về chính trị, hết sức sai lầm, lệch lạc, trái với những quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng. Ngoài ra, cuốn sách “Ông Sáu Dân trong lòng dân” cho thấy Nhà Xuất bản có dấu hiệu khuynh hướng tập hợp những bài viết về những người có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, nhằm “gợi ý”, “gợi mở” một hướng đi khác, cách nhìn khác không có lợi cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Việc xuất bản 5 cuốn sách trên, trách nhiệm chính thuộc về đồng chí Chu Hảo. Năm 2009, UBKT Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và kết luận vi phạm của đồng chí Chu Hảo đã đến mức phải kỷ luật khiển trách, nhưng miễn kỷ luật do xét các tình tiết giảm nhẹ như công lao, quá trình cống hiến, sự thành khẩn của đồng chí; yêu cầu đồng chí kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm sâu sắc về những thiếu sót, khuyết điểm và có biện pháp sửa chữa. Tuy nhiên, từ năm 2009 đến năm 2018, đồng chí vẫn tiếp tục xuất bản những cuốn sách có nội dung vi phạm, trong đó có 2 cuốn nội dung vi phạm về chính trị, tư tưởng bị cấm phát hành; 17 cuốn sách sai phạm ở mức độ ít nghiêm trọng và 5 cuốn không được phép tái bản. Như vậy, đồng chí đã cố tình vi phạm các vấn đề đã cấp có thẩm quyền kiểm tra, nhắc nhở.
Trong việc nói, viết và làm theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng chí có những vi phạm được đánh giá là rất nghiêm trọng, cụ thể như:
Đồng chí tham gia ký vào các thư kiến nghị, thư ngỏ và có nhiều bài viết trên báo chí trong và ngoài nước, mạng xã hội như: “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” nêu lên 7 kiến nghị tập trung vào ba vấn đề cốt lõi: (1) Đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp; (2) Yêu cầu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; (3) Đòi phi chính trị đối với lực lượng vũ trang; “Thư ngỏ gửi Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản”, nội dung thư ngỏ cho rằng Đảng đã dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa đã đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện... “Thư gửi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, các đại biểu dự Đại hội lần thứ XII và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam” có nội dung phê phán đường lối lãnh đạo của Đảng trong 30 năm qua, khẳng định các văn kiện chuẩn bị trình Đại hội lần thứ XII còn nặng về nhận định và chủ trương sáo mòn, chưa nhìn đúng sự thật. Việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kiên định theo con đường chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không thực tế… “Thư kiến nghị về Luật An ninh mạng” trong đó kiến nghị bãi bỏ hoàn toàn một số điều của Luật, tự ý đưa tên đồng chí Nguyễn Khánh Toàn, nguyên thứ trưởng Thường trực Bộ Công an (không được sự đồng ý của đồng chí Nguyễn Khánh Toàn) vào danh sách những người đứng tên thư kiến nghị, đưa lên mạng xã hội gây xôn xao dư luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình chính trị, tư tưởng của nhân dân.
Đồng chí có các bài viết, bài phát biểu trên báo chí và mạng xã hội có nội dung sai trái. Trong bài “Vai trò của người tri thức hiện đại” (6-2010), đồng chí cho rằng “những nét đặc trưng của tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa” ngoài những nét đặc tính được Đảng, Nhà nước và phần nào xã hội thừa nhận thì có những hạn chế không thể phủ nhận là: Hời hợt trong tư duy và thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu; tính cơ hội, thực dụng và vụ lợi trong hành xử; ưa thành tích và chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng; thiếu tinh thần hợp tác và ít lòng vị tha và sở dĩ có những đặc trưng trên là xuất phát từ một nguyên nhân chính là sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trước hết trong nội bộ Đảng rối từ đó trong toàn xã hội. Bài viết “Không biết, không bầu” có những nội dung phê phán bầu cử Quốc hội khóa XIV, mặc dù khẳng định mình sẽ đi bầu cử nhưng đồng chí cho rằng: “Luật bầu cử hiện hành là một bộ Luật vi hiến” và: “Đau lòng và phẫn nộ chứng kiến hành vi “ngồi xổm” trên Hiến pháp và Luật bầu cử xảy ra trong kỳ họp cuối cùng của Quốc hội đương nhiệm và trong quá trình “hiệp thương” lựa chọn ứng cử đại biểu Quốc hội khóa tới” cùng nhiều bài trả lời phỏng vấn trên các đài, báo nước ngoài có các nội dung sai trái (BBC, RFA, RFI).
Với những khuyết điểm, vi phạm trên, đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương (23-6-2016) đã mời đồng chí đến làm việc, trao đổi, phân tích, làm rõ và yêu cầu đồng chí chấm dứt vi phạm. Tuy nhiên, sau đó hai tháng (23-8-2016) đồng chí tiếp tục viết bài “Đã đến lúc cần đối thoại” trong đó, cho rằng: “Nguyên nhân gốc rễ của mọi bất đồng, mọi bức xúc và phẫn uất đều nằm trong những bất cập, phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ của Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” từ đó đòi hỏi Đảng phải đối thoại với nhân sĩ, trí thức.
Như vậy, đồng chí lại cố tình vi phạm mặc dù vừa được nhắc nhở và đến đây có thể khẳng định rằng vi phạm của đồng chí Chu Hảo đã mang tính hệ thống. Những tài liệu, chứng cứ cho thấy đồng chí đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo đúng kết luận của UBKT Trung ương.
Đồng chí là người sáng lập, tham gia các hội, nhóm, diễn đàn, câu lạc bộ và các tổ chức khác và có các hoạt động để truyền bá, tư tưởng quan điểm sai trái của mình, như: Năm 2007, đồng chí cùng một số nhà khoa học lập Viện Nghiên cứu phát triển (IDS) (nay đã giải thể), là thành viên của “Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh” sau đó là “Quỹ Phan Chu Trinh”, quỹ này trao giải cho cả cựu chiến binh Mỹ từng tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
 Năm 2013, đồng chí là một trong những thành viên đầu tiên của “Nhóm kiến nghị 72” và cũng là thành viên tích cực tham gia chắp bút trình bản Hiến pháp do các ông này dự thảo. Tháng 9-2013 là thành viên tích cực của “Diễn đàn xã hội dân sự” với mục đích trao đổi và tập hợp ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta một cách ôn hòa. Năm 2014 là thành viên đầu tiên của “Nhóm Kiến nghị 61” đòi từ bỏ cương lĩnh và thay đổi đường lối trong phát triển đất nước. Năm 2014, tham gia và chủ xướng “Nhóm tinh thần khai minh” với mục đích tuyên truyền, tán phát, xuất bản tài liệu quảng bá cho tinh thần dân chủ tư sản phương Tây. Đồng chí còn sáng lập nhóm “Dự án Sách hay”, tham gia diễn đàn “Cà phê thứ 7” và một số diễn đàn khác.
Việc đồng chí Chu Hảo tham gia các hội, nhóm nhưng không báo cáo và không được sự đồng ý của chi bộ và tổ chức đảng quản lý là vi phạm quy định của Đảng; đồng chí có quan hệ với các phần tử có quan điểm lệch lạc, sai trái là gián tiếp tiếp tay cho các phần tử cơ hội, thù địch chống phá Đảng.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến một đảng viên tri thức, có trình độ cao, được Đảng và Nhà nước đào tạo bài bản ở trong và ngoài nước, được Đảng ta trọng dụng, đề bạt lại suy thoái nghiêm trọng như vậy? Phải chăng xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nguyên nhân cơ bản, chủ quan và lớn nhất là bản thân đồng chí thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không giữ vai trò tiền phong, gương mẫu của người cách mạng chân chính. Việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện dẫn đến đồng chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và có các hành động nói, viết, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng. Đứng trước nhiều vấn đề bức xúc của đời sống xã hội, đồng chí đã lựa chọn phương pháp sai lầm trong tư duy, hành động và kết cục là vi phạm như hiện nay.
Các diễn biến của sự việc cho thấy, biểu hiện “cơ hội chính trị” của đồng chí được ấp ủ từ lâu. Trong thời gian công tác, lúc đương chức đồng chí không góp ý với Đảng trên cương vị công tác của mình trong phạm vi tổ chức, nhưng khi về hưu lại có những hành động sai trái. Khi bị kiểm điểm, nhắc nhở, đồng chí khôn khéo thừa nhận sai lầm, khuyết điểm của mình ở mức độ nhất định nhằm tránh bị kỷ luật và giữ vững vai trò “hợp pháp” để rồi vẫn giữ quan điểm, lập trường riêng, không chấp hành yêu cầu của các cơ quan chức năng và sau đó lại tiếp tục có vi phạm.
Thứ hai, sự thiếu kiên quyết xử lý vi phạm của tổ chức đảng, chính quyền đối với đồng chí Chu Hảo là nguyên nhân để xảy ra vi phạm kéo dài. Việc kiểm điểm, nhắc nhở đối với đồng chí diễn ra nhiều lần nhưng có phần nể nang, né tránh; không được tổ chức đảng thực hiện bằng văn bản; không giám sát hay yêu cầu đồng chí báo cáo kết quả sửa chữa khuyết điểm và cũng không có biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động của đảng viên có vấn đề về “tư tưởng chính trị”. Vi phạm của đồng chí ngày càng nghiêm trọng đến mức UBKT Trung ương phải kiểm tra “cách nhiều cấp” đến cả đảng viên trong chi bộ. Qua sự việc vi phạm của ông Chu Hảo, vấn đề đặt ra đối với tổ chức đảng là phải làm tốt hơn công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, để đảng viên thường xuyên được rèn luyện, giữ vững lập trường, quan điểm.
Thứ ba, sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội là môi trường “dung dưỡng” cho các quan điểm, hành vi sai trái của ông Chu Hảo. Các quan điểm sai trái đó được các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội về chính trị lôi kéo, cổ vũ, tiếp sức, các hội nhóm, diễn đàn cũng là “cầu nối” quan trọng cho hoạt động của đồng chí Chu Hảo cần phải được cơ quan pháp luật kiên quyết xử lý khi có vi phạm tránh để nơi đây trở thành môi trường cho các phần tử cơ hội, thù địch khác hoạt động.
Đồng chí Chu Hảo là đảng viên trí thức nhưng đã đi ngược lại phẩm giá của người trí thức, đi ngược lại Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, đi ngược lại niềm tin, kỳ vọng của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, không còn xứng đáng với cái tâm, cái tầm của người tri thức và tư cách đảng viên.
Sai phạm của đồng chí Chu Hảo đã được UBKT Trung ương chỉ ra rất rõ và cần xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng thể hiện đúng phương châm, quan điểm của Đảng “công minh, chính xác, kịp thời”, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, bất cứ người vi phạm là ai, kể cả đương chức hay đã nghỉ hưu./.
Phạm Đức Tiến
Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Cơ quan UBKT Trung ương
http://ubkttw.vn/nghien-cuu-trao-doi/-/asset_publisher/bHGXXiPdpxRC/content/vi-pham-cua-ong-chi-chu-hao-ang-vien-tri-thuc-co-bieu-hien-suy-thoai-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa-rat-nghiem-trong

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...