Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2018


LỜI KÊU GỌI THI ĐUA ÁI QUỐC
VẸN NGUYÊN GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
70 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948-11/6/2018), nhưng đến nay những giá trị lý luận và thực tiễn của Lời kêu gọi vẫn còn vẹn nguyên. 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới phong trào thi đua yêu nước và chính Người cũng là một tấm gương thi đua mẫu mực. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho Đảng ta, nhân dân ta những quan điểm về thi đua yêu nước, mà phong trào thi đua yêu nước do Người và Đảng ta phát động đã để lại những kinh nghiệm quý báu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua hiện nay. 
Trong Lời kêu gọi thi đua yêu nước đầu tiên (11/5/1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: để “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm," "Muốn tự cấp, tự túc, đi kịp người ta, thì chúng ta phải đi mau. Vì vậy, sỹ, nông, công, thương, binh, gái trai, già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước."
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả các tầng lớp nhân dân, dù ở địa vị nào, làm công việc gì, đều phải tham gia vào cuộc thi đua yêu nước. 
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là người Việt Nam yêu nước thì phải thi đua “thi đua tức là yêu nước." 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng thi đua không chỉ là hoạt động tích cực, sáng tạo trong công việc hàng ngày, mà còn là biểu hiện của lòng yêu nước, là tình cảm của mỗi con người Việt Nam đối với Tổ quốc, quê hương; lấy thi đua làm động lực để phát huy lòng yêu nước, làm cho lòng yêu nước được thể hiện bằng hành động thực tế trong lao động sản xuất, trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và ngược lại lấy lòng yêu nước để nâng cao hiệu quả thi đua. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Nói yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất." Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho phong trào thi đua của nhân dân ta mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó là lòng yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, là đạo đức, văn hóa, cốt cách của dân tộc Việt Nam. 
Về cách thức thi đua, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là dựa vào “lực lượng của dân, tinh thần của dân," "làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều”, làm cho phong trào thi đua ái quốc “ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân." Người khẳng định kết quả của thi đua ái quốc sẽ là: “Toàn dân đủ ăn đủ mặc, toàn dân biết đọc biết viết, toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới để diệt ngoại xâm, toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn."
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua không chỉ nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả công tác, xây dựng những nhân tố tiên tiến, mà còn nhằm “nâng đỡ những người kém cỏi," loại trừ phẩn tử lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của sản xuất, của tiến bộ xã hội. Qua phong trào thi đua, quần chúng nhân dân hăng hái đi vào cuộc sống thực tiễn, tôi luyện và trưởng thành, để cho “mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sỹ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa."
 Nhờ có phong trào thi đua mà nhân dân ta không những nâng cao năng suất, mà còn gạt bỏ dần những thói hư, tật xấu của chế độ cũ; phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc; góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, đời sống mới. 
Thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước đã dấy lên các phong trào thi đua yêu nước rất sôi nổi và hiệu quả. Trên khắp các mặt trận, từ tiền tuyến đến hậu phương; trên khắp các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự…; ở khắp các giới, các ngành, các cấp.., đâu đâu cũng sôi nổi phong trào thi đua yêu nước. 
Lịch sử cách mạng thời kỳ này còn in đậm hình ảnh các phong trào thi đua: “Xây dựng chi bộ bốn tốt” trong Đảng; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp; “Cờ ba nhất” trong các lực lượng vũ trang; “Ba sẵn sàng” với thanh niên; “Ba đảm đang” với phụ nữ; “Làm nghìn việc tốt” trong thiếu nhi; “Trống Bắc Lý” trong giáo dục... 
Đúng như sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Người người thi đua, ngành ngành thi đua; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua." Thực tiễn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã minh chứng hùng hồn cho nhận định này của Người. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô tận, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này. 
Ra đời cách đây 70 năm, nhưng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang tính thời sự sâu sắc, vẹn nguyên những giá trị lý luận và thực tiễn đối với phong trào thi đua yêu nước hiện nay. Những chỉ dẫn của Người về mục đích, lực lượng, cách làm trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc vẫn tiếp tục soi đường cho dân tộc Việt Nam trên hành trình xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc, đến nay phong trào thi đua yêu nước đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phong trào thi đua đã ngày càng đi vào thực chất, đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và của các ban, bộ, ngành, địa phương. 
Nhìn chung, việc tổ chức phát động thi đua với hình thức phong phú, chủ đề rõ ràng, tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả. Phong trào thi đua đã chú trọng vào việc xây dựng các mô hình mới, nhân tố mới và thực hiện đồng bộ tốt cả bốn khâu: Phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến. 
Qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, điển hình của tập thể, cá nhân trong lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập... Kết quả đạt được từ các phong trào thi đua yêu nước là minh chứng thuyết phục cho việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc trong thời kỳ mới, đồng thời, cũng minh chứng cho sức sống vững bền, giá trị lan tỏa của Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực tiễn./.
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Dung, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
http://www.tuyengiao.vn/pages/detail/18/117386/Loi-keu-goi-thi-dua-ai-quoc-ven-nguyen-gia-tri-ly-luan-va-thuc-tien.html


LỢI DỤNG TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO ĐỂ BỊA ĐẶT, VU CÁO
Được tận mắt chứng kiến hằng ngày hàng triệu người dân vẫn đến các cơ sở tôn giáo để thực hành đức tin, tôi càng nhận ra rõ hơn về thói "đạo đức giả" của những người đang nấp dưới chiêu bài tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vu cáo Nhà nước Việt Nam.
Sau chuyến về thăm quê hương vừa qua, tận mắt chứng kiến sự phát triển của đất nước, được tiếp xúc với sự phong phú, đa dạng trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, từ CHLB Ðức, tác giả Hồ Ngọc Thắng có bài viết gửi Báo Nhân Dân. Bài viết thông qua sự cảm nhận và tìm hiểu của chính tác giả đã phê phán luận điệu của các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đã lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bịa đặt, xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Những năm qua, mỗi lần về thăm quê hương tôi đều cố gắng dành thời gian đến thăm nhiều vùng miền từ thành thị đến nông thôn, kể cả vùng hẻo lánh, xa xôi. Ði như vậy, tôi biết thêm nhiều điều về quê hương mình, tận mắt chứng kiến mọi người dân được hưởng quyền tự do, dân chủ như Hiến pháp quy định, nhất là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua chuyện trò, tâm sự của người thân, của bà con họ hàng, bạn bè và những người tôi đã gặp trên đường hoặc khi dừng nghỉ ở đâu đó, tôi hiểu ở Việt Nam, mọi người đều được tạo điều kiện thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không ai bị cản trở hay gặp khó khăn.
Là người làm nghề luật, tôi quan niệm để có đánh giá khách quan về thực trạng tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia phải nhìn nhận cả hai mặt: cơ sở pháp lý, thực tế đời sống tôn giáo của người dân. Về cơ sở pháp lý, ở Việt Nam, Ðiều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật". Quy định này được thể chế hóa qua sự kiện ngày 18-11-2016, kỳ họp thứ hai Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2018. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là bước tiến lớn trong chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Và để luật đi vào cuộc sống, giúp người dân, hiểu rõ hơn về quyền, nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 30-12-2017, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 162/2017/NÐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
Cũng như những lần về nước trước đây, không chỉ nắm bắt qua tin tức trên báo chí, vì muốn trực tiếp tìm hiểu đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của bà con quê nhà, tháng 5-2018, tôi đến thăm Vương cung Thánh đường La Vang, nơi được coi là Thánh địa và là một trong ba trung tâm hành hương quan trọng của người Công giáo ở Việt Nam. Vương cung Thánh đường La Vang tọa lạc tại Hải Lăng - Quảng Trị, năm 1972 từng bị bom Mỹ phá hủy hoàn toàn, hiện còn một phần là di tích tháp chuông. Tôi thật sự ấn tượng với Thánh đường có sức chứa 5.000 người đang trong quá trình xây dựng, được thiết kế theo phong cách kiến trúc Việt Nam truyền thống. Nắng nóng oi bức, song từng đoàn xe vẫn nối đuôi đưa những đoàn người Công giáo cũng như du khách từ mọi miền đất nước hành hương, thăm viếng nơi này. Tìm hiểu trên internet (in-tơ-nét) và tiếp xúc với người Công giáo ở địa phương, tôi được biết tại đây: năm 1995 tháp chuông, Nhà nguyện Ðức Mẹ đã được tu sửa; năm 2002 khánh thành Nhà nguyện Thánh thể; năm 2004 khánh thành Công trường Mân Côi, Lễ đài, Nhà hành hương. Năm 1998, tượng Ðức Mẹ La Vang mới đã thay thế cho pho tượng cũ. Pho tượng mới được Giáo hoàng Gioan Phaolô II làm phép ngày 1-7-1998 tại Roma, chuyển về Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 200 năm Ðức Mẹ La Vang. Năm 2008, chính quyền tỉnh Quảng Trị đã cấp lại cho Thánh địa 21 ha đất nhằm "phục vụ hoạt động tín ngưỡng của giáo dân" và Hội đồng Giám mục Việt Nam quyết định xây lại nhà thờ La Vang cho tương xứng một trung tâm hành hương. Ngày 6-1-2011, nghi thức đặt viên đá đầu do Hồng y Ivan Dias (I-van Ði-át) - Ðặc sứ của Giáo hoàng Benedicto XVI, và các Giám mục Việt Nam được tiến hành nhân dịp bế mạc Năm Thánh nhân 50 năm hàng giáo phẩm Việt Nam (1960 - 2010). Ngày 15-8-2012 đã diễn ra lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Vương cung Thánh đường dự kiến xây dựng trên mặt bằng có diện tích 13.464 m2. Khung cảnh sinh hoạt nhộn nhịp mà tôi chứng kiến hoàn toàn đối lập với đánh giá về vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam của một số thế lực, tổ chức ở phương Tây. Không nói đâu xa, từ sân bay quốc tế Nội Bài theo quốc lộ 1A đi về phía nam hoặc phía bắc, người đi đường đều có thể quan sát, nhận thấy hai bên đường thi thoảng có nhà thờ Công giáo khang trang với tháp chuông cao vút giữa nền trời. Cảnh quan đó giúp nhận biết mật độ nhà thờ Công giáo ở thành thị và nông thôn Việt Nam như thế nào. Nếu so sánh với châu Âu, nơi hằng năm hàng loạt nhà thờ bị phá dỡ do không còn nhu cầu sử dụng vì lượng giáo dân đã giảm trong các thập kỷ qua, thì không thể kết luận ở Việt Nam "không có tự do tôn giáo". Ngược lại điều đó đã phần nào cho thấy sự phát triển của đời sống tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay cũng như quyền tự do tín ngưỡng của người dân tại Việt Nam được công nhận và tạo điều kiện như thế nào.
Không chỉ ở La Vang, không chỉ đối với Công giáo Việt Nam, mà ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam với các bộ phận khác nhau của cộng đồng tôn giáo, những năm qua rất nhiều công trình hoành tráng như thế đã được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của hàng chục triệu người dân. Một nơi không xa La Vang mà tôi đến thăm lần này là TP Huế, nơi tôi có nhiều người họ hàng sinh sống. Thừa Thiên - Huế là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của cả nước. Hơn 60% số người dân của TP Huế theo đạo Phật, Phật giáo ở Thừa Thiên - Huế hiện có hơn 1.000 tu sĩ, gần 600 tu viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường. Có thể nói, mọi nơi của thành phố, dù ban ngày hay ban đêm, khách từ phương xa tới đều có thể chứng kiến khung cảnh hoạt động của tín đồ Phật giáo trong không khí an lành, hướng thiện. Cũng cần nhắc đến quần thể chùa Bái Ðính ở Ninh Bình, với khu chùa mới được xây dựng năm 2003, nơi tổ chức Ðại lễ Phật đản Liên hợp quốc - Vesak 2014 vào tháng 3-2014. Và như báo chí đã đưa tin, năm nào cũng vậy, đến dịp đầu năm, không quản mưa gió, hàng chục nghìn người lại hành hương về đất Phật Yên Tử (Quảng Ninh)… Phải khẳng định đó là những minh chứng hết sức sống động, phản ánh chân thực sự phát triển đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ở Việt Nam, đặc biệt cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được tôn trọng, được tạo điều kiện để phát triển, không có người dân nào bị gây phiền hà, sách nhiễu.
Từ những gì đã thấy, đã đọc, đã nghe, tôi rút ra kết luận rằng một số chính phủ ở phương Tây, một số tổ chức nhân danh dân chủ, nhân quyền không muốn xem xét, đánh giá vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam một cách khách quan. Vì các lý do khác nhau, trong đó chắc chắn có động cơ chính trị, họ muốn áp đặt cái gọi là "giá trị phương Tây" lên Việt Nam, cản trở sự phát triển của đất nước tôi, dung túng và o bế một số cá nhân có thái độ chống đối chính quyền… Từ đó gây sức ép đối với Nhà nước Việt Nam. Ðể thực hiện mưu đồ, họ sử dụng phương pháp cũ là khai thác luận điệu bịa đăt, vu khống của nhóm nhỏ cá nhân bất mãn, người có thái độ thiếu thiện chí hay thù địch với chính quyền để xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cuối những năm 90 của thế kỷ 20, phương pháp này được áp dụng tại các nước ở Ðông Âu. Tại đó, nhiều cuộc biểu tình, phản đối được khơi mào bởi các phần tử nấp dưới cái gọi là "tự do tôn giáo", nhà thờ bị lạm dụng làm nơi quy tụ lực lượng chống đối, muốn lật đổ chính quyền. Trước khi vào Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, tôi dừng chân ở Nghệ An và Hà Tĩnh, nơi thời gian gần đây đã có một số người hoạt động gây rối. Các phần tử quá khích trong Công giáo lợi dụng sự cố ô nhiễm môi trường biển liên quan Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa (Hà Tĩnh), để gây ùn tắc giao thông, phá hoại trụ sở chính quyền, gây thiệt hại về tài sản, thương tích cho nhiều người. Báo chí Việt Nam nhiều lần đưa tin về các vụ án, trong đó người bị tuyên án không phải vì theo một tôn giáo hay hoạt động cho tổ chức tôn giáo nào, mà là lợi dụng danh nghĩa giáo dân để vi phạm những điều luật ghi cụ thể trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam, và những quy định pháp luật khác. Rõ ràng, đây là hoạt động đội lốt tôn giáo để phá vỡ cuộc sống bình yên, cản trở hoạt động chung của toàn xã hội. Khi chính quyền thực thi các biện pháp trong khuôn khổ pháp luật để duy trì kỷ cương xã hội thì họ lu loa "chính quyền vi phạm tự do tôn giáo". Ở một vài giáo phận, một số vụ tranh chấp đất đai thuần túy mang tính dân sự đã bị người quá khích thổi phồng nhằm gây sức ép với chính quyền, đưa ra yêu cầu phi lý, gây rối tại cơ quan tư pháp, hành pháp ở địa phương. Báo chí cũng đã cho biết một sự thật không thể bỏ qua là thủ đoạn chống phá của các tổ chức thù địch ở nước ngoài. Họ không chỉ sử dụng internet để bịa đặt, dựng chuyện vu cáo mà còn chuyển tiền và tài liệu từ nước ngoài vào Việt Nam, lôi kéo người nhẹ dạ tham gia hoạt động lật đổ chính quyền, một số người được đưa ra nước ngoài để bồi dưỡng kỹ năng chống phá… Sống ở phương Tây nhiều năm, tôi khẳng định đó là việc làm mà bất cứ chính quyền ở một nước phương Tây nào cũng không bao giờ chấp nhận, luôn có biện pháp xử lý công khai, nghiêm khắc.
Được tận mắt chứng kiến hằng ngày hàng triệu người dân vẫn đến các cơ sở tôn giáo để thực hành đức tin, tôi càng nhận ra rõ hơn về thói "đạo đức giả" của những người đang nấp dưới chiêu bài tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vu cáo Nhà nước Việt Nam. Và khi đứng trước tháp chuông là di tích của một Vương cung Thánh đường tại Thánh địa La Vang đã bị bom tàn phá, tôi nghĩ đến câu hỏi: Một số tổ chức, chính quyền, thậm chí là ở quốc gia từng ném bom phá hoại nhà thờ đã thực lòng đấu tranh cho tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam như thế nào? Cũng như họ suy nghĩ gì khi tự cho mình có tư cách để phê phán một quốc gia đã cấp đất để xây nhà thờ?
Hồ Ngọc Thắng
http://www.tuyengiao.vn/pages/detail/10/117663/Loi-dung-tu-do-tin-nguong-ton-giao-de-bia-dat-vu-cao.html


GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA TRONG CHÍNH TRỊ
Chiều sâu của các giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh đưa đến cho chính trị chính là sức cảm hóa, sức thuyết phục từ trái tim đến trái tim, từ trái tim vĩ đại của một nhân cách vĩ đại tới trái tim của hàng triệu người dân bằng những lời nói, hành động tác phong giản dị, hàm súc, có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(1).
Vì vậy, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa trong chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cần thiết để chúng ta kế thừa, học tập và thực hiện trong bối cảnh mới hiện nay.
Định nghĩa khái quát về văn hóa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(2). Điểm đặc sắc và độc đáo trong định nghĩa này là Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến một vấn đề rất quan trọng: phương thức sử dụng các kết quả của sự sáng tạo. Đây chính là thước đo trình độ văn hóa của con người. Nếu phương thức sử dụng đúng, nó sẽ nhân đạo hóa đời sống xã hội.
Như vậy, văn hóa không đứng ngoài chính trị mà ở trong chính trị, gắn bó mật thiết với chính trị. Theo Hồ Chí Minh: “Có chính trị mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được”(3). Hồ Chí Minh xác định rõ: “Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Mục tiêu chính trị mà Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là “ham muốn tột bậc” và là “đề tài duy nhất” mà Người theo đuổi suốt cuộc đời. Đó chính là tư tưởng chính trị nhân văn, hành động chính trị nhất quán ở Hồ Chí Minh để phấn đấu cho một đất nước Việt Nam hòa bình, dân chủ và giàu mạnh, “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Để xây dựng hệ giá trị văn hóa trong chính trị, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Ngay sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa được thành lập đã tuyên bố: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”(4). Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, phát huy phong trào Bình dân học vụ, tiếp đến là Bổ túc văn hóa - một phong trào văn hóa giáo dục có tính chất rộng rãi nhất trên đất nước ta để tập trung xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí.
Quan điểm về văn hóa trong chính trị ở đây chính là văn hóa trong chính trị của quảng đại quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Muốn cho dân tộc phát triển thì phải diệt giặc dốt, nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hóa của nhân dân để nhân dân tham gia tích cực vào đời sống chính trị. Những tư tưởng chính trị vĩ đại và nhân văn của Hồ Chí Minh đã thống nhất với những tư tưởng lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Để xây dựng văn hóa trong chính trị, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến tư cách của đảng chân chính cách mạng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng… Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân…”(5).
Để đánh giá về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản, đế quốc và phong kiến, Hồ Chí Minh dùng chuẩn giá trị là Thiện và Ác với nhân dân để so sánh, làm rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa chính là cái Thiện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không có ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(6).
Đối với Chính phủ, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Chúng ta cần phải hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(7).
Điều mà Hồ Chí Minh quan tâm không chỉ là lĩnh vực hoạch định đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước mà Người còn đặc biệt đề cao đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên trước nhân dân. Đạo đức cách mạng là giá trị văn hóa cốt lõi của chính trị, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, dù ở bất kỳ cương vị nào.
Hồ Chí Minh đã xác định rõ trách nhiệm của cán bộ: “Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(8).
Vì vậy, Người khẳng định, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, trong đó tư cách của người cách mạng phải được đặt lên hàng đầu. Đây chính là giá trị đạo đức trong chính trị, một bộ phận trọng yếu của văn hóa trong chính trị. Hồ Chí Minh không chỉ đề cao đạo đức trong chính trị mà Người cũng rất đề cao phong cách, tài năng trong chính trị.
Hồ Chí Minh nhận xét rất đúng rằng: “Trong các hoạt động của chúng ta, nào chính trị, nào kinh tế, nào quân sự, văn hóa, chắc không thiếu những người có năng lực, có sáng kiến… Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc.
Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: “bắt buộc trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài”.
Ngay từ đầu thành lập Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Người khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều”(9). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa trong chính trị bao gồm cả việc đề cao đạo đức và tài năng (năng lực) trong chính trị. Những điều đó phụ thuộc vào công việc đào tạo, huấn luyện cán bộ, đảng viên.
Là người am hiểu sâu sắc văn hóa dân tộc và đặc điểm của cán bộ, đảng viên tham gia vào đời sống chính trị của đất nước, Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian để viết “Đời sống mới” (20-3- 1947) và “Sửa đổi lề lối làm việc” (10-1947) nhằm tuyên truyền, giáo dục và huấn luyện cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo và quản lý đất nước. Có thể nói, đây là những cuốn sách có tính cẩm nang đối với cán bộ, đảng viên và có ý nghĩa thời sự sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Hồ Chí Minh chỉ rõ năm đức tính tốt cần thiết làm nên đạo đức cách mạng là Nhân, Nghĩa, Dũng, Trí, Liêm. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì.
Để đảm bảo xây dựng văn hóa trong tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Đảng một mặt phải làm công việc giải phóng dân tộc, một mặt phải giáo dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hóa những phần tử xấu, sửa chữa những thói xấu còn lại. Phải cố gắng sửa chữa cho tiệt nọc các chứng bệnh, khiến cho Đảng mạnh khoẻ, bình an.
Theo Hồ Chí Minh, giá trị cốt lõi của người đảng viên chân chính là thực hiện bổn phận của mình gồm: “a) Suốt đời đấu tranh cho dân tộc, cho Tổ quốc. b) Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, trước hết. c) Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng. d) Kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng. đ) Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc. e) Cố gắng học tập chính trị, quân sự. văn hoá. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng”(10).
Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu phải nâng cao tính đảng của mỗi đảng viên. Tính đảng thể hiện ở việc phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; việc gì cũng phải làm cẩn thận, đến nơi, đến chốn; lý luận và thực hành phải đi đôi với nhau. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ các căn bệnh làm tổn hại đến rèn luyện tính đảng. Đó là các bệnh ba hoa, địa phương, ham danh vị, thiếu kỷ luật, cẩu thả (gặp sao hay vậy), xa quần chúng, chủ quan, hình thức, ích kỷ, hủ hóa, thiếu ngăn nắp, lười biếng. Mắc phải một trong những bệnh đó tức là hỏng việc. Vì thế, Người luôn đề cao,phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau sửa chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới phát triển được.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa; muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”(11). Theo Người, chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân đẻ ra các căn bệnh làm hại đến sự phát triển của đất nước.
Đối với Hồ Chí Minh, xác định giá trị văn hóa trong chính trị phải được cụ thể hóa đối với từng đối tượng cụ thể, từng ngành, từng lĩnh vực, từng lứa tuổi, từng giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội để có thể thực hành được trong đời sống.
Đối với Hồ Chí Minh, xác định giá trị văn hóa trong chính trị phải được cụ thể hóa đối với từng đối tượng cụ thể, từng ngành, từng lĩnh vực, từng lứa tuổi, từng giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội để có thể thực hành được trong đời sống.
Đối với ngành Công an, Hồ Chí Minh đã xác định tư cách người công an cách mạng là: “Đối với tự mình, phải cần kiệm liêm chính, Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tuỵ. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”. \
Đối với quân đội, Người yêu cầu: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”.
Đối với Thanh niên, Người căn dặn: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên”.
Đối với Thiếu niên, Người có năm điều dạy các cháu: “- Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào - Học tập tốt, lao động tốt - Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt - Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.
Đối với các cụ phụ lão, Hồ Chí Minh rất trân trọng và động viên các cụ: “Tuổi già nhưng chí không già/Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh”
Như vậy, con đường đi từ chính trị đến với nhân dân là con đường văn hóa - con đường vừa thuyết phục bằng trí tuệ và tình cảm để thu phục nhân tâm, vừa khích lệ được tính tích cực, chủ động của các đối tượng khác nhau tự vươn lên tham gia vào đời sống chính trị. Nhận thức sâu sắc và toàn diện tư tưởng về văn hóa trong chính trị ở Hồ Chí Minh giúp chúng ta có phương hướng và giải pháp cụ thể để xây dựng văn hóa trong chính trị ở thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư về xây dựng Đảng hiện nay. 
__________________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.128.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.3, tr. 431.
(3) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, 1997, tr.10.
(4) (6) (7) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 8, 56, 56-57, 99.
(5), (10) Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.2 (1945-1954), tr.199-200, 220.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.54-56. (11) Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Sđd, t.3, tr.276.
PGS.TS. Phạm Duy Đức
http://www.tuyengiao.vn/pages/detail/18/117760/Gop-phan-tim-hieu-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-van-hoa-trong-chinh-tri.html

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...