(TG)- Thực
hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và di huấn của Người về xây dựng một Đảng cách mạng
luôn phụng sự và liêm chính,
luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” không chỉ là tất yếu
khách quan, là yêu cầu và nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền mà còn là trách nhiệm
của những người cộng sản Việt Nam trước lịch sử, nhân dân và dân tộc, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, trách nhiệm
và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước Tổ quốc và Nhân dân.
Luôn chú trọng xây
dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng cách mạng phụng sự và liêm chính, được nhân dân tin yêu và ủy thác, vì thế,
trước khi đi xa, Hồ Chí Minh dặn lại trong Di chúc: “Đảng là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng.
Phải thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1].
TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH
Ngay từ khi chuẩn
bị chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu
mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định trong tác phẩm Đường Cách mệnh
(xuất bản năm 1927): “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành
công thì phải lấy dân chúng công nông làm gốc”[2].
Sau này, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công
nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta đại biểu cho
lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không
mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[3].
Lịch sử cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh rằng, cùng với mỗi bước ngoặt
của cách mạng, tình hình và nhiệm vụ của Đảng cũng có sự thay đổi. Song, ở đâu
và lúc nào, dù hoạt động bí mật hay đã cầm quyền, thì Đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng cũng luôn thấu triệt rằng: Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là
chủ, quyền là do nhân dân ủy nhiệm, nên đó phải là một Đảng luôn phụng sự
(dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ: phục vụ Tổ quốc[4])
và liêm chính (trong sạch, ngay thẳng: người liêm chính không có lòng tư
túi[5]),
để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân.
Trong di sản để
lại, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm của Người về yêu cầu xây dựng một
Đảng phụng sự và liêm chính qua các tác phẩm: Chính phủ là công bộc
của dân (19/9/1945); Sao cho được lòng dân (12/10/1945); Thư
gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945); Sửa đổi
lối làm việc (10/1947); Dân vận (15/10/1949); Tinh thần và trách
nhiệm (13/12/1951); Tự phê bình và phê bình (14/2/1952); Thực
hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (3/1952); Phải
xem trọng ý kiến của quần chúng (21/8/1956); Đạo đức cách mạng (12/1958);
Nói chuyện tại hội nghị thanh tra (5/3/1960); Một lòng một dạ phục vụ
nhân dân (18/1/1961); Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân (3/2/1969); Di chúc (1969),v.v..
Một
Đảng cách mạng chân chính luôn phụng sự Tổ quốc và nhân dân theo Hồ
Chí Minh phải tuân thủ 12 điều sau:
“1. Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho
Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết
lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ
thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở
các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần
chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất
cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần
chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ
nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng
những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng. Chẳng
những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ
vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho
hoạt bát. Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và
các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu
dài của dân chúng.
8. Đảng không che giấu những
khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình
mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người
rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ
những phần tử hủ hóa ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất
nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động
phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của
họ đối với Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại
những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy
thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến
lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[6].
|
Vì, “nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân vì dân là chủ”[7]
và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của
nhân dân”[8],
nên Hồ Chí Minh xác định Đảng Cộng sản Việt Nam phải là một Đảng liêm chính.
Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấm nhuần đạo đức cách mạng,
nhất là phải có và thường xuyên rèn luyện 5 đức tính tốt: “a) NHÂN là thật thà
thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống
lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân, vì thế mà sẵn lòng
chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham
giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. b) NGHĨA là ngay thẳng, không
có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng, ngoài lợi ích
của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất
cứ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc
phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng đúng
đắn. c) TRÍ là vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong
sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét
việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng
mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian. d) DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp
việc là phải có gan làm. Thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa. Cực khổ khó
khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa, phú quý, không chính
đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc. đ) LIÊM là
không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người
tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một
thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ”[9].
Mỗi cán bộ, đảng viên phải là vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ, công
bộc của nhân dân nên phải luôn “đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; Liên
hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải
thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình
trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân
dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi
theo. Cán bộ Đảng và chính quyền ta đều sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự
nhân dân”[10],
để được nhân dân tin yêu và gắn bó.
Đồng thời, để phụng
sự và liêm chính được tốt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh và yêu cầu mỗi cán bộ,
đảng viên phải thường xuyên rèn luyện tinh thần, ý chí: “Tuyệt đối trung thành
với Đảng, với nhân dân”, “ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng”; “là
quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên,
lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng
và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”; “vô luận trong
hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết” và
“hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến quần chúng”[11];
“vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch,
luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không
chịu cúi đầu”…
Tuy nhiên, sớm tiên
lượng nguy cơ suy thoái của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi được trao/ủy quyền,
Hồ Chí Minh chỉ rõ, “những người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung
ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét
nhân dân”. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng “tư túi”, không “dốc lòng phục vụ,
tận tụy phục vụ” Tổ quốc và nhân dân, Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[12].
Cụ thể, theo Hồ Chí Minh: Muốn liêm chính, “những người trong công sở
phải lấy chữ Liêm làm đầu… Mình là người làm việc công, phải có công
tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc
công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc
tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người tài năng,
làm được việc… Chớ lên mặt làm quan cách mệnh”[13]…
Đồng thời, để phụng sự tốt, mỗi cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”[14]
để không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội mà còn phải “luôn luôn quan tâm
đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của
nhân dân”, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Thực hiện theo
những chỉ dẫn của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng hệ thống tổ chức
Đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh về mọi mặt; xây dựng và phát triển đội
ngũ đảng viên vừa hồng, vừa chuyên, có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh
đạo, xứng tầm với nhiệm vụ được giao. Trong mọi thời điểm, Đảng đều tuân thủ
nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng Đảng: Tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh; đoàn kết thống
nhất; gắn bó mật thiết với nhân dân, v.v.. Đồng thời, mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên đã luôn kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong
tư tưởng và hành động; truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất và giữ kỷ
luật nghiêm minh; tính tiền phong gương mẫu, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn
gian khổ, chịu đựng hy sinh, phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của đội ngũ cán
bộ, đảng viên, v.v.. để xứng đáng với vai trò tiền phong, để làm tròn bổn phận phụng
sự và giữ nghiêm tính liêm chính.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG
ĐẢNG PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ
Là người sáng lập
và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng: “Tất cả các đảng cách mạng
đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết
nhìn rõ cái gì tạo ra sức mạnh của mình, vì sợ sệt không dám nói lên những
nhược điểm của mình”[15],
nên nhấn mạnh thang thuốc đặc hiệu để nhìn nhận, đánh giá khuyết điểm, sửa chữa
sai lầm chính là phải hằng ngày, liên tục tự phê bình và phê bình gắn với việc
kiểm tra và giám sát chặt chẽ từ chương trình hành động, kế hoạch của cấp ủy
đến của mỗi cán bộ, đảng viên. Thông qua đó, củng cố và tăng cường khối đoàn
kết, thống nhất trong nội bộ, nhất là ở bộ chỉ huy tối cao (Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư).
Cũng trên cơ sở
nhận thức sâu sắc rằng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, dạo đức, lối sống
của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, ở cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng
đầu nói riêng, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao sẽ làm cho sức chiến đấu của
Đảng bị tê liệt, nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân cũng vì
thế mà suy kiệt, nên trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn“trước hết nói
về Đảng” và chỉ rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”[16].
Không chỉ khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh còn từ sự tiên
liệu về sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên khi đất nước chuyển từ
thời chiến sang thời bình và căn dặn trong Di chúc việc phải làm trước
tiên là về Đảng. Thực tế, “chỉnh đốn lại Đảng” là yêu cầu khách quan, tất yếu,
là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho
mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to
lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[17].
Hơn nữa, vì “Đảng ta một đảng cầm quyền”, nên muốn ra sức làm tròn nhiệm vụ
trước Tổ quốc và nhân dân, muốn liêm chính và phụng sự trong tư
tưởng và hành động, Đảng phải tập trung thực hiện 3 nội dung chính: 1) “Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn
con ngươi của mắt mình”. 2) “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng
cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau”[18].
3) “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [19].
Đây chính là những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận
xây dựng một Đảng phụng sự và liêm chính; là văn hoá Đảng, là bản chất
tâm hồn và đạo đức dân tộc Việt mà Đảng là đại diện, đáp ứng yêu cầu của tình
hình và nhiệm vụ của một Đảng cách mạng chân chính.
Từ thực tiễn cách
mạng; từ tấm gương cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh cùng những lời căn dặn đầy tâm huyết của Người trong các trước tác, đặc
biệt là bản Di chúc lịch sử về công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã luôn tự chỉnh đốn, đổi mới để hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đã tránh được
những sai lầm cố hữu và những tổn thất do chủ quan duy ý chí, để đưa đất nước
ngày một phát triển. Sau 50 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được khẳng định.
Vai trò đó thể hiện rõ ở đường lối chính trị đúng đắn, ở sự kiên định con đường
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ở bản lĩnh chính trị vững vàng của đội ngũ
cán bộ, đảng viên khi dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận sai lầm, khuyết điểm và
quyết tâm sửa chữa vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; ở tinh thần chủ động đấu
tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch nhằm chống
phá cách mạng Việt Nam. Vai trò đó còn thể hiện ở quá trình Đảng lãnh đạo và tổ
chức nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, nhất là ở vào những
thời điểm cam go, bước ngoặt khó khăn, thử thách của cách mạng.
Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây
dựng một Đảng cách mạng phụng sự và liêm chính theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là: 1) Sự dao động chính trị, tha hóa đạo đức, sự mất ổn định vững
chắc về tư tưởng, tinh thần và sự nao núng, ngả nghiêng của một bộ phận cán bộ,
đảng viên trong tư tưởng và hành động trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc. Từ sự giảm sút niềm tin xã hội chủ nghĩa, “nhạt Đảng”, “nhạt
lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác-Lênin và
chủ nghĩa xã hội, về đường lối, chủ trương của Đảng,v.v.. dẫn đến không dám
hoặc không dám công khai đấu tranh với các quan điểm, hành vi trái với quan
điểm của Đảng. Thậm chí có người còn a dua, cổ súy cho những tư tưởng đó; mất
phương hướng tư tưởng, mất khả năng chủ động kiểm soát và điều chỉnh hành động
của mình dẫn đến rơi vào tình trạng khi tả khuynh khi hữu khuynh, khi tự phát manh
động khi phiêu lưu chính trị... 2) Thói thực dụng trong chính trị và đạo
đức, thể hiện trong tư tưởng, hành động và lối sống. Với những người này, những
gì mang lại lợi ích cho mình và phe nhóm mình là quan trọng nhất và trước hết
mà không cần biết tới lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Thậm chí, họ không
từ một thủ đoạn nào để chiếm đoạt cho lợi ích riêng của mình và phe nhóm
mình,v.v.. 3) Tham nhũng chính trị, tha hóa quyền lực khi tự cho mình quyền “sở
hữu”, “hiện thân” quyền lực chính trị mà nhân dân ủy thác, để trao đổi, ban
phát, trục lợi cho mình và nhóm lợi ích của mình, dẫn đến hình thành tệ nạn
gian dối trước cấp trên, cấp dưới và nhân dân; tệ ăn trộm chức quyền như lạm
quyền, lợi dụng quyền; tệ nạn chạy chức quyền, tuổi tác, luân chuyển, bằng cấp;
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Những thói hư, tật xấu của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không còn phụng sự và liêm chính như
Hồ Chí Minh căn dặn này đã dẫn đến tình trạng cánh hẩu, phường hội cát cứ, phe
nhóm lợi ích, địa phương chủ nghĩa theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối
sách”, hành xử theo lối “nói một đằng, làm một nẻo” miễn là lợi ta mà không
màng đến người chung quanh, xâm hại lợi ích chung, làm phân liệt ý chí và tan
rã sức mạnh của từng cơ quan, địa phương, đơn vị…
Vấn đề này, Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ” ngày 30/10/2016 đã chỉ
rõ; đồng thời, nhận diện và chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên hiện. Cụ thể là: “Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc
tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né
tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa,
đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm
tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”; “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu
sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ
quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức
xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”… Từ đó, Nghị quyết nhấn mạnh: “Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn
thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ
trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
Để khắc phục những
hạn chế nêu trên và để xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh luôn phụng
sự và liêm chính ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập
quốc tế, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất,
các cấp ủy Đảng, chính quyền và ban, ngành chức năng tại mỗi địa phương,
cơ quan, đơn vị tăng cường bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn để nâng
cao chất lượng công tác lãnh đạo và chỉ đạo (từ quán triệt đến đưa nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống) trên tinh thần: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh”. Nói đi đôi với làm và
phải luôn hướng về cơ sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa
vào dân để không chỉ đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết
các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan,
đơn vị mà còn củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân;
dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai,
nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng;
gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ"
với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với Quy định về những điều
đảng viên không được làm, với các quy định nêu gương,v.v.. Mỗi cán bộ, đảng
viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải thường
xuyên, liên tục rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống và quét sạch chủ
nghĩa cá nhân gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu,v.v.. theo chương trình hằng năm và đột xuất tại mỗi tổ chức cơ sở Đảng để
nâng cao tinh thần phụng sự và liêm chính.
Thứ ba,
xây đi đôi với chống: tập trung xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế phòng ngừa, kiểm
soát quyền lực, đảm bảo mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân gắn với
chống sự tha hóa quyền lực; đảm bảo công khai và minh bạch trong thực thi chức
năng, nhiệm vụ, trong thực thi quyền lực công theo phương châm cấp trên làm
gương cho cấp dưới noi theo; quyết liệt và nghiêm khắc trong công tác kiểm tra,
giám sát gắn với tự phê bình và phê bình, đảm bảo trên dưới phối hợp, trong
ngoài đồng bộ. Thông qua đó, một mặt ngăn chặn những biểu hiện tha hóa quyền
lực như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, kéo bè kết cánh, “đầu cơ
chính trị”, quan hệ “lợi ích nhóm”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa đọa về
đạo đức, lối sống v.v..; mặt khác, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên, phòng và chống sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, ngăn ngừa sự dao
động trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ tư,
tiếp tục xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước,
góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước,
địa phương nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Không để quyền làm chủ của nhân dân chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà phải là hành
động, là những việc làm cụ thể, phải tạo điều kiện và có cơ chế để thực thi
định chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thật sự và hiệu quả. Coi sự
đánh giá của nhân dân là thước đo, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá những
ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
mọi mặt công tác, nhất là trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ các cấp.
Thứ năm,
mở rộng và đổi mới công tác truyền thông để không chỉ định hướng đúng, kịp
thời, đảm bảo sức mạnh của công luận và nhân dân mà còn làm cho việc tuyên
truyền các tấm gương người tốt, việc tốt, lấy cái tích cực chống cái tiêu cực,
lấy cái đẹp dẹp cái xấu được nhân rộng trong cộng đồng bằng nhiều hình thức
phong phú. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, của cả hệ
thống chính trị tham gia công tác xây dựng Đảng; tham gia giám sát đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở mọi nơi, mọi lúc. Đẩy nhanh xét xử những vụ án tham ô, tham
nhũng nghiêm trọng trên tinh thần thấu triệt nguyên tắc pháp luật là thượng
tôn, kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng là tối thượng, để không chỉ kịp thời, công
minh, bình đẳng, đúng đắn đưa ra khỏi Đảng những kẻ sâu mọt không còn phụng
sự và liêm chính mà còn thiết thực làm trong sạch Đảng, làm cho Đảng
mạnh khỏe, chắc chắn như Hồ Chí Minh mong muốn.
Trích
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (bản công bố năm 1969):
TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn
kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. |
TS. Văn Thị Thanh
Mai
Ban Tuyên giáo
Trung ương
-----------
[1]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-612.
[2]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304.
[3]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.11 tr.607.
[4]
Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, 2008, tr. 1275.
[5]
Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, 2008, tr.926.
[6]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.289-290.
[7]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.7, tr.434.
[8]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.10, tr.453.
[9]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.292.
[10]Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ
3, Hà Nội, 2011, t.7, tr.177.
[11]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.11, tr.603-609.
[12]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.122.
[13]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.5, tr.123.
[14]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.11, tr.606.
[16]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616.
[17]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616.
[18]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611.
[19]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần
thứ 3, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-612.
http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/dang-phai-luon-phung-su-va-liem-chinh-121296