Hôm nay, tại Hà Nội-Thủ đô ngàn năm văn hiến và anh hùng,
hào hoa và thanh lịch; Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người; Thành phố vì
hòa bình, với tất cả niềm kính yêu và lòng biết ơn vô hạn, chúng ta long trọng
tổ chức Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 /
19-5-2020)-vị Cha già của dân tộc, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực, người bạn thân thiết của các dân tộc
yêu chuộng hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
"Dân
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh
hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và
non sông đất nước ta(1). Cuộc đời 79 mùa Xuân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khí
phách, lương tri của dân tộc và thời đại.
Sinh
ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An, một miền quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hấp thu tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng
thương dân sâu sắc và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của ông
cha. Chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, các cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp xâm lược của nhân dân ta theo các khuynh hướng cứu nước khác nhau
đều lần lượt thất bại, máu đào của biết bao các bậc tiên liệt và nhân
dân ta đã đổ xuống nhưng không giành được độc lập, tự do, Người nung nấu quyết
tâm đi tìm con đường mới để cứu nước, cứu dân.
Với
lòng yêu nước thiết tha và ý chí, khát vọng cháy bỏng giải phóng dân
tộc, ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh rời cảng Sài Gòn, bắt đầu hành
trình tìm đường cứu nước. Bằng nhãn quan chính trị đặc biệt, Người quyết
định sang phương Tây, nơi khởi nguồn của chủ nghĩa thực dân, quê hương của
các cuộc cách mạng tư sản, để tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ
"Tự do", "Bình đẳng", "Bác ái"; xem nước
Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào.
Bôn
ba khắp năm châu, bốn biển để nghiên cứu, tìm hiểu về các cuộc cách mạng điển
hình, kiểm nghiệm nhiều học thuyết, nhiều con đường đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân các nước thuộc địa, cuối cùng Người đã đến với Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tìm thấy ở đó ánh sáng chân lý của thời đại, con đường giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Người đã rút ra kết luận:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản"(2). Tiếp thu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Người đã dần dần xây dựng được một hệ thống lý luận về cách mạng
giải phóng dân tộc phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xác định đúng mục tiêu, con
đường, lực lượng tham gia, lực lượng lãnh đạo, cũng như phương pháp cách mạng
và tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng cách
mạng ở Việt Nam.
Mùa
xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thông
qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây là bước ngoặt lịch sử trọng
đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về đường lối chính trị và về tổ chức của
các phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng khẳng định tầm nhìn, vai
trò, bản lĩnh, trí tuệ và uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là cống hiến to
lớn và đầy sáng tạo của Người trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào
việc thành lập một đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sau
gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5-1941), quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng phù hợp với sự
thay đổi mau lẹ của tình hình quốc tế và trong nước, đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tổ chức vận động, tập hợp lực lượng toàn dân tộc; thành
lập Mặt trận Việt Minh; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa,
tạo nên các cao trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước.
Tháng
8-1945, với tư duy chính trị cực kỳ nhạy cảm và sắc bén, dự báo chính xác, phân
tích kịp thời và thấu đáo tình hình trong nước và quốc tế, nhận rõ thời cơ cách
mạng đã chín muồi, Người nêu quyết tâm "Dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc",
"đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã vùng
lên phá tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ
phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa-Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời
đại mới rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc-Thời đại Hồ Chí
Minh.
Sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở nước ta, bọn thù trong, giặc
ngoài cấu kết với nhau mưu toan lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ, hòng áp
đặt ách cai trị nước ta một lần nữa. Trước tình thế hiểm
nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân cùng một
lúc chống cả 3 thứ giặc: "Giặc đói", "giặc
dốt" và "giặc ngoại xâm". Với sách lược khôn khéo, linh
hoạt, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh,
hiểm nguy, trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", vừa tranh thủ thời
gian xây dựng lực lượng về mọi mặt, vừa ra sức bảo vệ, củng cố chính quyền
cách mạng mới được xác lập, còn rất non trẻ.
Trước
dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, ngày
19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, hiệu triệu toàn dân tộc đồng lòng, chung sức tiến hành cuộc
kháng chiến trường kỳ, với ý chí sắt đá: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng, theo ngọn cờ "kháng chiến, kiến quốc" Hồ
Chí Minh, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các kế hoạch quân sự của kẻ thù
mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu".
Kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng, nhân dân ta bước vào thời kỳ cách mạng mới, cùng một lúc thực hiện
cả hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở miền Bắc và
tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Trong
sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, cùng Đảng ta hoạch định đường lối
và lãnh đạo nhân dân ra sức đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), tăng
cường xây dựng Đảng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa (XHCN)… làm cho miền Bắc ngày càng vững mạnh về mọi mặt, trở
thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước là tâm nguyện cháy bỏng, là nỗi trăn
trở khôn nguôi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người từng nói: "Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song
chân lý đó không bao giờ thay đổi!"(3); "Miền Nam luôn ở trong trái
tim tôi". Trước lúc đi xa, Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta
bản Di chúc lịch sử trong đó khẳng định một ý chí mãnh liệt, một
quyết tâm sắt đá và một niềm tin tất thắng: "Dù khó khăn gian khổ đến mấy,
nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định
phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng
bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"(4). Thực hiện di huấn của
Người, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, làm
nên thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao
là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông
về một mối, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta-kỷ nguyên độc lập, thống
nhất, hòa bình, cả nước đi lên xây dựng CNXH.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và bạn bè quốc tế. Tên tuổi
và sự nghiệp của Người còn mãi với non sông đất nước ta, sống mãi trong lòng
dân tộc ta và trong trái tim nhân loại. Người để lại cho Đảng ta, nhân dân ta,
các thế hệ hôm nay và mai sau một di sản tư tưởng vô cùng quý báu,
một tấm gương đạo đức và phong cách, lối sống hết sức sáng ngời!
Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của cả một quá trình vận
dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý
báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; góp phần vào cuộc đấu
tranh chung của các dân tộc trên thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vạch ra con đường cách mạng sáng tạo, phù hợp với đặc thù của thực tiễn
cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người chỉ rõ, sau
khi giành được độc lập, cách mạng phải phát triển thành cách mạng XHCN thì
mới giành được thắng lợi hoàn toàn, vì có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi
ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
Xuất
phát từ điều kiện lịch sử của Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ, nước ta cần phải
trải qua thời kỳ quá độ, từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên CNXH bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp mới mẻ, chưa từng có tiền lệ
trong lịch sử, sẽ có vô vàn khó khăn, phức tạp phải vượt qua. Quá độ
lên CNXH ở nước ta phải làm dần dần, từng bước, không chủ quan, nóng vội;
phải biết tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới; tìm tòi,
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tìm ra cách thức, bước đi của thời kỳ quá độ và
con đường đi lên CNXH ở nước ta; phải luôn xuất phát từ điều kiện thực tiễn của
đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy
móc.
Để
giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng XHCN, xây dựng xã hội mới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng ta phải dựa vào lực lượng toàn dân, tổ chức, động
viên, phát huy được sức mạnh vĩ đại của toàn dân. Ý Đảng, lòng dân là cội nguồn
của sức mạnh đoàn kết, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một tư tưởng lớn, mang tầm
chiến lược trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối chính trị sáng
suốt, đúng đắn, nhất quán, Người luôn coi trọng xây dựng Mặt trận Dân tộc thống
nhất Việt Nam, lấy liên minh công-nông-trí thức do Đảng lãnh đạo làm nền tảng,
thành một thực thể chính trị to lớn, rộng rãi, vững chắc, tập hợp mọi lực
lượng, dân tộc, tôn giáo, mọi người dân Việt Nam yêu nước, hợp thành sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho mặt trận hoàn thành sứ mệnh vẻ vang
của mình trong tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Là
người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm
đặc biệt đến công tác xây dựng Đảng, để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh,
thật sự là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh.
Trong Di chúc, Người căn dặn, phải ra sức giữ gìn, củng cố sự đoàn kết
nhất trí của Đảng: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Trên tinh
thần phát huy dân chủ; nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; giữ vững
kỷ luật, kỷ cương; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân; thường xuyên chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải gắn với xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, xây dựng nền dân chủ XHCN. Người chỉ rõ: Nước ta là nước
dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều ở nơi dân;
dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân; thực hành dân chủ rộng rãi là
chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn,
phải lắng nghe tiếng nói của nhân dân, lấy dân làm gốc, "đem tài
dân, sức dân làm lợi cho dân".
Với
trí tuệ sáng suốt, tư duy chính trị nhạy bén, Người đã sớm nhận thức được đặc
điểm và xu thế phát triển của thời đại để từ đó gắn kết cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhân tố
quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng nước ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh và sự nghiệp cách mạng vô cùng phong phú, vĩ đại của Người không những là
tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của cách
mạng Việt Nam mà còn là đóng góp quý báu của Người vào sự nghiệp cách mạng của
các dân tộc bị áp bức trên thế giới, vào sự phát triển những tinh hoa tư tưởng
và văn hóa nhân loại.
Hồ
Chí Minh là Tấm gương sáng ngời, mẫu mực về đạo đức cách mạng. Người là
biểu tượng về ý chí, nghị lực và sự phấn đấu nỗ lực không mệt mỏi để vượt qua
mọi khó khăn, thử thách. Người luôn nêu gương sáng về tính kiên định, bản lĩnh,
lòng trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tấm gương gần dân,
tin dân, yêu thương, quý trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Người là hiện thân của tinh
thần khoan dung, nhân ái Việt Nam; biểu tượng của đạo đức cách mạng cao đẹp,
tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, là sứ giả của hòa bình, hữu nghị giữa
các dân tộc. Những phẩm chất đạo đức cách mạng cao quý của Hồ Chí Minh không
phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của cả một quá trình không ngừng tự tu
dưỡng, tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân mình. Vì thế, Người luôn căn dặn cán
bộ, đảng viên phải không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức để trở thành
những người chiến sĩ cách mạng mẫu mực. Người là hiện thân của nếp
sống giản dị, trong sáng, yêu lao động, coi khinh sự xa hoa, không một
chút ham muốn công danh phú quý cho bản thân. Cả cuộc đời Người dấn thân chỉ
với một mục đích "phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc
dân"(5). Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và
hành động, giữa lời nói và việc làm, đã trở thành lẽ sống tự nhiên. Mỗi cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta đều tìm thấy trong những lời dạy của Người và từ tấm
gương đạo đức cao đẹp của Người, từ phong cách Hồ Chí Minh những chuẩn mực cần
học tập, tu dưỡng, rèn luyện để mỗi ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, vươn tới
những giá trị văn hóa chân-thiện-mỹ trong cuộc sống.
Mỗi
thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với công lao
to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự soi đường, dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong sự nghiệp đổi mới, trước bao diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, với những khó khăn ở trong nước, Đảng ta đã kiên định Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn
đất nước và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước
nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển, có
thu nhập trung bình. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay; có thêm nhiều điều kiện, tiền đề thuận lợi
để vững bước trên con đường mà Đảng ta, nhân dân ta và Bác Hồ
kính yêu đã lựa chọn. Thành tựu của 35 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng ta dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của
thời đại.
Càng
phấn khởi, tự hào, chúng ta càng tuyệt đối không chủ quan, thỏa mãn với những
kết quả, thành tích đã đạt được. Đất nước ta vẫn đang đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức. Trong lãnh đạo, quản lý, trong tổ chức thực hiện, chúng ta
vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém; vẫn còn những vấn đề chưa được giải quyết
triệt để, nhiều điểm nghẽn chưa được tháo gỡ; trong khi những yêu
cầu, nhiệm vụ mới, thách thức và mâu thuẫn mới, những vấn đề lớn, phức tạp tiếp
tục phát sinh. Các thế lực thù địch vẫn luôn tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta; xuyên tạc, kích động, chia rẽ hòng làm tan rã Đảng
ta, chế độ ta. Sự bảo thủ, trì trệ; tư duy cục bộ, lợi ích nhóm; sự tha hóa
quyền lực, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tình trạng tham
nhũng, lãng phí, xuống cấp về mặt đạo đức và trách nhiệm xã hội... cũng là
những thứ giặc nội xâm vô cùng nguy hiểm, đe dọa vai trò lãnh đạo và
sứ mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, vận mệnh của đất nước, dân tộc. Những
khó khăn, hạn chế, khuyết điểm đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống
chính trị phải nghiêm túc nhìn nhận, có quyết tâm chính trị cao hơn nữa,
nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa để khắc phục cho bằng được.
Thấm
nhuần sâu sắc những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần
phải tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN thật sự "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân".
Phải tiếp tục phát huy truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng; ra sức phát huy dân chủ và quyền làm
chủ của nhân dân, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng "như giữ
gìn con ngươi của mắt mình" để Đảng ta mãi mãi "là đạo đức, là
văn minh"-như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xứng
đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân
dân.
Làm
theo chỉ dẫn của Bác về "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân", chúng ta cần kiên quyết, kiên trì và tích cực làm trong sạch đội
ngũ của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tình trạng "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; tiếp tục đưa việc đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở
thành sinh hoạt chính trị thường xuyên, trở thành một nhu cầu văn hóa trong
Đảng, trong dân. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu
gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn, nhất là người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị trong Đảng và trong bộ máy chính quyền lại càng
phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống,
phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi
theo, như lời Bác dạy: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền".
Chúng
ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm "Dân là gốc". Nhân dân
là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; thực hiện đúng nguyên tắc: Mọi
chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu. Trước hết, cần chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích
thiết thực của nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Lời Bác dạy "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" là bài học
sâu sắc, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng khi đất nước đang ở bước ngoặt có tính
lịch sử, cần huy động những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn để tiếp tục
bứt phá vươn lên. Thời gian qua, trong vô vàn khó khăn của dịch bệnh, thiên
tai, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn bản chất tốt đẹp của chế độ ta, của hệ
thống chính trị ở nước ta, sức mạnh của truyền thống yêu nước, của ý chí đoàn
kết, thống nhất hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, được thế
giới ghi nhận và đánh giá rất cao. Thực tiễn đó khẳng định giá trị to lớn của
lòng yêu nước, đạo lý nhân văn, tinh thần và ý chí Việt Nam; cơ sở rất
quan trọng để tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và tiền đồ
tươi sáng của dân tộc.
Chúng
ta kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng vào thời điểm
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình hình quốc tế và trong nước có
nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức đan xen,
đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần đoàn kết, phấn đấu với quyết
tâm cao và nỗ lực lớn, năng động, sáng tạo hơn nữa để hoàn thành thật tốt những
mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra, trước hết là khắc phục những thách thức và tác
động tiêu cực của đại dịch Covid-19, bảo đảm thật tốt an sinh và phúc lợi xã
hội cho nhân dân; đồng thời chủ động, nhạy bén nắm bắt thời cơ, phấn đấu hoàn
thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển KT-XH của năm 2020; từ đó góp phần
hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát triển KT-XH của nhiệm kỳ khóa XII và giai đoạn
2011-2020; chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
Tiếp
tục đi theo con đường cách mạng vẻ vang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
và nhân dân ta đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nguyện kế tục
trung thành và xuất sắc sự nghiệp vĩ đại của Người; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; xây dựng đất nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh", vững bước đi lên CNXH; để đất nước ta "ngày càng
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.
Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
Nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam muôn năm!
Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tập 15, tr.627.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.30.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tập 14, tr.532.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tập 15, tr.623.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tập 4, tr.272.