Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2019

LẬT MẶT "ANH HÙNG FACEBOOK" VÀ NHÓM "4 THIẾU" TRÊN MẠNG XÃ HỘI



Những năm gần đây, trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, cùng với những tiện ích hữu hiệu, mạng xã hội (MXH)-internet cũng mang đến không ít hệ lụy nguy hại.
Trong đó có việc một bộ phận cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) tham gia viết bài, phát ngôn, comment... thể hiện quan điểm sai trái, lệch chuẩn, cố tình bóp méo sự thật vì mục đích tư lợi cá nhân và lợi ích nhóm. Cùng với đó, không ít CB, ĐV do nhiều nguyên nhân khác nhau đã vô tình cổ xúy, like, share thông tin sai sự thật, gây bất lợi và ảnh hưởng xấu đến thành quả và tiến trình cách mạng. Đây thực chất là một căn bệnh mới phát sinh ở CB, ĐV, nhưng hậu quả đáng sợ gây ra đã được kiểm chứng trên thực tế, với xu hướng "lây lan" rất đáng báo động.
Tại hội nghị giao ban báo chí mới đây, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan chức năng tiếp tục công khai phê bình các tài khoản facebook của một số CB, ĐV vốn "có tên tuổi" vì đã đăng tin, viết bài sai sự thật, không đúng với quan điểm, chủ trương của Đảng; gây phương hại đến tình hình chung của đời sống xã hội và tâm lý nhân dân.
Đáng nói là chủ các tài khoản cá nhân này vốn là những đảng viên, cán bộ hưu trí "khá nổi tiếng"; từng giữ vị trí lãnh đạo, cương vị công tác quan trọng, lại có học hàm, học vị khá cao và nhất là có "uy tín" trên MXH. Những người này đã nhiều lần vi phạm, được nhắc nhở, phê bình nghiêm khắc, nhưng vẫn cố tình tiếp diễn với tính chất, mức độ ngày càng nguy hại; thể hiện thái độ bất chấp quy định pháp luật; thiếu thiện chí hợp tác với cơ quan chức năng; tỏ rõ cực đoan thông qua những nhận định, đánh giá mang nặng tư tưởng cá nhân, với thiên hướng tiêu cực. Họ tự nhận bản thân là hiền tài, cho mình cái quyền được "phán xử" mọi vấn đề nảy sinh từ thực tiễn xã hội; tỏ vẻ có kiến thức uyên thâm, năng lực bề trên đủ khả năng răn dạy, chỉ bảo đội ngũ CB, ĐV đương chức phải thay đổi thế này, thế nọ cho hợp với luân thường đạo lý và tuân mệnh lòng dân.
Việc góp ý cho các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, việc phát huy trí tuệ vì trọng trách "quốc thái, dân an" là cần thiết, đáng quý. Thế nhưng, đáng phê bình ở đây là văn phong của các chủ tài khoản này luôn thể hiện rõ thái độ trịch thượng, lời lẽ vô văn hóa, nội dung sai lệch, phiến diện. Các chủ tài khoản này tuy hoạt động có tính chất độc lập, được thẩm định là những người không bắt tay với các thế lực thù địch chống phá cách mạng, tuy nhiên, với mục đích thiếu tinh thần xây dựng, lật lọng, mưu cầu lợi ích riêng nên họ cũng ít nhiều bóp méo sự thật, “bôi đen”, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; cố tình nói xấu, vu khống, làm sai lệch những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của chế độ mà CB, ĐV và nhân dân ta đang nỗ lực vun đắp, xây dựng.
Với những biểu hiện "ảo" trên MXH, như: Không ngại đấu tranh, thẳng thắn phê bình, tỏ vẻ anh hùng thời cuộc, ra tay "cứu độ chúng sinh"; ban hiến nhiều kế sách vĩ mô, to tát... vì sự nghiệp cách mạng, nên họ thường sính danh và tự phong là những "anh hùng facebook". Thực chất, đây là những CB, ĐV đã ít nhiều "tự diễn biến", rơi vào cực đoan, bất mãn; mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân thuần túy, bị ảo tưởng về năng lực và sức mạnh bản thân, biểu hiện kiêu ngạo cộng sản và thích được làm người nổi tiếng, sính khoe mẽ...
Những hành động mà các CB, ĐV kiểu "anh hùng facebook" thực hiện trên MXH là rất nguy hại; dễ gây ra hiểu nhầm, làm sai lệch sự thật; ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh dự của Đảng, tổ chức, đơn vị; gây cản trở và làm chậm tiến trình thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới, xây dựng đất nước. Thế nhưng, nó càng nguy hại hơn khi trên không gian mạng lại xuất hiện thêm một bộ phận CB, ĐV vô tình cổ xúy, tán dương, ngợi ca, ủng hộ, like, share, tạo sự lan tỏa rộng khắp các nội dung, thông tin tiêu cực mà những "anh hùng facebook" sáng tạo, khởi phát trên MXH; dẫn đến tư tưởng, tâm lý xã hội bất ổn và gián tiếp tạo ra các nguy cơ gây mất an toàn chính trị-xã hội ngoài đời thực.
Thực tiễn đã kiểm chứng điều đó. Qua khảo sát thực tế thấy rằng: Một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc biểu tình gây rối an ninh chính trị nguy hại trên địa bàn tỉnh Bình Thuận và một số địa phương trong cả nước vào tháng 6-2018, xuất phát từ chính những tác động tiêu cực của MXH. Theo đó, cùng với hàng loạt âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng được lực lượng thù địch chuẩn bị từ trước, cộng với ý kiến phiến diện, trái chiều của một vài cán bộ "có tên tuổi" đưa lên MXH về Dự thảo Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc (lúc bấy giờ); quy chụp rằng “Đảng, Chính phủ Việt Nam bán đất tại 3 vị trí chiến lược là Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc cho nước ngoài với thời hạn 99 năm” đã tạo ra làn sóng phản ứng dữ dội trên không gian mạng. Điều đáng lo ngại là một số bài viết về dự luật này đăng tải trên các trang mạng không chính thống, không bảo đảm về độ chính xác lại được nhiều người, trong đó có không ít CB, ĐV chia sẻ, khi mà chính họ cũng chưa tìm hiểu sâu về dự thảo luật, chưa thẩm định thông tin. Trước những phát ngôn không đúng về dự luật, có màu sắc chống phá cách mạng, cố tình bóp méo sự thật, nhưng một số CB, ĐV thiếu hiểu biết vẫn hồn nhiên chia sẻ, tích cực “luận bàn thế sự” theo kiểu “thầy bói xem voi”, đã vô hình trung tạo ra những luồng dư luận xã hội tiêu cực trên MXH và đời sống tâm lý cộng đồng.
Hoặc cách đây không lâu, TP Hà Nội xin ý kiến về chủ trương mở rộng đường vành đai 3 (đường trên cao), đoạn kéo dài từ Hồ Tùng Mậu đi cầu Thăng Long. Chỉ việc nên di chuyển hàng cây xà cừ cổ thụ bằng cách nào và đi đâu đã xuất hiện không ít "chuyên gia đầu ngành" và không ít CB, ĐV có vị trí, chức tước (ở các vùng, miền khác nhau trong cả nước) hùng hồn nêu chính kiến, lớn tiếng phê phán, lên án, rồi "chỉ đạo, dạy bảo" tập thể Đảng bộ TP Hà Nội phải thế này, thế kia. Dư luận cũng vì thế mà được một phen sốt sình sịch, trong khi chủ trương của TP Hà Nội là hoàn toàn đúng đắn; người dân địa phương bày tỏ sự đồng thuận, nhất trí rất cao, vì đó là việc làm có lợi cho nhân dân, có ích cho Thủ đô và đất nước.
Như vậy, từ số ít các đối tượng "anh hùng facebook" tuy là chủ thể khơi mào cho những quan điểm, tư tưởng sai lệnh, nhưng chính sự mơ hồ, mất cảnh giác của một bộ phận CB, ĐV mới là nguyên nhân chính vô hình trung tiếp tay, châm ngòi cho các điểm nóng, sự vụ, sự việc diễn ra phức tạp trên không gian mạng. Cùng với đó, hệ quả lan truyền tiêu cực trên MXH đã khiến không ít người sử dụng tài khoản cá nhân có cảm giác: Cứ vào MXH là thấy toàn nghịch cảnh, chuyện sai trái; xã hội đầy rẫy màu đen; tương lai đất nước trở nên u ám; cuộc sống bế tắc, túng quẫn.
Nhìn nhận dưới góc độ tâm lý xã hội thấy rằng, nhóm CB, ĐV vô tình bị lôi kéo, hùa theo những ý kiến phản động, hoặc "tối kiến" của nhóm "anh hùng facebook" là những đối tượng bị rơi vào một trong các biểu hiện "4 thiếu" (thiếu tỉnh táo, thiếu thông tin, thiếu kiến thức và thiếu trách nhiệm). Trong đó, thiếu tỉnh táo có nghĩa là bản lĩnh không vững vàng, non nớt về chính trị; tâm lý a dua, hiếu kỳ, cách nhìn phiến diện, thiển cận... Thiếu thông tin: Việc nắm bắt thông tin chính thống chưa được coi trọng, thiếu toàn diện, biểu hiện chủ quan, cảm tính; thấy cây không thấy rừng; thấy một mặt, một bộ phận mà không thấy đại cục, toàn diện... Thiếu kiến thức: Ít vốn lý luận; thế giới quan, phương pháp luận chưa sâu sắc toàn diện; hiểu biết chính trị và kiến thức tổng hợp ít ỏi, khuyết thiếu; kinh nghiệm non nớt, không sâu rộng... Và cuối cùng là thiếu trách nhiệm: Cán bộ vô tổ chức, ý thức kỷ luật thấp; không biết tự đặt vấn đề, tự suy nghĩ, lập luận xem mình có nên hay không nên thực hiện một thao tác, thể hiện một quan điểm cá nhân lên MXH; chưa đủ khả năng thẩm định, xét xem việc làm của bản thân có lợi hay bất lợi cho tổ chức, đơn vị, bản thân.
Để tỉnh táo, sáng suốt làm tốt nhiệm vụ đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, các quan điểm xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, không bị tha hóa trở thành những "anh hùng facebook" hay những kẻ mắc bệnh "4 thiếu", trước hết, mỗi CB, ĐV phải không ngừng nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để củng cố vững chắc thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng trong nhận thức, phân tích, đánh giá và hoạt động thực tiễn. Phải tích cực học tập, nghiên cứu, quán triệt đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước trên mọi lĩnh vực, phương diện. Kết hợp chủ động nghiên cứu nâng cao năng lực chuyên môn, tạo dựng nền tảng tri thức chính trị-xã hội đúng đắn, khoa học, cách mạng; đủ trình độ, khả năng nhận diện, phản biện, đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động trên MXH và phân định chính xác đúng-sai, tốt-xấu, bản chất-hiện tượng, chính thống-bịa đặt, sai lệch... trong “biển thông tin” chưa rõ thực hư trên MXH.
Vấn đề quan trọng nữa là đội ngũ CB, ĐV phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng và phong cách tư duy, phong cách ứng xử, làm việc khoa học, khách quan, quần chúng theo tấm gương sáng ngời Hồ Chí Minh. Từ đó, mỗi người tự hình thành, hoàn thiện kỹ năng phân tích, đánh giá, phản biện, đấu tranh vừa lịch sự, khiêm tốn, trí tuệ, thuyết phục; vừa kiên quyết, triệt để, tiến công đến cùng… Từng người phải xây dựng cho mình "hệ thống miễn dịch" vững chắc, phấn đấu trở thành người chiến sĩ đi tiên phong trên lĩnh vực đấu tranh tư tưởng chính trị; góp phần xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trên MXH. Cùng với đó, CB, ĐV phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; thẳng thắn góp ý, không để đồng chí, đồng đội rơi vào "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", bị chệch hướng tư duy, sai lệch nhận thức; chủ động "kéo" đồng đội về phía tổ chức, để không bị các lực lượng chống phá mua chuộc, dụ dỗ.
Trong sinh hoạt, công tác, các ấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, kịp thời thông tin trao đổi, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn từ những thông tin xấu xa, độc hại của các thế lực thù địch, phản động và sự sai lệch, sai phạm của các "anh hùng facebook" trên MXH. Đối với những đối tượng không thể áp dụng các biện pháp vận động, giáo dục cần nghiêm trị bằng kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước và các quy định hiện hành. Đặc biệt, với chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan tuyên giáo cần chủ động hơn nữa trong cung cấp thông tin chính thống, hướng dẫn cơ quan, đơn vị và đội ngũ CB, ĐV chấp hành nghiêm các quy định trong sử dụng, khai thác thông tin trên MXH. Từng cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện nghiêm những quy định của Đảng, Nhà nước, các quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật công tác; nhất là phải nắm vững và tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng hiện hành. Mỗi CB, ĐV cần biến trang MXH, tài khoản cá nhân của mình thành một địa chỉ tin cậy, kênh thông tin, tuyên truyền thường xuyên thông tin chính thống; đồng thời chủ động, tích cực tham gia phân tích, bình luận, chia sẻ các bài viết và phản ánh, ngợi ca gương người tốt, việc tốt, mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương, để nhất quán phương châm "lấy đẹp dẹp xấu", làm cho cái tốt, cái hay trở thành thông tin chủ đạo trên MXH.
Nguồn: QĐND


KHÔNG MẮC MƯU LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG LÀ ĐỂ “XOA DỊU DƯ LUẬN”



Ngay sau phiên họp thứ 16 của Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng tổ chức cuối tháng 7-2019, một số phần tử chống đối, bất mãn chính trị “phát biểu” văng mạng trên báo, đài nước ngoài, mạng xã hội, cho rằng: Phòng, chống tham nhũng là để “xoa dịu dư luận”, là cớ để các phe, nhóm “đấu đá” quyền lực. Để không mắc mưu, cán bộ, đảng viên phải tiếp tục nắm chắc thông tin, đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; giải thích cho nhân dân hiểu rõ bản chất của vấn đề.
1. Xưa nay, xã hội không lạ gì những đối tượng ra sức chống phá Đảng và Nhà nước chỉ nhằm một mục tiêu là hướng lái Việt Nam từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng ta. Trong khi Đảng, Nhà nước đang đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng thì luận điệu của những đối tượng này vẫn vậy.
Một giảng viên đại học nghỉ hưu đã trả lời phỏng vấn Đài RFA ngày 29-7 rằng, việc Đảng xử lý kỷ luật một số cán bộ, đảng viên như hiện nay chỉ là bề nổi, nhằm mục đích “xoa dịu dư luận”. Ông này phân tích, các quan chức “coi trời bằng vung” có ở khắp Việt Nam nên việc xử lý của Đảng chỉ như muối bỏ biển và mang tính đấu đá phe nhóm, nhằm chiếm quyền, đoạt ghế.
Ngoài ra, ông ta “dẫn chứng” về biểu hiện “tư bản thân hữu” thông qua việc một số chủ doanh nghiệp vênh vang, đe dọa người tố cáo những biểu hiện vi phạm pháp luật.
Đối tượng này lấy ngay trường hợp lãnh đạo Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại dịch vụ Đất Lành Vũ Anh Cường có hành vi sàm sỡ hành khách nữ trên máy bay làm ví dụ, dù không đưa ra được căn cứ chứng minh người này có mối quan hệ thân thiết với cán bộ nào. Hay nhân việc bị can Trần Bắc Hà (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam) tử vong trong khi bị tạm giam, các đối tượng xấu lại tung tin và đặt điều vu khống là do phe cánh đấu đá nên phải “giết người diệt khẩu”...
Một nhân vật tự xưng là “nhà báo tự do” đang sống ở Khánh Hòa thì khẳng định với RFA rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo đất nước thì tham nhũng, xấu xa, hư hỏng về đạo đức của “quan cách mạng” vẫn còn dài dài và việc làm của Đảng ta thời gian qua cũng chỉ như “dã tràng xe cát Biển Đông”…
Có thể nói, tất cả những bình luận, quan điểm mà các phần tử chống đối, bất mãn chính trị đưa ra khi trả lời báo, đài nước ngoài, viết trên mạng xã hội… đều thiếu chứng lý thuyết phục, mang tính quy chụp, cố tình không thấy hết những nỗ lực của toàn Đảng trong công cuộc phòng, chống “giặc nội xâm”.
Trong các thông tin đưa ra, các đối tượng này luôn lộng ngôn: Việt Nam muốn tiến lên, nhân dân muốn có cuộc sống giàu có thì phải mở rộng dân chủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và tam quyền phân lập...
Thủ đoạn đó cũng chẳng có gì mới và đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII): Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình", lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; đồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn…
2. Thực tế cho thấy, việc phòng, chống tham nhũng không chỉ có ở Việt Nam mà diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới, bởi tham nhũng là “con đẻ quái thai” của bất kỳ chế độ và nhà nước nào. Ngay như Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), nơi những “nhà dân chủ”, “nhà báo tự do” tự phong bất mãn trong nước rất sủng ái cũng xảy ra rất nhiều vụ tham nhũng.
Gần đây nhất, các cơ quan chức trách Mỹ đã điều tra, phát hiện Glenn Francis, chủ Công ty Glenn Defense Marine Asia hối lộ lực lượng hải quân nước này với số tiền lớn trong thời gian dài. Trong đó, cựu chỉ huy Troy Amundson, người nắm quyền kiểm soát các cuộc tập trận của hải quân Mỹ từ tháng 5-2005 tới tháng 5-2013 đã thừa nhận việc nhận tiền hối lộ và phải đối diện với mức án 5 năm tù.
Hay theo báo cáo về tham nhũng của đảng Xanh châu Âu vào cuối năm 2018, các quốc gia thành viên EU mất tới 900 tỷ euro (khoảng 1.000 tỷ USD) mỗi năm vì tham nhũng. Trước đó, vào năm 2014, EU xác định tham nhũng gây thiệt hại khoảng 120 tỷ euro mỗi năm…
Như đã biết, trong công tác phòng, chống tham nhũng, Đảng ta đã có chủ trương xử lý thông qua nhiều nghị quyết, chỉ thị và quy định. Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng và đã sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn cùng nhiều văn bản liên quan khác.
Từ sau Đại hội XII tới nay, với chủ trương xử lý tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; cuộc chiến phòng, chống tham nhũng đã thu được kết quả tốt, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Theo thống kê, từ đầu nhiệm kỳ khóa XII tới nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 490 tổ chức Đảng và 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Ngoài ra, có hơn 70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị thi hành kỷ luật Đảng và xử lý hình sự. Không ít những người này bị kỷ luật do có liên quan đến tham nhũng và con số này chắc chắn chưa phải là kết quả cuối cùng…

Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng (tháng 6-2018), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng khẳng định: Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn; có lý, có tình, thể hiện rõ quan điểm “Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền”... Việc nguyên Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh và nhiều nguyên lãnh đạo cấp cao khác bị kỷ luật cho thấy quyết tâm và tính hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bản chất của tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, là tham lam, là trộm cướp”. Còn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thì khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả những người là lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng”.
Như vậy, mấu chốt của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân phát tác và hệ thống pháp luật kiểm soát quyền lực chưa tốt. Đó là hành vi phản đạo đức, đi ngược lại bản chất của chế độ chính trị chứ không phải do thể chế chính trị sinh ra. Muốn có một bộ máy nhà nước tinh, gọn, mạnh như nghị quyết Đảng gần đây đã xác định thì việc quyết liệt phòng, chống tham nhũng là đương nhiên, không phải bàn cãi.
Ở Việt Nam hiện nay, phòng, chống tham nhũng là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” thực sự chứ không phải là chiêu trò “xoa dịu dư luận” hoặc đấu đá phe nhóm quyền lực như những đối tượng bị “ngáo” bởi tư tưởng dân chủ phương Tây vẫn huyễn hoặc, lừa bịp dư luận.
Rõ ràng, đây là những âm mưu thâm độc, nguy hiểm với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi và mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần phải đề cao cảnh giác, nhận diện, kiên quyết đấu tranh./.
Đức Tâm/Hà Nội mới

LỢI ÍCH CỦA TỪNG TÔN GIÁO GẮN LIỀN VỚI LỢI ÍCH QUỐC GIA



Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nguyên tắc chung là phải nhìn nhận và giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo trên tinh thần thượng tôn pháp luật và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 
Sáng 9/8, tại thành phố Đà Nẵng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tới dự cuộc gặp mặt, biểu dương chức sắc, chức việc tôn giáo có đóng góp tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là lần thứ hai trong vòng gần ba năm qua Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có buổi gặp gỡ, làm việc với các chức sắc tôn giáo cả nước.
Cuộc gặp lần thứ nhất diễn ra vào tháng 12/2016 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cùng dự buổi gặp mặt có các Ủy viên Bộ Chính trị: Trương Thị Mai, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương; Trương Hòa Bình, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ. Tham dự còn có Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn và lãnh đạo các ban, bộ, ngành trung ương.
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Phát biểu mở đầu cuộc gặp mặt, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao Ban Tôn giáo Chính phủ đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và tổ chức chu đáo buổi gặp mặt với sự tham dự của 126 vị chức sắc, chức việc tiêu biểu của 43 tổ chức tôn giáo ở Việt Nam.
Thủ tướng cho rằng mỗi tôn giáo ở nước ta tuy có lịch sử hình thành và đặc điểm khác nhau, nhưng đều tồn tại trong lòng dân tộc. Lợi ích của từng tôn giáo cũng gắn liền với lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Chính vì vậy, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo là những chủ trương cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo.
TÍCH CỰC THAM GIA XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Theo Báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, đến tháng 8/2019 Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo với khoảng 26 triệu tín đồ; gần 56 nghìn chức sắc, 145.721 chức việc, 29.396 cơ sở thờ tự tôn giáo; khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 3.000 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các cấp xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt là cùng chung tay với Nhà nước chăm lo cho người có công với nước, cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn.
Nhiều hoạt động đối ngoại tôn giáo đã góp phần giới thiệu đất nước, con người, lịch sử văn hóa của Việt Nam đến bạn bè thế giới, khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam tôn trọng và đảm bảo quyền dự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong số đó phải kể đến các sự kiện như Giáo hội Tin lành tổ chức thành công lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành (tháng 12/2017); Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức thành công Đại lễ Phật Đản Liên Hợp quốc – Vesak 2019 (tháng 5/2019); Giáo hội Công giáo Việt Nam tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới tại Đồng Nai (tháng7/2019)…
Đáng chú ý, hiện nay trên địa bàn cả nước có trên 500 cơ sở y tế, phòng khám, chữa bệnh từ thiện do các tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức như Tuệ Tĩnh Đường, Trạm xá, Phòng khám đa khoa…
Các cơ sở y tế này khám, bốc thuốc cho hàng vạn lượt bệnh nhân, ưu tiên cho những bệnh nhân nghèo, khó khăn với tổng kinh phí hàng trăm tỷ đồng.
Cả nước hiện tại có khoảng gần 300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương; 12 cơ sở dạy nghề thuộc các tổ chức tôn giáo…
PHÁT HUY NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
Sau khi lắng nghe những ý kiến tâm huyết, đề xuất, kiến nghị của đại diện các tổ chức tôn giáo tại buổi gặp mặt, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, các ý kiến góp ý trong cuộc gặp mặt là thiết thực, góp phần để Trung ương triển khai có hiệu quả hơn nữa chính sách pháp luật nói chung và đặc biệt là chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, việc đạo, việc đời ở Việt Nam.
Thủ tướng giao Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan tiếp thu, nghiên cứu các ý kiến để tham mưu cho Chính phủ, nhất là những kiến nghị thực tiễn, những ách tắc, khó khăn của các tôn giáo trong quá trình thực thi việc đạo, việc đời.
Thủ tướng nhận xét, đa số các chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo đều có tinh thần yêu nước, đoàn kết gắn bó với dân tộc, thực hiện tốt vai trò, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân.
Những điểm tương đồng giữa tôn giáo với xã hội, giữa giáo lý, giáo luật với các quy định pháp luật của Nhà nước ngày càng được phát huy; mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã gắn bó chặt chẽ; đồng bào các tôn giáo đoàn kết cùng nhân dân cả nước phấn đấu cho sự nghiệp xây dụng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tổ chức tôn giáo được công nhận đều cơ bản hoạt động theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn bó đồng hành cùng dân tộc, phát huy được những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong dời sống xã hội.
Các tôn giáo luôn tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước; chức sắc tôn giáo gương mẫu thực hiện và vận động tín đồ chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, bài trừ hoạt động mê tín dị đoan...
Nhiều khu dân cư ở vùng có đông đồng bào theo các tôn giáo đã có nhiững phong trào thi đua với mô hình hay và cách làm sáng tạo, đã có nhiều tấm gương, hình ảnh “tốt đời, đẹp đạo” trong cộng đồng, trở thành điểm sáng về phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống ma túy...
Thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao và ghi nhận những đóng góp của các tôn giáo ở Việt Nam.
CHƯA KHƠI THÔNG VÀ PHÁT HUY HẾT NGUỒN LỰC
Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng cũng đề cập đến những khó khăn, thách thức cần khắc phục, giải quyết trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng như hoạt động của các tổ chức tôn giáo.
Cụ thể là hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ; cơ chế, chính sách vẫn còn chồng chéo và có bất cập; việc triển khai thực hiện một số nội dung của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo còn lúng túng, thiếu thống nhất trong xử lý; chưa khơi thông và phát huy hết nguồn lực của tôn giáo để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thủ tướng chỉ rõ, một số cấp chính quyền có nơi, có lúc còn thiếu quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xử lý vi phạm pháp luật ở một số địa phương còn hạn chế; công tác quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng liên quan đến tôn giáo chưa hiệu quả...
Cùng với đó, trong đời sống xã hội vẫn còn một số hiện tượng tín ngưỡng mới, tà đạo hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi, trái thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian, tiền bạc của nhân dân.
Ở đâu đó vẫn còn tình trạng lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÍNH PHỦ
Điểm lại những thành tựu lớn của đất nước trong tiến trình hội nhập, Thủ tướng nêu rõ, bối cảnh hiện nay đòi hỏi sự chung tay của cả hệ thống chính trị, của các cấp các ngành và toàn xã hội, trong đó có vai trò quan trọng của các chức sắc chức việc, nhà tu hành và đồng bào theo tôn giáo nhằm huy động, kết nối mọi nguồn lực trong nước và quốc tế trên nền tảng giá trị văn hóa con người Việt Nam.
Trên tinh thần đó, Thủ tướng mong muốn quý vị chức sắc, chức việc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo tiếp tục cùng đồng hành với Chính phủ và chính quyền các cấp, gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy; hướng dẫn, động viên chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo thực hiện đúng phương châm, đường hướng hành đạo gắn bó đồng hành với dân tộc.
Các chức sắc, chức việc cần phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng cùng giải quyết những khó khăn, vướng mắc với tinh thần xây dựng, thiện chí và khách quan.
“Nguyên tắc chung là phải nhìn nhận và giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo trên tinh thần thượng tôn pháp luật và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tôn giáo của mọi người dân” - Thủ tướng nói.
Thủ tướng cũng đề nghị các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và lãnh đạo các tổ chức tôn giáo tiếp tục phấn đấu làm gương để quần chúng, tín đồ noi theo, nêu gương văn hóa từ bi, bác ái, xây dựng mối quan hệ đạo-đời hòa hợp.
Các chức sắc, chức việc của các tôn giáo cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp bảo đảm hoạt động tôn giáo theo đúng tôn chỉ, đường hướng, hiến chương, đúng pháp luật; đề xuất những hoạt động phát huy nguồn lực của tổ chức tôn giáo, tham gia tích cực hiệu quả các hoạt động xã hội, nhất là các lĩnh vực thế mạnh của tôn giáo như: y tế, văn hóa, giáo dục, dạy nghề, từ thiện xã hội, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường....
Đi liền với đó là các chức sắc, chức việc không được để xảy ra các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo mê tín dị đoan, trục lợi, gây bức xúc trong xã hội, chia rẽ nhân dân, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; nêu cao tinh thần cảnh giác, không để các thế lực lợi dụng chống phá chính sách “dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo,” cản trở Việt Nam trong hội nhập và hợp tác quốc tế.
Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ, ngành chức năng cần tập trung cho công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, chỉnh sách pháp luật vê công tác tôn giáo, phát huy vai trò tích cực của các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thủ tướng nhấn mạnh những kết quả tích cực trong khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trong những năm qua đã tiếp thêm động lực để cả nước phấn đấu hoàn thành thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà một trong những nguồn động lực đó phải bắt nguồn từ sự phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của của nhân dân./.
Quang Vũ-Nguyễn Sơn (TTXVN)

GIÁM SÁT MẠNG XÃ HỘI – CUỘC CHIẾN ĐẦY THÁCH THỨC



Nhiều nước đang quyết liệt nâng cao năng lực phân tích và giám sát mạng xã hội. Đây là một công việc hết sức phức tạp, khó khăn trên nhiều phương diện, cả về kỹ thuật, tài chính và pháp lý.
NHỮNG CÔNG NGHỆ VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁM SÁT MẠNG XÃ HỘI
Những năm gần đây, đăng thông tin sai sự thật, hình ảnh phản cảm, lừa đảo trên internet, mạng xã hội đã trở thành vấn nạn gây bất an cho toàn xã hội. Tuy nhiên, việc giám sát mạng xã hội lại không hề đơn giản, cả về phương pháp và công nghệ, nguồn lực, nhân sự cũng như các chế tài, quy định pháp luật… Thế giới đang thúc đẩy nghiên cứu cho sự ra đời nhiều công cụ, phần mềm giám sát thông tin trên mạng xã hội nhằm vào nhiều mục tiêu khác nhau. Các phương pháp giám sát mạng xã hội tiếp cận dựa trên những yếu tố cơ bản như:
Phân tích mạng lưới xã hội (SNA): bao gồm việc nhận dạng và hiển thị hình ảnh các cấu trúc xã hội, sử dụng kiến thức của các ngành như tâm lý học, nhân học, lý thuyết đồ thị trong toán học. Dùng thuật toán để tự động phát hiện các cộng đồng trong một đại tập hợp dữ liệu mạng xã hội.
Công chúng: loại phân tích này tập trung vào một nhóm người cùng quan tâm tới một vấn đề và sử dụng một diễn ngôn chung trên mạng xã hội để tranh luận.
Phân tích từ vựng: phương pháp phân tích văn bản được phát triển từ nghiên cứu ngôn ngữ học khối liệu (corpus linguistics). Thông qua các đánh giá số liệu, phân tích từ vựng đếm tần suất của từ, khoảng cách giữa các từ và những đặc tính khác để phát hiện cấu trúc, khuôn mẫu trong dữ liệu văn bản. Người ta chủ yếu dùng nó để xác định thực nghiệm xem một tập hợp văn bản muốn nói gì, thông qua những từ được cố ý dùng nhiều hoặc ít, qua sự liên kết giữa các từ.
Mạng xã hội đã được nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế sử dụng để giám sát và tập hợp tin tức tình báo từ các công dân đơn lẻ và các nhóm cố kết. Thông qua mạng xã hội, người ta có thể dựng nên sơ đồ về mối quan hệ của mỗi cá nhân, cùng những tương tác trên mạng xã hội sẽ giúp nhận dạng thành viên của một nhóm tổ chức nào đó.
Phân tích lập trường: Đó là một phiên bản tinh vi và chi tiết hơn của phân tích cảm xúc. Phân tích lập trường khảo sát tần suất của các hạng mục từ và cụm từ (ví dụ như tức giận, buồn bã, tương lai, quá khứ, tính chắc chắn, tính bất ổn). Nó rất hữu ích trong việc trả lời những câu hỏi văn hóa - xã hội về thái độ, tình cảm, giá trị.
Định vị địa lý và tham chiếu địa lý: đây là hai phương pháp thuần - địa lý để xác định nguồn gốc của một thông điệp mạng xã hội. Định vị địa lý dùng tín hiệu từ GPS và có tính chính xác cao; nhưng người dùng thường tắt tính năng này. Tham chiếu địa lý có thể thu về một mẫu dữ liệu lớn hơn, bằng cách dùng siêu dữ liệu (metadata) để truy ra vị trí của người đăng tải.
Các mạng neuron sâu DNN: giúp máy tính thực hiện các tác vụ phân loại, qua việc chia nhỏ các nhóm trừu tượng, phức tạp thành các lớp nhỏ hơn. 
Giám sát mạng xã hội để ngăn chặn mạng lưới khủng bố và tội phạm
Năm 2015, một trong những chiến dịch ném bom của quân đội Mỹ nhằm vào trụ sở của Nhà nước Hồi giáo tự xưng ISIL ở Iraq đạt kết quả thành công, xuất phát từ một bài viết trên mạng xã hội. Người đăng thông tin này đã vô tình gắn “thẻ địa lý” (một tính năng của mạng xã hội) trong bài viết của mình, và ngay lập tức nó trở thành dấu vết để các chuyên gia phân tích lần ra sào huyệt của những kẻ khủng bố.
Dung lượng và phạm vi thông tin trên mạng xã hội khiến nó trở thành một nguồn lý tưởng để tập hợp tin tình báo. Mỗi ngày, người dùng Twitter đăng hơn 500 triệu dòng tweet, đăng ảnh, video, cập nhật trạng thái lên mạng xã hội. Hồ sơ của họ thường bao gồm thông tin cá nhân như tuổi, giới, thành viên gia đình, nơi làm việc… tập hợp những bài viết này giúp tìm hiểu về đời sống hàng ngày của cá nhân, cũng như những thái độ và hành vi của các mạng xã hội.
Thông tin trên mạng xã hội không chỉ hữu ích với nhà chức trách Hoa Kỳ, ngay cả với các công ty vận tải biển hàng đầu thế giới cũng theo sát những bài viết trên Twitter và Facebook của hải tặc Somali để tìm hiểu kế hoạch truy tìm và tấn công tàu thuyền của các tổ chức tội phạm. Rất nhiều hệ thống lọc dữ liệu Machine learning được xử dụng để xử lý một lượng thông tin lớn trên mạng xã hội, có thể giúp cộng đồng an ninh quốc tế thu thập dữ liệu thời gian thực về các mối đe dọa và sự kiện an ninh, tăng cường dự báo những bất ổn tại khu vực. Những dữ liệu này cũng đi sâu vào hoạt động của các nhóm tội phạm và khủng bố, giúp nhận dạng các thành viên cùng nơi chúng tụ tập.
Các nhà nghiên cứu đã có thể phát hiện những biểu hiện bất thường giữa những mạng lưới liên cá nhân, qua việc phân tích thông tin mà người dùng đăng tải trên các nền tảng này. Thông qua khảo sát mối quan hệ của người dùng trên Twitter, có thể định vị các nhóm dư luận khác nhau, xác định những cá nhân nào có xu hướng cực đoan hóa hoặc có thể phạm tội.
Thông tin từ mạng xã hội có thể bổ sung và cập nhật cho tin tức và phân tích tình báo. Thông qua mạng xã hội, người ta có thể xác định được “bức tranh” thời sự, những mâu thuẫn tiềm ẩn và xu hướng phát triển của nó trong mỗi khu vực. Những thay đổi đặc trưng trong dư luận ở một nước hay một khu vực, hoặc những biến tấu về ngôn ngữ và giọng điệu trong một cuộc thảo luận nào đó, cũng có thể là thông tin hữu ích trong môi trường xung đột.
KIỂM CHỨNG SỰ KIỆN VÀ PHẢN ỨNG NHẠY BÉN VỚI KHỦNG HOẢNG THÔNG TIN
Mạng xã hội đã được dùng để ngay lập tức kiểm chứng những diễn biến, sự kiện và cải thiện độ nhạy bén của các lực lượng an ninh. Khi các sự kiện nổi cộm diễn ra, rất có thể những người quan sát thụ động sẽ trở thành “các nhà báo công dân”, thường xuyên cung cấp và truyền tải thông tin từ thực địa một cách liên tục.
 Năm 2011, trong thời điểm diễn ra các vụ bạo loạn, xả xúng vào đám đông ở London và các thành phố Anh khác, cảnh sát Anh đã thiết lập một kênh trực tuyến để giúp người dân thông báo về tình hình ở cộng đồng và nhận dạng những cá nhân tham gia cướp bóc và bạo động, dựa vào tập hợp ảnh về những nghi phạm mà cơ quan hành pháp đã đăng tải. Qua phân tích luồng thông tin Twitter trong khoảng thời gian này, người ta thấy rằng, các nội dung phản ánh về một vụ việc nổi cộm thường nổi lên rất tập trung trên các trang mạng xã hội. Các cơ quan hành pháp cũng dùng thông tin này để cải thiện khả năng phản ứng kịp thời với các sự vụ bất thường. Họ dùng những dữ liệu này để lên kế hoạch can thiệp, nhằm thu hẹp phạm vi của cuộc bạo loạn, xác định những kẻ chủ mưu, gây ảnh hưởng hay bắt giữ một số cá nhân.
Qua việc giám sát mạng xã hội và quá trình tác động tới cảm xúc của công chúng, các nhà hoạch định chính trị có thể hiểu hơn về phương thức mà những chủ thể này gây ảnh hưởng tới công luận. Những dữ liệu này có thể tạo điều kiện để đáp trả các chiến dịch của địch thủ và hé lộ những vấn đề mà địch thủ cho là quan trọng nhất.
Việc giám sát, phát hiện các đầu mối tin tức đáng chú ý từ khối lượng thông tin khổng lồ trên mạng xã hội có thể được hỗ trợ bằng các phần mềm chuyên dụng. Những phần mềm này đang được phát triển để hướng tới việc phân tích cảm xúc thực của người dùng, để phân biệt, định vị rõ hơn những người ủng hộ hay chống đối.  Vượt qua những rào cản về ngôn ngữ và văn hóa đặc thù, các phần mềm giám sát mạng xã hội machine learning trong tương lai gần có thể được dùng để phân tích cảm xúc của các đám đông biểu tình trong tương lai, nắm bắt tâm trạng và xu hướng bạo lực vào bất cứ thời điểm nào
Mạng xã hội còn được dùng rộng rãi bởi các chính phủ và các chủ thể phi nhà nước để gây ảnh hưởng công luận ở những khu vực có xung đột. Trong lịch sử, nhiều quốc gia khác nhau đã từng khởi động nhiều chiến dịch truyền thông để hỗ trợ cho các mục tiêu chính trị, đáp trả những chiến dịch gây ảnh hưởng của địch thủ. Mạng xã hội và khả năng chia sẻ thông tin dễ khiến nó trở thành nơi lý tưởng để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền.
Truyền thông xã hội độc đáo ở chỗ nó có thể nhanh chóng truyền hình ảnh, tuy những hình ảnh này thường sai lệch hoặc bị tách khỏi bối cảnh. Một tấm hình, một đoạn phim ngắn có thể là công cụ hữu hiệu để thay đổi cách khái quát hóa một vấn đề.
Khả năng lan truyền thông tin giả của mạng xã hội có thể bị các đối tượng xấu dùng để kích động bạo lực và gây hoảng loạn. Những bản tin và lời đồn thất thiệt thường được lan tỏa trên mạng xã hội, nhất là sau các vụ tấn công khủng bố lớn. Một số bản tin này đã được các kênh truyền chính thống vô tình sử dụng. Việc giám sát và phân tích mạng xã hội giúp các chính phủ nhanh chóng nhận dạng và đẩy lùi sự lan tỏa của thông tin giả.
Giám sát hoạt động mạng xã hội có thể ngăn ngừa những biến cố khủng hoảng, hoặc giúp lực lượng hành pháp ứng phó hiệu quả hơn. Cuộc chiến thông tin đầy cam go, thách thức này sẽ còn biến chuyển rất khôn lường, khiến tất cả mọi quốc gia đều phải dành sự quan tâm nhất định cho vấn đề này./.
TS. Bùi Chí Trung
Đại học Quốc gia Hà Nội

DI HUẤN HỒ CHÍ MINH VỀ "CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ"



Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đề cao và thực hiện “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”[1]; đồng thời, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thường xuyên rèn luyện những đức tính quý báu đó. Trước khi đi xa, Người căn dặn trong Di chúc: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư"[2].

TỪ TÁC PHẨM “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” ĐẾN LỜI DẶN "CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ" TRONG DI CHÚC
Nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, nhất là trước tác Người để lại, có thể thấy rằng: Người không chỉ nhấn mạnh “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất quan trọng nhất; chi phối các phẩm chất đạo đức khác của người cách mạng mà còn khẳng định “cần, kiệm, liêm, chính” là yêu cầu nhất thiết phải có, là “tứ đức” cơ bản làm nên “gốc” của người cách mạng. “Tứ đức” vốn là những khái niệm đạo đức truyền thống phương Đông được Người chọn lọc và tiếp biến với những yêu cầu, nội dung mới, thể hiện trong 23 yêu cầu về “Tư cách một người cách mệnh” (Đường Cách mệnh, 1927), (Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc, 1947); đề cập trong nhiều tác phẩm sau đó và cuối cùng là trong bản Di chúc lịch sử, 1969…
Trong tác phẩm Đời sống mới (3/1947), Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thực hành “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” nhưng đến tác phẩm “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, Người đã coi “tứ đức” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc và luận giải “tứ đức” trong tổng thể của trời, đất, con người và mối quan hệ của mùa - trời; của phương - đất; của đức - người. Giản dị mà khúc chiết, Người khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”[3].
Theo đó, lần lượt trong 4 bài báo đã nêu, Hồ Chí Minh chỉ rõ nội hàm của từng đức trong “tứ đức”, cụ thể như sau:
CẦN “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi “Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà còn “có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”. Hiểu đúng về Cần nghĩa là luôn chăm chỉ, cố gắng không phải một sớm một chiều mà thường xuyên và liên tục. Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng có nghĩa là làm để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu dài, để đạt được mục đích đề ra, bởi: “Nếu mỗi người, mỗi ngày làm thêm một tiếng đồng hồ thì: Mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ… Cứ tính một giờ làm đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”[4].
KIỆM “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” và không phải là bủn xỉn. Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “KIỆM mà không CẦN thì không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”[5]. Vì thế, thời giờ cần tiết kiệm và đó cũng là Cần; “tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, cũng giống như “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm[6]. Đặc biệt, muốn tiết kiệm tốt thì phải khéo tổ chức, vì “không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm” và phải “kiên quyết không xa xỉ”. Từ đó, “một mặt, chúng ta thi đua KIỆM. Một mặt, chúng ta thi đua CẦN” thì cộng lại là “nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công”…
LIÊM “là trong sạch, không tham lam” và “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”[7]. Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN, vì “có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Tham lam sẽ dẫn đến BẤT LIÊM, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Cũng theo Hồ Chí Minh, “trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”1) và “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”[8]. Vì, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”[9]
CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”[10]. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết tiếp “trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC. Trong xã hội, có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc CHÍNH và việc TÀ. Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác”[11]
Để là CHÍNH, mỗi người, ĐỐI VỚI MÌNH, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điêmmr, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[12], vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”[13]. ĐỐI VỚI VIỆC, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt”[14].
Những điều Hồ Chí Minh viết về “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” hàm chứa yêu cầu và mong mỏi của Người về sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, xây dựng và rèn “tứ đức” nói riêng đối với mỗi người cán bộ, đảng viên. Theo Người, uy tín của Đảng cầm quyền, của mỗi cán bộ, đảng viên và lòng tin của nhân dân gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu thực hành đạo đức cách mạng, cho nên, nếu mỗi cán bộ, đảng viên chỉ biết nói lời hay, ý đẹp nhưng không gương mẫu thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” thì cũng không thể hấp dẫn, quy tụ, lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Vì thế, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” không chỉ là yêu cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức của mỗi người cách mạng mà còn là biện pháp quan trọng để xây dựng Đảng về đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, việc thực hành “tứ đức” sẽ không chỉ giúp người cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự rèn mình mà còn tạo ra sức mạnh mềm và sức hấp dẫn của một tổ chức, của cả một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ”.
Không chỉ làm rõ nội hàm của CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, sau này, trong nhiều tác phẩm khác, Hồ Chí Minh còn khẳng định rõ “tứ đức” đối lập với tham ô, lãng phí, quan liêu, với ý nghĩa: cần, kiệm, liêm, chính như là ánh sáng của đạo đức con người; còn tham ô, lãng phí, quan liêu như là bóng tối của sự suy thoái. CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH có mối quan hệ chặt chẽ với “chí công vô tư” và người cán bộ, đảng viên trong nhận thức và hành động hướng lòng mình đến “chí công vô tư”, tận tâm vì dân, vì nước thì nhất định sẽ thực hiện được CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH. Hơn nữa, thực tế cho thấy rằng, một bộ phận cán bộ, đảng viên - những người “có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[15], cho nên người cách mạng bên cạnh yêu cầu phải có "tú đức", còn rất cần phải xây dựng đức tính “chí công vô tư”, để mình trở thành người lãnh đạo - người đầy tớ trung thành của nhân dân luôn phụng sự và liêm chính.
Tháng 10/1947, khi viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng: Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: “Chí công vô tư; cần, kiệm, liêm, chính!". Vì thế, càng không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh lại ghi ở trang đầu quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[16]. Đặc biệt, điều mong mỏi, tâm huyết về yêu cầu cần phải có những đức tính quý báu này cũng được Người dặn lại trong Di chúc và coi đó là một trong những nội dung của công tác xây dựng và chỉnh đốn lại Đảng, để mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, để "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[17].
THỰC HIỆN “CẦN KIÊM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ” GẮN VỚI HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh là người cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Người không chỉ nêu ra và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và rèn luyện những phẩm chất “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, hướng lòng mình đến “chí công vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân mà Người còn chính là hiện thân của những phẩm chất cao quý đó. Với Người, từ những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước đến khi trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng thì cũng vẫn là một Hồ Chí Minh luôn nỗ lực làm việc và chi tiêu thật tiết kiệm; luôn thích các món ăn dân gian như dưa cà, mắm tép, cá kho và thường tránh các nghi thức đón tiếp linh đình, lãng phí; thường mặc bộ kaki, đi dép lốp cao su, dùng túi vải, mũ cát khi đi thăm đồng chí, đồng bào, kể cả khi đi công tác ngoài nước; thường chọn thăm bếp ăn của công nhân, nơi ở của người dân nghèo; không thích ở nhà của Phủ toàn quyền Đông Dương hay dinh thự cao cấp, đủ tiện nghi mà chọn căn phòng vốn là nơi ở của người thợ điện và sau đó là ngôi nhà sàn kiểu đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc thường sinh sống…
Hồ Chí Minh luôn “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” từ trong suy nghĩ đến hành động; từ cuộc sống đời thường đến vị thế một nguyên thủ quốc gia và cho đến lúc đi xa. Lựa chọn cuộc sống cần kiệm, giản dị, chan chứa tình yêu thiên nhiên, không màng danh vọng, không ham của cải, chẳng ưa sự xa hoa và những nghi thức sang trọng, Hồ Chí Minh từng nói, người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng điều quan trọng là phải thiết thực và phù hợp, đúng thời, đúng hoàn cảnh. Người ăn mặc đều giản dị và tiết kiệm và đó là lối sống của Người…và Người đã từng nói với một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng chân tình rằng: “Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”[18]
Để góp phần chống nạn đói năm 1945, Người đã kêu gọi đồng bào cả nước nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, nhường cơm, sẻ áo: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”[19]. Không chỉ gương mẫu nhịn ăn, để dành gạo cho vào hũ gạo cứu đói, Người còn bán chiếc áo lụa đồng bào tặng lấy tiền mua áo ấm tặng cho chiến sỹ trong mùa đông giá rét và đem số tiền tiết kiệm ít ỏi vốn là tiền nhuận bút của mình để mua nước ngọt tặng cho các chiến sỹ trực phòng không trong những ngày hè nóng bức năm 1967. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam hiện lưu giữ một hiện vật đặc biệt (đăng ký 4875-Gi-1026) - Đó chính là thư chuyển số tiền 16.000 đồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng cục Chính trị để mua thêm nước uống cho bộ đội phòng không trực chiến bên mâm pháo, làm nhiệm vụ bảo vệ bầu trời của Tổ quốc. Món quà của Người tuy nhỏ nhưng đã kịp thời động viên tinh thần, tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sỹ phòng không, giúp họ vượt qua mùa hè nóng nực và lập nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ… Tấm lòng, tình yêu thương bao la của Hồ Chí Minh với đồng bào, chiến sỹ không chỉ thể hiện sâu sắc những giá trị đạo đức cách mạng mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và tu dưỡng mà còn thể hiện đậm nét cuộc sống “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” của Người.
Những điều Người nói, những việc Người làm và tấm gương đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Người không chỉ được khẳng định trong thực tiễn mà còn mang ý nghĩa, giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại, dù thế giới đã đi qua bao thăng trầm, thay đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những gì Người nói, những việc Người đã làm với tâm hồn thanh cao là biểu hiện sự dung hợp hài hòa những phẩm chất tuyệt vời của một vị lãnh tụ của nhân dân, thuộc về nhân dân trong thời đại mới. Và trong thực tế, rất hiếm người “đạt tới sự thống nhất hài hoà giữa chủ nghĩa nhân đạo và tầm cao chính trị, giữa đức tính giản dị, khiêm tốn và sự hiểu biết sâu rộng, giữa tình cảm ấm áp và nghị lực phi thường đến mức tuyệt vời như Bác Hồ. Được gặp Người, quả thật là một điều sung sướng, vinh dự, một diễm phúc trong đời”[20].
Vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là yêu cầu tất yếu mà mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và thường xuyên rèn luyện để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đồng thời, đó cũng là một trong những tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá quá trình phấn đấu của mỗi người trong công tác và sinh hoạt đời thường. Với ý nghĩa đó, việc triển khai Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05) trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân gắn với rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” những năm qua đã góp phần tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ngày 12/11/2013, Tổng thống Liên Bang Nga V. Putin đã đến Hà Nội thăm chính thức Việt Nam. Ông đã đến thăm nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh và viết trong sổ lưu niệm:
"Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ hòa bình tiến bộ và phồn vinh. Nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc, là biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai… Và vì thế lịch sử mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân”.
Thực tế cho thấy, tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, trong từng lĩnh vực công tác, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã gắn việc rèn “tứ đức” với nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII); đặc biệt là tự soi mình và nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Từ trong quá trình rèn luyện đạo đức cách mạng gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mỗi cán bộ, đảng viên tại địa phương, cơ quan, đơn vị đã xuất hiện nhiều tấm gương tập thể và cá nhân điển hình, được biểu dương trên các phương tiện truyền thông... Mỗi con người, mỗi tập thể mẫu mực về rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” đã góp phần xây dựng những giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội, thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, lao động sáng tạo, tạo động lực đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua mọi khó khăn thách thức, tiếp tục giành được những thành tựu mới.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" sa vào quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, chạy chức chạy quyền, độc đoán, vi phạm kỷ luật,... Trong số đó, có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao vì thiếu rèn luyện đạo đức cách mạng, không thực hành "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" mà phạm tội dẫn đến bị khai trừ khỏi Đảng, truy tố trước pháp luật. Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của những "con sâu mọt" ấy đã làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, làm suy yếu tổ chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng...
Vì vậy, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 theo chương trình toàn khóa và theo chủ đề hằng năm gắn với thực hiện di huấn của Người trong Di chúc về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân ta; trong đó, cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành chức năng về vai trò, ý nghĩa của việc thấm nhầm yêu cầu phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng trong cả hệ thống chính trị; đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục ý thức thực hành “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong Di chúc. Gắn thực hiện Chỉ thị 05 với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, coi đây là giải pháp đột phá để việc tự soi, tự sửa, tự rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” nói riêng trở thành việc là thường xuyên, liên tục của mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục thực hiện “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và sinh hoạt thường kỳ của chi bộ; trong đó, có những chuyên đề cụ thể về ““cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” với những nội dung thiết thực, để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Thông qua đó, xây dựng tác phong, lề lối làm việc “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, tận tụy phụng sự nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tại các cơ quan công quyền phù hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và theo đúng chức năng, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên.
Ba là, nâng cao trách nhiệm và phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng theo nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trong công việc lẫn đời tư, tại nơi công tác cũng như địa bàn cư trú. Đồng thời, thực hiện nghiêm kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng, quy định về những điều đảng viên không được làm và các quy định về nêu gương… Thông qua đó, nâng cao tinh thần, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước trong mỗi cán bộ, đảng viên và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, miễn nhiệm, thay thế, buộc từ chức và đưa ra khỏi Đảng đối với những cán bộ, đảng viên suy thoái, bất liêm, bất chính, tham ô, tham nhũng,v.v.., đã mất uy tín trong Đảng và trong nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để “sửa chữa cán bộ và tổ chức ta”[21] trong giám sát các cơ quan, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên. Tạo cơ chế pháp lý để nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền các cấp thực hiện Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, các quy định về nêu gương trong rèn luyện đạo đức cách mạng gắn với yêu cầu phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trong thi hành công vụ, chấp hành chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại cơ quan công tác và địa bàn cư trú mà không sợ bị đe dọa, trả thù, trù úm... Thông qua đó, làm cho việc học tập và làm theo Bác, tự giác rèn luyện “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trở thành việc làm hằng ngày, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương

[1] Cuối tháng 5 đầu tháng 6/1949, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, gồm 4 bài báo (bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên Báo Cứu Quốc: Thế nào là Cần, ngày 30/5; Thế nào là Kiệm, ngày 31/5; Thế nào là Liêm, ngày 1/6 và Thế nào là Chính, ngày 2/6 năm 1949); in trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.115-131.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.15, tr.611-612.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 117.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 121.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 123.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 123.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 127.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 127.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr. 127-128.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.129.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.129.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.129-130.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.130-131.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.131.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.5, tr.122.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.6, tr.208.
[17]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.15, tr.622.
[18] Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ, Nxb. Thông tấn, H, 2003, tr.115.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.4, tr.33.
[20] John Stern: Bác Hồ như chúng ta đã biết, Nxb. Thanh Niên, H, 1985, tr.56.
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2011, t.5, tr.338.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...