Thứ Hai, 13 tháng 1, 2020

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỚI VĂN HÓA, VĂN NGHỆ CHỈ LÀ SỰ CƯỜNG ĐIỆU, “BÁO ĐỘNG GIẢ” HAY THỰC SỰ ĐÁNG BÁO ĐỘNG



Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã và đang có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức. Một trong những thách thức, nguy cơ đã được Đảng ta chỉ ra là âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, trong đó có việc chúng triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông để tấn công mạnh mẽ hơn về tư tưởng - văn hóa và coi đây là mũi nhọn chống phá Đảng và chế độ ta. Vậy đặc điểm, những biểu hiện của âm mưu này ra sao? Cần có giải pháp ứng phó như thế nào? Đó là những câu hỏi bức thiết cần được giải đáp hiện nay.
1-  Hiện nay, trong dư luận xã hội và trong giới trí thức, văn nghệ sĩ đang có những nhận định, ý kiến khác nhau về tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với văn hóa, văn nghệ nước ta. Có ý kiến khẳng định mạnh mẽ, “báo động” về tác hại trực tiếp và thực trạng rất phức tạp của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực có nhiều đặc thù này. Cũng có ý kiến cho rằng, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chủ yếu trên lĩnh vực chính trị, tổ chức, nhân sự, ngoại giao..., còn nói “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thì chỉ là sự cường điệu, thậm chí là “báo động giả”. Vậy cần bình tĩnh, tỉnh táo khi nhận diện những biểu hiện của “diễn biến hòa bình”, đánh giá những tác động, ảnh hưởng của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Có thể thấy rằng, nghiên cứu, đánh giá tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” với văn hóa, văn nghệ không đơn thuần là vấn đề chính trị mà đó vừa là vấn đề của chính trị, vừa là vấn đề của khoa học. Do vậy, không thể giản đơn, máy móc, quy chụp và cũng không thể lảng tránh, không nhận ra tác động tinh vi, phức tạp của “diễn biến hòa bình” đối với lĩnh vực này. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu, đánh giá cần tránh hai khuynh hướng sau: Một là, mất cảnh giác hoặc phủ nhận tác động của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Hai là, quy chụp với cách nhìn máy móc, cứng nhắc, không hiểu biết đầy đủ về bản thân văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ mới với rất nhiều vấn đề đặt ra trong thực tiễn, đòi hỏi sự tham gia trực tiếp của văn hóa, văn nghệ, góp phần vào sự phát triển của con người và xã hội.
2- Có âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ không? Đây là một câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng đòi hỏi phải tìm được câu trả lời trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Ngay từ năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cùng với âm mưu xâm lăng nước ta bằng quân sự, các nước đế quốc còn thực hiện âm mưu xóa bỏ những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Nhận định của Bác là sáng suốt, bởi đến nay, mặc dù thế giới đã thay đổi nhanh chóng, tương quan và hình thái xã hội trên toàn cầu đã có nhiều biến đổi, nhưng có thể thấy các nghị quyết, văn kiện của Đảng và Nhà nước ta trong mấy nhiệm kỳ gần đây đều vẫn nhấn mạnh các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Thực tế, không ít các nhà nghiên cứu nước ngoài từng đưa ra những lo ngại, băn khoăn rằng, trong quá khứ Việt Nam có đủ khả năng chống trả ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài, nhưng hiện nay liệu người Việt Nam sẽ có những biện pháp gì để chống lại thông tin xấu, độc từ các nước phương Tây nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu đối với xã hội và con người... Không phải vô cớ mà Tổng thống Mỹ R. Nich-xơn, khi thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô (trước đây) đã lớn tiếng tuyên bố khâu quyết định có ý nghĩa chiến lược là bằng mọi cách “tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương” và coi tư tưởng, văn hóa, văn nghệ như là “cửa mở” của “cuộc chiến tranh không có khói súng”, các “cuộc cách mạng sắc màu”, “cách mạng nhung”... để đi đến “chiến thắng không cần chiến tranh”...
Hiện nay, nhiều thông tin toàn diện, trong đó có nhiều minh chứng cụ thể đã cho chúng ta thấy rõ hơn các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với Việt Nam. Thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, các blogger đã tấn công cá nhân các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, chiến lược chung là nhằm tạo ra sự mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội. Hoạt động này đã và đang được thực hiện một cách ráo riết cùng với việc lợi dụng các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức núp dưới chiêu bài bảo vệ “nhân quyền” và không ít người đã nhận được “hỗ trợ”, “tài trợ” từ các cơ quan nước ngoài, các tổ chức văn hóa, thậm chí trực tiếp từ chính phủ một số nước phương Tây. Về văn hóa, toàn bộ vũ khí văn hóa chống lại “nền tảng tư tưởng” đã được thiết kế, “sản xuất” ở phương Tây, sau đó được “cấy ghép” vào các nước ở Trung và Nam Mỹ, khu vực Nam Phi, vào Trung Quốc, Nga và ngày càng nhiều ở Việt Nam.
Như vậy, dù vẫn còn những người nghi ngờ, lảng tránh, “bỏ qua”, thậm chí cho là “báo động giả”, nhưng thực tế cho thấy, âm mưu của các thế lực thù địch hòng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam là có thật, thậm chí “sản phẩm” này còn được đề ra, được xác định thực hiện trong một thời gian dài, có lộ trình cụ thể và đã được đưa lên thành chiến lược trong thời kỳ mới từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Trong chiến lược đó, tư tưởng, văn hóa, văn nghệ luôn là “cửa mở”, “cửa đột phá để tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương”, từ đó nhằm đánh gục đối phương từ bên trong, từ bên trên, từ gốc “nền tảng tư tưởng”.
3- Những năm qua, cuộc “đọ sức” giữa âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật với lực lượng hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ ở nước ta (lãnh đạo, quản lý, sáng tác, biểu diễn...) diễn ra tưởng như thầm lặng nhưng thực ra rất quyết liệt, phức tạp, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp.
Mặc dù các thế lực thù địch, cơ hội chính trị hoạt động chống phá ngày càng ráo riết, nhưng cần phải khẳng định rằng, văn hóa, văn nghệ của chúng ta vẫn phát triển đúng hướng, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc. Lực lượng sáng tạo và hoạt động trên lĩnh vực này, theo nhận định sáng suốt của Đảng và nhân dân, là những người tin cậy, trung thành, có nhiều đóng góp, có tình yêu đất nước, dân tộc, nhân dân, tâm huyết với sự nghiệp đổi mới và với nghề nghiệp. Nhận định đó là khách quan, trung thực và đã được minh chứng trong thực tiễn.
Mặc dù các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá ngày càng ráo riết, nhưng lĩnh vực văn hóa, văn nghệ của chúng ta vẫn phát triển đúng hướng, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc _Ảnh Tư liệu
Tuy nhiên, cũng không thể lảng tránh một thực tế là tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ đã thể hiện ngày càng rõ hơn, tinh vi hơn, cả trực tiếp lẫn gián tiếp trong các khâu của quá trình sáng tạo, quản lý, quảng bá, truyền bá lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Đã xuất hiện những “tác phẩm” có dụng ý chính trị rõ rệt phủ định con đường và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, thông qua việc bôi đen hiện thực lịch sử hoặc dùng những “hình tượng” mang tính ẩn dụ đen tối nhằm giễu nhại con đường cách mạng của dân tộc mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vũ Thư Hiên, Bùi Tín những năm trước đây, nhóm “mở miệng” trong những năm cuối thế kỷ XX và cả truyện ngắn của một số cây bút trẻ gần đây đã bộc lộ rõ khuynh hướng này. Hùa theo khuynh hướng đó là những người làm phê bình, giới thiệu đã tìm cách đề cao các loại “tác phẩm” như vậy, coi đó là “trung thực”, là “sức mạnh” của bên lề, của ngoại vi đang tấn công để “giải” (hóa giải) trung tâm, là sự “sáng tạo” và “phát hiện” độc đáo. Thực chất, họ đã dùng những thủ pháp nghệ thuật để vu cáo, xuyên tạc, bôi bẩn các giá trị văn hóa dân tộc, các thành tựu cách mạng cả trong quá khứ và hiện tại.
Thực tế cho thấy, để đi tới thắng lợi hoàn toàn, độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, trong suốt 30 năm (từ năm 1945 đến năm 1975), dân tộc ta đã phải trải qua muôn vàn hy sinh, gian khổ tận cùng. Đó là sự thật lịch sử, và sự hy sinh đó không phải vô ích, vô nghĩa. Chúng ta không hề muốn chiến tranh nhưng kẻ thù đem gươm, súng đến đất nước này thì “giặc dùng đạn bom ta giáng trả bằng đạn bom”, vì sự mất còn của cả dân tộc, vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Chân lý lịch sử đó là rõ ràng nhưng các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị và một số người trẻ “ngây thơ” đã tìm cách xuyên tạc chân lý đó. Một số tác phẩm văn học, nghệ thuật đã miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta toàn một màu đen tối, chết chóc, bi kịch, vô nghĩa; phủ định sạch trơn những sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ chiến tranh, coi đó là “minh họa”, là tô hồng, là cao hơn, là đứng trên hiện thực. Chúng ta không phủ nhận những hạn chế lịch sử của mảng văn học, nghệ thuật trong chiến tranh nhưng không thể nhân danh “đổi mới” để bôi nhọ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc bằng việc chỉ miêu tả mặt đen tối, sự chết chóc và tha hóa con người trong chiến tranh. Khuynh hướng này chỉ là phiến diện, chưa trung thực với lịch sử.
Đã từ lâu, ở phương Tây và ở Mỹ lan truyền một thông tin rằng, cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do bị “giật dây” hoặc đó là một cuộc “nội chiến”. Những năm gần đây, luận điệu đó được “sản xuất” bởi một số chính trị gia phương Tây và đã nhanh chóng được “nhập khẩu” vào Việt Nam, tác động đến suy nghĩ, nhận định của một số trí thức, văn nghệ sĩ. Luận điệu đó đã đi vào một vài “sản phẩm” nghiên cứu, một số sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật. Ở một vài tác phẩm, các tác giả đã cố tình cài cắm luận điệu “nhập khẩu” đó như là một sự “phát hiện mới” của mình. Có lẽ, do phần lớn trong số họ đều là những người đứng ngoài cuộc chiến đấu nên không hiểu được khát vọng sâu thẳm của hàng triệu người Việt Nam đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, hoặc có người chạy theo “mốt thời thượng” về chính trị mà không am hiểu, thậm chí “không muốn hiểu” sự thật lịch sử đã được thừa nhận từ lâu. Thực tế đã chứng minh luận điệu của ai đó cho rằng cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm” hoàn toàn là sự “ngây thơ” hoặc cố tình xuyên tạc lịch sử.
Năm 1965, đế quốc Mỹ đem quân ồ ạt vào miền Nam nước ta, bắt đầu chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Nhưng chỉ vài năm sau, chiến lược đó thất bại thảm hại. Tổng thống Mỹ công khai tuyên bố chuyển sang chiến lược mới “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là Mỹ vẫn chủ mưu, vẫn viện trợ, trang bị “tận răng” cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Âm mưu này thâm độc hơn nhưng ngay từ đầu đã mang dấu hiệu thất bại. Đầu năm 1975, khi chúng ta mở chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã kêu gào Mỹ viện trợ tiền và vũ khí và khi không đạt được sự cầu cứu thảm hại đó, chính họ đã “đổ lỗi” cho Mỹ về sự sụp đổ của mình. Mặc dù vậy, tại sao lại vẫn có người cố tình miêu tả, bình luận cuộc chiến này là “nội chiến”. Phải chăng họ đã “ăn phải bả” của một số chính trị gia phương Tây?
Những năm gần đây, rải rác xuất hiện một số sáng tác tập trung miêu tả, khắc họa những con người bi quan, bế tắc, tâm trạng trống rỗng, không tin và không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Nhân vật trong các tác phẩm đó thường là thanh niên hay những người ở độ tuổi mới lớn. Chúng ta không phủ nhận trong xã hội hiện nay có một bộ phận nhỏ rơi vào tâm trạng đó. Song cường điệu điều đó để đi tới sự phủ định những điều tốt đẹp của cuộc sống, tạo ra bức tranh thê thảm của xã hội, reo giắc trong thế hệ trẻ sự bế tắc là trái với bản chất nhân văn của văn học, nghệ thuật. Ví dụ như lời một số ca khúc trong đĩa “Cái nường 8X” của nhạc sĩ Ngọc Đại với 9 bài hát mà hầu hết lời lẽ đều toát lên một tâm trạng uất ức, tức tối, căm giận với những ca từ, như “Thôi chào nhé. Chào vĩnh biệt những mùa xuân thật là thê thảm. Những mùa xuân thật là dã man. Những mùa xuân tối tăm, bệnh hoạn. Những mùa xuân đã chết rồi trong trái tim của anh và em và cũng có thể của cả một dân tộc. Chết dần, chết mòn, chết thật rồi....”(bài Vĩnh biệt). “ Mùa xuân thật là ngu ngốc, chán ngắt, buồn nôn”, “phí hoài, chán ngắt, bước chân mộng du...” (bài Thông điệp hoa hồng)... Đây là những bài hát đi ngược lại thuần phong, mỹ tục của người Việt Nam, tuyên truyền chống Tổ quốc, chống nhân dân, bôi xấu, xuyên tạc chế độ. Có thể thấy, đó là quan niệm lệch lạc của cá nhân nghệ sĩ, vậy “diễn biến hòa bình” ở đâu? Phải chăng đó chính là việc truyền bá chủ nghĩa hư vô, bi quan, trầm cảm và hoài nghi. Mục tiêu chính của nó là làm nảy sinh sự bất mãn, làm sai lệch tư tưởng, làm suy yếu chủ nghĩa yêu nước trong thế hệ trẻ. Tác động tai hại, thâm độc của âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chính là như vậy.
4- Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Song trong tiến trình đó, có lúc chúng ta có khuyết điểm, hạn chế. Nhiều năm nay, đặc biệt là thời gian gần đây, chúng ta đang kiên quyết chỉnh đốn, làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu... Chưa bao giờ chúng ta yêu cầu văn hóa, văn nghệ phải “tô hồng” cuộc sống. Trong lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (tháng 7-2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, văn học, nghệ thuật trực tiếp tham gia sự nghiệp đổi mới đất nước, miêu tả cho hay, cho chân thật, sinh động và có sức thuyết phục sự nảy sinh và phát triển cái mới, cái tốt đẹp, cao cả trong đời sống, dũng cảm, nghiêm khắc lên án, phê phán những cái xấu xa, thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất, tham nhũng, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội, qua đó góp phần tích cực vào thắng lợi của sự nghiệp phát triển con người, phát triển đất nước. Đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của văn học, nghệ thuật Việt Nam hôm nay và nhiều năm tới. Qua đó cũng thể hiện quan điểm và tư duy biện chứng, xuất phát từ thực tiễn của Đảng ta trên cơ sở thấu hiểu sâu sắc sứ mệnh, chức năng của văn học, nghệ thuật.
Thế nhưng, chịu sự tác động của âm mưu “diễn biến hòa bình” và bản thân “tự diễn biến” theo chiều hướng xấu, một số văn nghệ sĩ đã chỉ chú trọng “phanh phui” mặt tiêu cực, góc tối, cái xấu của xã hội và con người với một giọng điệu giễu nhại đầy ác ý và vô cảm. Số lượng “tác phẩm” loại này không nhiều nhưng tác hại lại rất lớn, vì nó đánh phá vào niềm tin của con người, nó dẫn dụ một bộ phận cán bộ, quần chúng tự tách mình ra khỏi cuộc sống, tự coi mình là vô can để có quyền phủ định, giễu nhại, phán xét. Đó chính là những kẻ cơ hội chính trị trong hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Thực tiễn cho thấy, từ khi chúng ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, đã xuất hiện những phần tử cơ hội. Họ tự tách ra khỏi đội ngũ, tỏ ra lo lắng nhưng huênh hoang coi mình là sáng suốt rồi khoái trá đầy ác ý chờ đợi sự thất bại mới của những người không quản nguy hiểm, dũng cảm khai phá con đường mới.
Những năm trước đây, do hoàn cảnh chiến tranh và do hạn chế chủ quan, chúng ta chưa có sự đánh giá khách quan, toàn diện về mảng văn hóa, văn nghệ ở miền Nam vùng Mỹ - ngụy  chiếm đóng. Đó là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều khuynh hướng khác nhau, tiến bộ và lạc hậu, cách mạng, yêu nước và phản động, dân tộc và ngoại lai... Những năm gần đây, chúng ta bắt đầu có cách nhìn mới, tạo dựng sự hòa hợp để tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ mục tiêu trong sáng đó, chúng ta đã và đang nhìn nhận lại và có những đánh giá mới, tìm ra những giá trị tốt đẹp, tiến bộ, yêu nước, tinh thần dân tộc, nhân văn trong một số tác phẩm của mảng văn hóa, văn nghệ trên. Công việc đó chưa thể hoàn kết. Song lợi dụng bối cảnh đó, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và cả những người thiếu sự tỉnh táo đã tái bản và đề cao thiếu chọn lọc cả những tác phẩm có ý đồ chính trị và tư tưởng sai lầm, phản dân tộc, chống chế độ. Người ta tưởng rằng, nhân dịp này có thể đánh tráo trắng - đen, phải - trái, để truyền bá trong công chúng những tác phẩm như vậy nhằm “chiêu tuyết” một số tác phẩm, tác giả đã bị lịch sử, nhân dân phê phán. Đây là một loại hoạt động tinh vi trong âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Ở một vài trường đại học, việc xuất hiện khuynh hướng chọn các tác phẩm trên làm đề tài nghiên cứu luận văn, luận án cho thấy chúng ta còn lơ là, chủ quan với xu hướng có tác hại lâu dài này. Để làm rõ ý đồ xấu của những kẻ lợi dụng trên, xin trích một đoạn trong bài viết của Thu Tứ - con trai của Võ Phiến, một nhà văn đã có những biểu hiện, quan điểm chính trị sai lầm trong một số sáng tác của mình ở miền Nam thời chống Mỹ: “Chẳng ai muốn chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình! Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm của nhà văn Võ Phiến chứa đựng nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, ảnh hưởng tới đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này... Sẽ hết nhóm nọ đến phe kia những lúc nào đó đem vận dụng văn nghiệp Võ Phiến một cách có hại cho đất nước. Phải làm cho thật rõ về cái phần nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp ấy ngay từ bây giờ”(1).
5- Hiện nay, nước ta đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là bạn và đối tác tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đó là một đòi hỏi và cũng là nhu cầu khách quan. Sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, in-tơ-nét,... đang tác động hằng ngày vào nước ta, đem lại những tri thức mới, hiện đại, cập nhật, đồng thời cũng du nhập vào nước ta những sản phẩm độc hại, phản văn hóa, phản thẩm mỹ và phản động về mặt tư tưởng. Đây là con đường mà các thế lực thù địch trong và ngoài nước, những phần tử cơ hội tìm cách “nhập khẩu” những quan điểm thù địch, sai trái vào nước ta, trong đó có không ít những sản phẩm văn hóa, văn nghệ. Một bộ phận quần chúng, nhất là thanh niên đang bị chi phối bởi các sản phẩm loại đó, nhất là trên các trang điện tử, mạng xã hội và trong hoạt động xuất bản. Không ít bản thảo không được xuất bản bằng các bản in chính thống đã được đưa lên mạng, gây nhiễu loạn trong nhận thức chính trị và cảm thụ thẩm mỹ của một bộ phận “cư dân” mạng. Nếu không có sự tỉnh táo và biện pháp cương quyết thì sẽ có nhiều loại sản phẩm kiểu đó tiếp tục xuất hiện.
Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã khẳng định, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hóa, văn nghệ là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, tinh tế và nhạy cảm. Vì thế, bảo vệ vững chắc, chủ động, kiên định và linh hoạt lĩnh vực này là góp phần trực tiếp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Với ý nghĩa và vị trí đó, cần phải khẳng định rõ ràng rằng, đây là cuộc đấu tranh để bảo vệ con người, “giành giật” con người cho chủ nghĩa xã hội và cho khát vọng Chân - Thiện  - Mỹ của chính con người./.
----------------------


PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG LÀ BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG



 Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng là bước đột phá trong công tác xây dựng đảng thể hiện sự quyết tâm chính trị cao của Đảng ta và trong thời gian tới tiếp tục triển khai thực hiện một cách quyết liệt, với quan điểm "không có vùng cấm”.
Đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh điều này tại Hội nghị tiếp xúc cử tri tỉnh Yên Bái, ngày 30/11.
Sau khi nghe báo cáo kết quả Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, đại diện các cử tri tỉnh Yên Bái bày tỏ niềm vui mừng, phấn khởi và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong những năm qua. Đồng thời, cử tri và nhân dân Yên Bái cũng bày tỏ mong muốn Quốc hội tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, nhất là giám sát các lĩnh vực: Phòng chống tham nhũng, lãng phí; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường; vệ sinh an toàn thực phẩm…
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Trần Quốc Vượng ghi nhận, tiếp thu những ý kiến tâm huyết, kiến nghị của các đại biểu và cử tri với Quốc hội, Chính phủ; đồng thời thông tin tới các đại biểu về những thành tựu nổi bật và tình hình phát triển của đất nước ta từ đầu nhiệm kỳ đại hội đảng và quốc hội đến nay.
Đồng chí Trần Quốc Vượng cho rằng trước thách thức lớn của bối cảnh quốc tế song Việt Nam đã dành được nhiều thành tựu quan trọng. 
Cụ thể là, kinh tế, xã hội phát triển nhanh và khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giữ ở mức cao, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2019 dự ước đạt 6,8% và tăng trưởng của Việt Nam được đánh giá là hàng đầu khu vực; tăng trưởng bằng phát triển sản xuất và dịch vụ,  giảm dần phụ thuộc khai khoáng, nhất là dầu mỏ; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2030 ước đạt 3 nghìn USD; kinh tế vĩ mô duy trì, ổn định vững chắc; cơ cấu lại nền kinh tế thực chất hơn; đặc biệt là khu vực nông nghiệp giữ được sự phát triển ổn định, chú trọng tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao phục vụ cho thị trường xuất khẩu…
Bên cạnh lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng có nhiều tiến bộ, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về số xã đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới, góp phần chăm lo nâng cao đời sống nhân dân.  
Về công tác xây dựng Đảng, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng cho biết, công tác này được triển khai trên tất cả các mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức; công tác phòng chống tham nhũng có bước chuyển biến mạnh mẽ; chúng ta cũng đã tập trung chỉ đạo thu gọn đầu mối, tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế; quan tâm công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. 
Đặc biệt công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng là bước đột phá trong công tác xây dựng Đảng thể hiện sự quyết tâm chính trị cao của Đảng ta và trong thời gian tới tiếp tục được triển khai thực hiện một cách quyết liệt, với quan điểm của đảng là "không có vùng cấm” nhằm củng cố niềm tin trong Đảng và quần chúng nhân dân; thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng với tinh thần kiên quyết, kiên trì làm trong sạch Đảng. Nhiều vụ án lớn vẫn đang tiếp tục đưa ra xét xử trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, công tác đối ngoại đạt nhiều thành tựu quan trọng; mở rộng quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu và thực chất; vị thế Việt Nam được thế giới giá cao. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định.
Cho biết trong thời gian tới, Đảng ta chuẩn bị tổ chức đại hội lần thứ XIII, đồng chí Trần Quốc Vượng đề nghị Đảng bộ, chính quyền tỉnh Yên Bái cần tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh đã đề ra; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; chuẩn bị tốt các điều kiện cho công tác đại hội Đảng các cấp và tiến tới đại hội lần thứ XIII của Đảng./.

KHÔNG ĐỂ BỊ ĐỘNG, BẤT NGỜ TRONG MỌI TÌNH HUỐNG



 (Chinhphu.vn) – Chiều nay (13/1), tại TP. Cần Thơ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm, kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu, trực Tết tại Quân khu 9, lực lượng đứng chân trên địa bàn Đồng bằng sông Cửu Long gắn với tuyến biên giới và vùng biển, đảo Tây Nam.
Báo cáo với Thủ tướng, Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9 cho biết, năm qua, đã chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu cho Quân ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng xử lý có hiệu quả các tình huống về quốc phòng-an ninh, không để bị động bất ngờ. Tích cực triển khai đồng bộ, toàn diện các quy hoạch, đề án, kế hoạch quân sự, quốc phòng năm 2019 có liên quan đến xây dựng các tiềm lực trong khu vực phòng thủ. Thực hiện có hiệu quả chủ trương “Kết hợp quốc phòng với phát triển kinh tế”, đã xây dựng hồ dự trữ nước ngọt trên đảo Thổ Chu có dung tích gần 300.000 mét khối, đảo Hòn Từ hơn 80.000 mét khối... nhằm phục vụ cho bộ đội và nhân dân sống trên các đảo; cũng như xây dựng đường truyền trực tuyến tư vấn xử lý các tình huống cấp cứu, chăm sóc cộng đồng và nhiều công trình khác. Năm 2019, Quân khu đã làm tốt công tác chuẩn bị và thực hành diễn tập tác chiến phòng thủ Quân khu đúng ý định của Bộ, đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Đã bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, nổi bật là xây dựng các căn cứ hậu cần, kỹ thuật ở tuyến ven biển Đông, biển Tây và tuyến biên giới trên địa bàn Quân khu; đồng thời, ứng dụng khoa học công nghệ vào nghiên cứu tích hợp các loại trang bị lên xe thiết giáp cơ động trên địa hình đồng bằng sông nước, ven biển. Thường xuyên tổ chức hoạt động trao đổi đoàn cấp cao, giao lưu quốc phòng giữa Quân khu với các đơn vị của Quân đội Hoàng gia Campuchia.
Thời gian tới, Quân khu 9 sẽ tiếp tục tập trung chủ động nắm, dự báo, đánh giá sát đúng tình hình, kịp thời tham mưu, đề xuất cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy chính quyền địa phương chỉ đạo, xử lý hiệu quả các tình huống, không để bị động bất ngờ, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, biên giới, biển đảo. Đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; tập trung hướng vào địa bàn cơ sở, xây dựng điểm mô hình chốt dân quân, điểm tựa, cụm điểm tựa bảo vệ biên giới Tây Nam, xây dựng hải đội dân quân thường trực ở các địa phương ven biển, đảo (trước mắt xây dựng mô hình ở Kiên Giang làm thí điếm); hoàn thành dứt điểm đường tuần tra biên giới giai đoạn 2017-2020. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào huấn luyện, diễn tập ở các cấp.
Nhất trí với báo cáo của Tư lệnh Quân khu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ vui mừng khi biết Quân khu có thành tích tốt, có chương trình công tác cụ thể năm 2020, đặc biệt chuẩn bị Tết cho cán bộ, chiến sĩ.
Gửi lời thăm hỏi của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến cán bộ, chiến sĩ Quân khu 9, Thủ tướng nhìn nhận, Quân khu 9 có vị trí chiến lược về quân sự quốc phòng, kinh tế xã hội. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu với đặc điểm sông nước ĐBSCL. “Tôi rất ấn tượng khi xem một số cuộc diễn tập huấn luyện của các đơn vị trực thuộc Quân khu 9, hết sức sáng tạo”, Thủ tướng nói. Quân khu đã kết hợp tác quốc phòng với kinh tế; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu.
Thủ tướng nêu rõ, trong thời gian tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có lực lượng Quân khu 9 cần nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ.
Thủ tướng chỉ ra một trong những thách thức đối với ĐBSCL là biến đổi khí hậu cực đoan mà năm 2020 có thể xảy ra hạn mặn nghiêm trọng. “Chúng tôi đã có chỉ thị về việc hoàn thành một số hồ nước ngọt ở một số vùng, mà đồng chí Tư lệnh đã báo cáo, một số tỉnh đã làm việc này tốt, có biện pháp dự trữ nước ngọt tốt. Chỉ thị của Thủ tướng đối với ĐBSCL là phải bảo đảm nước ngọt cho người dân. Các thành ủy, tỉnh ủy phải tập trung xử lý vấn đề này, không để thiếu nước ngọt cho nhân dân”, Thủ tướng nhấn mạnh, và lưu ý Quân khu vấn đề này để giúp dân.
Thủ tướng đề nghị, trước hết, trong dịp Tết Nguyên đán này, phải bảo đảm đủ số quân trực, nắm chắc tình hình, sẵn sàng chiến đấu trong bất kỳ tình huống nào. Tăng cường công tác kiểm tra, tuần tra, kiểm soát, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong tất cả các hoạt động.
Kịp thời phát hiện mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động để chủ động có phương án ứng phó, ngăn chặn, đẩy lùi từ xa, bảo vệ vững chắc từng tấc đất, vùng trời của Tổ quốc, không để bị  động bất ngờ trong mọi tình huống. Không để xảy ra điểm nóng xảy ra trên địa bàn Quân khu 9.
Tiếp tục chỉ đạo xây dựng và bổ sung, hoàn chỉnh các phương án tác chiến, kế hoạch phòng thủ phù hợp với sự phát triển tình hình mới, phối hợp chặt chẽ cấp ủy, chính quyền địa phương chủ động xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên địa bàn, từng hướng chiến lược.
“Đội ngũ của chúng ta, hình ảnh của chúng ta càng tốt thì dân tin yêu càng nhiều”, Thủ tướng mong muốn các lực lượng Quân khu 9 giữ gìn hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện.

ĐƯA NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀO CUỘC SỐNG BẢO VỆ TỔ QUỐC



Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh tạo nền tảng vững chắc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Trong bối cảnh an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến phức tạp hiện nay, nhiệm vụ này càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Bản chất của xây dựng nền quốc phòng toàn dân là xây dựng nền tảng vật chất, tinh thần của nền quốc phòng vững mạnh, cùng với đấu tranh quốc phòng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong thực tiễn, nhờ thực hiện tốt đường lối quốc phòng toàn dân, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi quan trọng. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, khó dự báo, đặt ra yêu cầu mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đồng thời, tăng cường sức mạnh quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi mưu đồ chiến tranh xâm lược. Nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm nhiều vấn đề, trong đó tập trung vào xây dựng về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa - xã hội,… tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân về chính trị là nội dung quan trọng, quyết định sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân. Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới đã chỉ rõ: “Kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân gắn với xây dựng hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh”. Như vậy, xây dựng nền tảng chính trị của nền quốc phòng toàn dân trước hết là xây dựng hệ thống chính trị, trọng tâm là công tác xây dựng Đảng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, cần kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân và phản bác các quan điểm sai trái. Đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng; kiên quyết ngăn chặn, đấu tranh, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và hoạt động của chính quyền các cấp. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, thực hiện tốt dân chủ, giám sát và phản biện xã hội. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo và phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Cùng với xây dựng hệ thống chính trị, cần tập trung “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”1. Thực chất là xây dựng lực lượng đông nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất, chỗ dựa vững chắc nhất của nền quốc phòng toàn dân và sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trọng tâm là xây dựng và củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và trách nhiệm của mọi công dân. Để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, cần thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở; coi trọng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng; gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân về kinh tế là xây dựng nền tảng vật chất của nền quốc phòng toàn dân, của sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng về kinh tế, trước hết là phát triển nhanh, mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nền kinh tế sản xuất ra nhiều của cải, vật chất, tăng khả năng dự trữ cho quốc phòng, sẵn sàng huy động cho các nhiệm vụ. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách huy động lực lượng, phương tiện từ nền kinh tế, phục vụ các nhiệm vụ quốc phòng, cũng như xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong các cơ sở kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Phải bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển của nền kinh tế, tránh để chệch hướng như dự báo các nguy cơ của Đảng. Giữ vững độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực từ bên ngoài vào xây dựng thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nội dung cốt lõi của xây dựng nền quốc phòng toàn dân về kinh tế là kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận và lực lượng của nền quốc phòng toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức, triển khai đồng bộ, thống nhất kết hợp kinh tế với quốc phòng ngay từ trong đường lối, chính sách, quy hoạch, kế hoạch tổng thể đến biện pháp thực hiện từ Trung ương đến địa phương; chú trọng điều chỉnh quy hoạch giữa các vùng, miền, địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Tăng cường xây dựng các công trình lưỡng dụng; kết hợp quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm gắn với quốc phòng, nhất là các trọng điểm phòng thủ chiến lược quốc gia. Phát triển kinh tế - xã hội các vùng biên giới đất liền gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng bảo đảm từng bước hòa nhập với công nghiệp quốc gia, tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng công nghệ cao. Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong sản xuất vũ khí, trang bị quân sự, tập trung vào hệ thống tên lửa, tự động hóa chỉ huy, tác chiến không gian mạng,… bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cho Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân về quân sự là xây dựng nền tảng sức mạnh cơ bản, đặc trưng, nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, của sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; là sự tập trung sức mạnh mọi mặt của đất nước, thực hiện thắng lợi các hoạt động đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Xây dựng về quân sự, trước hết là xây dựng lực lượng quân sự, coi trọng xây dựng lực lượng toàn dân. Đây là lực lượng rất quan trọng, cần chuẩn bị chu đáo mọi mặt, sẵn sàng vũ trang toàn dân khi cần thiết. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, lấy xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ cở, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, luôn là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội bảo đảm tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam và vũ khí, trang bị mới. Từng bước hình thành quân chủng lục quân, xây dựng lực lượng tên lửa chiến lược, các sư đoàn binh chủng hợp thành mạnh làm lực lượng cơ động chiến lược, kết hợp cải tiến, sản xuất và mua sắm có trọng điểm các loại vũ khí hiện đại. Tiếp tục đổi mới công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, nâng cao hiệu quả các mặt bảo đảm cho Quân đội. Ưu tiên cho lực lượng làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược, quan tâm đúng mức đến việc Quân đội tham gia phòng thủ dân sự, nhất là trong phòng, chống thảm họa, thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, coi trọng công tác đăng ký, quản lý và huấn luyện. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp, chất lượng cao, chú trọng các địa bàn có tính đặc thù về quốc phòng, biên giới, biển, đảo, v.v.
Cùng với xây dựng lực lượng quân sự, tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh thế bố trí các lực lượng, hình thành thế trận chiến lược vững chắc trên cả nước, từng hướng, từng địa bàn. Đầu tư xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, liên kết chặt chẽ trong thế trận tác chiến phòng thủ quân khu. Tiếp tục xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự có trọng điểm, ưu tiên công trình phòng thủ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược, đường tuần tra biên giới, khu kinh tế - quốc phòng và trên hướng chiến lược trọng yếu. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, phát triển nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự, kỹ thuật quân sự, coi trọng nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ xây dựng về quốc phòng với đấu tranh quốc phòng, thường xuyên nắm chắc tình hình, làm tốt công tác dự báo, nhất là dự báo chiến lược, chủ động chuẩn bị về mọi mặt, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân về văn hóa - xã hội là xây dựng nền tảng tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, của sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; làm cho “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2; là sự thể hiện bản sắc, cốt cách của dân tộc cùng với kết cấu xã hội và sự cố kết cộng đồng dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh Việt Nam. Trong tình hình mới, văn hóa cần được xây dựng toàn diện trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, đối ngoại, quân sự, v.v. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng tới chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, xây dựng và huấn luyện Quân đội cần coi trọng xây dựng văn hóa quân sự, nghệ thuật, khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đối ngoại quốc phòng và trong ứng xử, xử lý các tình huống. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần quan tâm đúng mức đến xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử, văn hóa dân tộc, chú trọng đến thế hệ trẻ, giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, kiên quyết ngăn chặn sự lệ thuộc, xâm lăng về văn hóa. Quản lý chặt chẽ các hoạt động báo chí, tuyên truyền, xuất bản,… bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, chủ động cung cấp thông tin, định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin, văn hóa độc hại, nâng cao khả năng tự bảo vệ.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa - xã hội là xây dựng các nội dung rất cơ bản của nền quốc phòng toàn dân. Khi tiến hành, cần kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân về đối ngoại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nhằm tạo và phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

_________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
2 - Sđd, tr. 126.

TOÀN QUÂN NÊU CAO TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ, QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG NĂM 2020



Năm 2019, toàn quân triển khai thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược, chiến tranh thương mại giữa các nước lớn diễn ra gay gắt; tranh chấp chủ quyền, xung đột sắc tộc, dân tộc, khủng bố, chiến tranh cục bộ và những vấn đề an ninh phi truyền thống gia tăng. Trong nước, an ninh chính trị - xã hội cơ bản ổn định, kinh tế tăng trưởng vững chắc; quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường; công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục đạt nhiều kết quả quan trọng, đã góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội. Tuy nhiên, tình hình trên Biển Đông có những phức tạp mới, đặt ra nhiều thách thức về quốc phòng, an ninh. Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh hoạt động chống phá với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, v.v. Tình hình trên tác động trực tiếp đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc với cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Trong bối cảnh đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã luôn quán triệt sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2019; có một số nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Nổi bật là, Quân đội đã chủ động, nhạy bén làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước có quyết sách đúng đắn, xử lý kiên quyết, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ; phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc. Công tác huấn luyện, diễn tập, giáo dục, đào tạo, tài chính, hậu cần, kỹ thuật, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng được triển khai toàn diện, đúng hướng, có nhiều đổi mới, đạt những kết quả tích cực; hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng được mở rộng, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu. Chúng ta đã cử Bệnh viện dã chiến cấp 2, số 1 và số 2 sang Phái bộ Nam Xu-đăng thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; trong đó, Bệnh viện dã chiến cấp 2, số 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Phái bộ của Liên hợp quốc và nhân dân nước sở tại hoan nghênh và đánh giá rất cao. Ba khâu đột phá xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X tiếp tục được đẩy mạnh thực hiện; nền nếp chính quy có bước chuyển biến tiến bộ vững chắc; việc điều chỉnh tổ chức lực lượng tiến hành nghiêm túc, quyết liệt, đạt kết quả tốt. Chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội được nâng lên. Toàn quân luôn sẵn sàng chiến đấu cao, phối hợp chặt chẽ với Công an và các lực lượng giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời, luôn là lực lượng xung kích, nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn, xử lý ô nhiễm môi trường; xây dựng cơ sở chính trị, làm công tác dân vận, giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, v.v. Qua đó, làm ngời sáng thêm phẩm chất, hình ảnh cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân.
Đảng bộ Quân đội tiếp tục gương mẫu thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị và các chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương về xây dựng Đảng; tích cực chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, phù hợp với đặc điểm yêu cầu nhiệm vụ của Đảng bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong toàn quân được chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao. Công tác đảng, công tác chính trị được tiến hành tích cực, hiệu quả, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Các cấp đã tổ chức tốt Đại hội Thi đua Quyết thắng giai đoạn 2014 - 2019; tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1989 - 22-12-2019), 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-2019), tạo sự lan tỏa sâu rộng, khơi dậy và nhân lên niềm vinh dự, tự hào về truyền thống bảo vệ Tổ quốc của dân tộc và bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Toàn quân đoàn kết, thống nhất, kiên định, vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, gắn bó mật thiết với Nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Những kết quả đạt được là rất đáng khích lệ; tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2019 vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Đáng chú ý là: công tác phối hợp trong nắm, dự báo tình hình có nội dung chưa kịp thời; chất lượng huấn luyện có mặt còn hạn chế; công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, quản lý, rèn luyện kỷ luật ở một số đơn vị chưa sâu, chưa chặt chẽ; tình hình vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiêm trọng, mất an toàn giao thông, trong huấn luyện chưa giảm, v.v. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm, sớm có biện pháp khắc phục.
Năm 2020, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp. Cạnh tranh chiến lược, căng thẳng thương mại và thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống có xu hướng gia tăng. Cộng đồng ASEAN phát triển và hội nhập sâu rộng, song phải đối mặt với những thách thức mới. Tình hình Biển Đông tiếp tục sẽ có những diễn biến phức tạp, căng thẳng, khó dự báo; biển Tây Nam tiềm ẩn những thách thức mới về quốc phòng, an ninh. Đối với nước ta, đây là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại1; năm tổ chức đại hội đảng các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Bên cạnh thuận lợi là cơ bản, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu mới và toàn diện. Các thế lực thù địch, phản động sẽ chống phá quyết liệt, công khai, trực diện hơn, nhất là dịp diễn ra đại hội đảng các cấp, v.v. Bởi vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2020, đòi hỏi toàn quân, trước hết là cấp ủy, chỉ huy các cấp phải nêu cao trách nhiệm chính trị, đoàn kết, thống nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, thực hiện tốt chức năng tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước xử lý thắng lợi mọi tình huống quân sự, quốc phòng. Trước sự biến động mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, nhất là diễn biến phức tạp trên Biển Đông, đòi hỏi toàn quân, trước hết là các cơ quan chiến lược phải nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu, dự báo chiến lược về quân sự, quốc phòng, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược và các đối sách linh hoạt, đúng đắn, phù hợp, giải pháp toàn diện, khả thi, chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, xử lý thắng lợi các tình huống quân sự, quốc phòng; giải quyết tốt các quan hệ quốc tế, vấn đề biển, đảo, biên giới,... không để bị động, bất ngờ về chiến lược. Để làm tốt vấn đề này, các cơ quan cần chủ động nhạy bén, đẩy mạnh đổi mới tư duy, đột phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu chiến lược; tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng làm tốt công tác nắm tình hình, nhất là những động thái, điều chỉnh chiến lược của các nước lớn, sự biến động tình hình an ninh chính trị thế giới, khu vực có liên quan. Tập trung nghiên cứu, đánh giá, phân tích và dự báo sâu, chính xác ở tầm chiến lược; trong đó, chú trọng tham mưu, đề xuất những chủ trương lớn về xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng; triển khai thực hiện hiệu quả các chiến lược, nghị quyết, kết luận, đề án, luật về quân sự, quốc phòng đã ban hành; đánh giá chính xác, kịp thời về đối tượng, đối tác, làm cơ sở để xây dựng phương thức đấu tranh quốc phòng, đối ngoại quốc phòng phù hợp, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Toàn quân thường xuyên nêu cao cảnh giác, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; chủ động rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các quyết tâm, kế hoạch tác chiến, kế hoạch phối hợp, hiệp đồng trên từng hướng, địa bàn chiến lược, phù hợp với tình hình thực tiễn; tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, quản lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển, biên giới, nội địa, các địa bàn trọng điểm và không gian mạng. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Công an và các lực lượng thực hiện tốt Nghị định 03/2019/NĐ-CP, ngày 05-9-2019 của Chính phủ; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm an toàn tuyệt đối đại hội đảng các cấp, các ngày lễ lớn của đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Hai làtiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị; trong đó, Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Từ kết quả, kinh nghiệm đã đạt được, các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự địa phương các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X); Nghị định 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-02-2019 của Chính phủ gắn với thực hiện Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Luật Quốc phòng, các chiến lược chuyên ngành và Luật Dân quân tự vệ (sửa đổi), Luật Lực lượng dự bị động viên, v.v. Trên cơ sở đó, chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và phối hợp với các lực lượng đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Trong đó, chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; tham mưu cho địa phương đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện cơ chế, quy chế lãnh đạo, điều hành xây dựng, hoạt động khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và phòng thủ quân khu; kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng, ban chỉ đạo về quân sự, quốc phòng ở các cấp, ban chỉ huy quân sự bộ, ngành Trung ương và cơ sở; tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh. Đặc biệt, tăng cường xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ, trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quân sự, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, chiến lược, biên giới, biển, đảo. Cùng với đó, các đơn vị Quân đội thực hiện tốt chức năng quản lý về quốc phòng; tiếp tục phát huy vai trò “đội quân công tác”, tích cực thực hiện công tác dân vận, tuyên truyền đặc biệt, tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai; đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng,… nhằm góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo nền tảng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Năm 2020 có ý nghĩa quyết định hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu nhiệm kỳ 2015 - 2020. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần rà soát, bổ sung biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã xác định trong kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Trước hết, tập trung thực hiện đồng bộ các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tạo cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đảm bảo cho Quân đội luôn xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Các cơ quan, đơn vị tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ; tập trung đổi mới công tác giáo dục chính trị, phổ biến pháp luật, định hướng tư tưởng, để bộ đội nắm chắc đối tượng, đối tác, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhất là đối với các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới. Kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề tư tưởng tiêu cực nảy sinh; xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Toàn quân tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) gắn với thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chủ động phối hợp với các lực lượng đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là thời điểm diễn ra đại hội đảng các cấp, giữ vững trận địa tư tưởng, không để xảy ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội.
Toàn quân tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba khâu đột phá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, tạo chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế; huấn luyện, đào tạo; chấp hành kỷ luật, pháp luật và cải cách hành chính quân sự. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai Kết luận 16-KL/TW của Bộ Chính trị; hoàn chỉnh Đề án tổ chức Quân đội trong tình hình mới; Đề án Quy hoạch hệ thống nhà trường Quân đội; thực hiện nghiêm túc, quyết liệt việc điều chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh; ưu tiên bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đơn vị ở địa bàn trọng điểm. Cùng với đó, tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết 765-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”; chú trọng đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp huấn luyện, diễn tập. Đồng thời, thực hiện tốt phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát nhiệm vụ, thực tế chiến đấu, địa bàn hoạt động, đối tượng tác chiến và tổ chức biên chế, trang bị, yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Tăng cường huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, thể lực và làm chủ các loại vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí thế hệ mới; huấn luyện, diễn tập nâng cao khả năng cơ động, tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, tác chiến bảo vệ biển, đảo và không gian mạng. Các học viện, nhà trường Quân đội tích cực đổi mới quy trình, chương trình, nội dung đào tạo; nâng cao chất lượng dạy, học ngoại ngữ; đẩy mạnh triển khai xây dựng nhà trường thông minh tiếp cận cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhân rộng kết quả xây dựng đơn vị điểm vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Đồng thời, thực hiện đồng bộ các biện pháp siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tăng cường quản lý kỷ luật, quản lý con người, vũ khí, trang bị và các mối quan hệ của quân nhân,... tạo chuyển biến vững chắc về xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, pháp luật, phấn đấu giảm tỷ lệ vi phạm kỷ luật, pháp luật, nhất các vụ việc nghiêm trọng, mất an toàn trong huấn luyện, diễn tập và giao thông; xử lý dứt điểm những sai phạm, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng. Toàn quân tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính quân sự, có giải pháp đột phá thực hiện ở cơ quan chiến dịch, chiến lược. Cùng với đó, cần triển khai thực hiện tốt các mặt công tác: hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, kế hoạch và đầu tư, tài chính, tư pháp, cơ yếu,… tạo bước chuyển mang tính đột phá về trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới.
Bốn làđẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, tạo thế và lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, công tác hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới, trọng tâm là Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá XI); Nghị quyết 806-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương, v.v. Chú trọng thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng đa phương, song phương đi vào chiều sâu, thực chất; tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các diễn đàn quốc tế, cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương, hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, v.v. Quá trình thực hiện, phải luôn kiên định, giữ vững mục tiêu, định hướng hội nhập; ưu tiên quan hệ, hợp tác quốc phòng với các nước có biên giới liền kề, các nước lớn, đối tác chiến lược, các nước ASEAN và bạn bè truyền thống; giải quyết tốt quan hệ, hợp tác quốc phòng với các đối tác, đảm bảo cân bằng chiến lược, tăng cường lòng tin và đan xen lợi ích; chủ động chuẩn bị các phương án đấu tranh, thông qua đối ngoại quốc phòng để tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với các lợi ích hợp pháp của Việt Nam, nhất là trên Biển Đông, v.v. Trước mắt, đẩy mạnh thực hiện Đề án “Hội nhập quốc tế về quốc phòng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” theo kế hoạch, lộ trình đã xác định; triển khai thực hiện tốt Đề án tổng thể hoạt động đối ngoại quốc phòng năm 2020 - khi Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trọng tâm tập trung tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) lần thứ 14; Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ 7; Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ba nước Đông Dương; các cuộc giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia,... và chuẩn bị mọi mặt đưa Đội Công binh đi làm nhiệm vụ tại Phái bộ Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng. Qua đó, góp phần xây dựng lòng tin chiến lược, nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội và đất nước trên trường quốc tế; tạo thế trận đối ngoại quốc phòng vững chắc, thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
Năm là, làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đây là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Quân đội nhân dân. Do đó, toàn quân tiếp tục triển khai đồng bộ, có hiệu quả các nhóm giải pháp thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng; chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ Quân đội. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng sinh hoạt và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết; đề cao tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy và chỉ huy đơn vị; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phê bình và tự phê bình, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, v.v. Trước mắt, các đơn vị rà soát, lãnh đạo thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X đã xác định. Đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị 35-CT/TW của Bộ Chính trị; Chỉ thị 747-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương và hướng dẫn của cấp ủy cấp trên; làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp và Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội XI; tham gia xây dựng văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới, phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương; làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chuẩn bị báo cáo chính trị, nhân sự cấp ủy khóa mới. Đẩy mạnh kiện toàn cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp gắn với chuẩn bị nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025, đảm bảo số lượng, tiêu chuẩn, cơ cấu, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược, cán bộ cơ quan quân sự địa phương tham gia cấp ủy địa phương các cấp, v.v. Sau đại hội, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải kịp thời xây dựng quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu, chương trình làm việc toàn khóa, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội và phân công nhiệm vụ cho cấp ủy viên, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất, cụ thể hóa lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và các mục tiêu, chỉ tiêu đại hội các cấp đã đề ra.
Năm 2020, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng rất nặng nề, yêu cầu cao. Với niềm phấn khởi, tự hào, truyền thống 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân tiếp tục nêu cao trách nhiệm chính trị, tăng cường đoàn kết, chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, thiết thực lập thành tích chào mừng Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930 – 03-02-2020); 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020); 75 năm Cách mạng Tháng Tám (19-8-1945 – 19-8-2020) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02-9-1945 – 02-9-2020), làm nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
________________
1 - Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930 – 03-02-2020); 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020); 75 năm Cách mạng Tháng Tám (19-8-1945 – 19-8-2020) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02-9-1945 – 02-9-2020); Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN, Bộ Quốc phòng đảm nhiệm Chủ tịch ADMM và ADMM+, v.v.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...