Thứ Hai, 15 tháng 5, 2023

Tránh bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan

Ngày 9-5-1945 là ngày Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh buộc phát xít Đức phải đầu hàng vô điều kiện, là cơ sở để đánh bại chủ nghĩa phát xít trên phạm vi toàn cầu, giành lại hòa bình cho thế giới. Tưởng như sau thất bại trên thì chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa dân tộc cực đoan sẽ hoàn toàn bị đẩy lùi. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn có những mưu đồ hòng thúc đẩy sự hình thành của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, gây chia rẽ, kích động thù hằn dân tộc trong nội bộ các quốc gia và gây bất ổn, tạo nguy cơ xung đột, chiến tranh trên bình diện quốc tế. Vì thế, cần phải hết sức tỉnh táo nhìn nhận để tránh trở thành nạn nhân của những mưu đồ đen tối.

Chủ nghĩa dân tộc cực đoan hay tư tưởng dân tộc hẹp hòi là xu hướng tư tưởng tuyệt đối hóa giá trị dân tộc mình, đặt dân tộc mình ở vị trí cao nhất trong toàn bộ hệ thống giá trị, đi đến chỗ bài ngoại, tự phụ, định kiến, kỳ thị, thù ghét, ngờ vực dân tộc khác, sẵn sàng gây thiệt hại cho dân tộc khác. Trên bình diện quốc tế, chủ nghĩa dân tộc cực đoan dễ dẫn đến xu hướng biệt lập, cục bộ, vị kỷ, chống lại xu hướng hợp tác, liên kết và hội nhập quốc tế, thậm chí có thể thúc đẩy xu hướng chiến tranh, xâm lược. Do đó, nó cản trở sự giao thoa và hợp tác quốc tế, làm suy giảm lòng tin chiến lược giữa các quốc gia.

Tại mỗi quốc gia, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc hẹp hòi đề cao lợi ích cục bộ của mỗi tộc người, chia rẽ tình đoàn kết, thống nhất trong nội bộ quốc gia. Ví dụ như tại Việt Nam, có thể thấy có những âm mưu kích động các đồng bào dân tộc ít người như Mông, Khmer từ bỏ lợi ích chung của dân tộc Việt Nam để đòi thành lập “nhà nước riêng”... Mục đích của việc kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi là chia cắt đất nước ta thành nhiều vùng, miền, khu vực tự trị của đồng bào dân tộc thiểu số và không phụ thuộc vào Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay vào đó sẽ là lực lượng chính trị phản động nắm giữ. Được các thế lực thù địch thúc đẩy, tạo điều kiện, những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan không từ bỏ phương tiện và thủ đoạn nào. Lúc đầu, họ sẽ đòi phục hồi các quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, rồi cao hơn là gây bạo loạn, lật đổ, đòi dân tộc tự trị, cuối cùng là đòi ly khai lập quốc gia riêng.

Mưu đồ đó nếu được thực hiện thành công thì sẽ gây bất ổn chính trị-xã hội, thậm chí tạo nguy cơ xung đột, làm suy yếu dân tộc Việt Nam dưới góc độ quốc gia-dân tộc và ảnh hưởng bất lợi đến sự tồn tại và phát triển của 54 dân tộc anh em. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc hẹp hòi không chỉ gây bất lợi cho sự phát triển của dân tộc với ý nghĩa là một quốc gia mà còn bất lợi cho sự tồn tại, phát triển đối với các dân tộc với ý nghĩa là các tộc người.   

Đối với quan hệ quốc tế, thế lực bên ngoài luôn tìm cách kích động gây hiềm khích giữa dân tộc Việt Nam và các nước xung quanh để từ đó trục lợi. Có thể thấy, trong xã hội Việt Nam, do bị nhiễm độc từ các thông tin trên mạng nên đang hình thành một lớp người rất định kiến, hẹp hòi khi nhìn nhận, đánh giá về các dân tộc, quốc gia mà Việt Nam đã có quan hệ đối ngoại. Theo cách nhìn nhận vừa định kiến, vừa ngây thơ của họ, có những dân tộc, quốc gia đã được mặc định là “xấu xa”, “nên bỏ”, dứt khoát phải đối đầu, ngược lại, có những dân tộc, quốc gia được mặc định là “tốt”, “nên theo”, nên kết tình đồng minh. Nhân các sự kiện ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc, luôn có các âm mưu chống phá, hòng kích động những quan điểm, tư tưởng dân tộc cực đoan, hẹp hòi. Không ít kẻ cố tình xuyên tạc những sự kiện ngoại giao theo thông lệ, hết sức tốt đẹp thành những vấn đề nóng, cố tình lái dư luận đến cách hiểu sai trái, nguy hiểm rằng Việt Nam “đang lệ thuộc Trung Quốc”, “đang bán rẻ chủ quyền biển, đảo cho Trung Quốc”. Những hoạt động kinh tế-xã hội giữa Việt Nam với Trung Quốc là nhu cầu tất yếu, bởi Trung Quốc là một nước láng giềng, giao thông thuận lợi, lại là một trong hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Thế nhưng, với nhu cầu hiển nhiên ấy, những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi vẫn cố tình không hiểu, phản đối và đòi hỏi rất vô lý rằng phải “thoát Trung” cả về chính trị và kinh tế. 

Nhân các dịp kỷ niệm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, rồi vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, trên không gian mạng xuất hiện những luồng ý kiến sai trái rằng cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc đã bị lãng quên. Có những kẻ lợi dụng việc này để xuyên tạc, chửi bới chính quyền, thông qua đó kích động dư luận.

Có thể thấy những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái. Bởi xét từ trong lịch sử các triều đại của Việt Nam, bên cạnh việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì đều rất coi trọng vấn đề bang giao, tạo mối quan hệ tốt đẹp với nước láng giềng. Ngày nay, môi trường quan hệ quốc tế đang ngày càng phức tạp, tuy nhiên, qua đó lại thấy rõ tính đúng đắn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, chọn lẽ phải chứ không chọn bên. Vấn đề lợi ích quốc gia-dân tộc được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Cần giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển

Lợi ích quốc gia-dân tộc là các mục tiêu mà Việt Nam luôn theo đuổi để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mình, bao gồm: Giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; ổn định chế độ chính trị; bảo đảm an ninh và an toàn cho người dân; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm các điều kiện cho quốc gia phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao... Thế nhưng, những lợi ích này chỉ có thể đạt được trọn vẹn trong một môi trường hòa bình, ổn định.

Có thể khẳng định, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục đối với những sự kiện lịch sử, trong đó có cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc và đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Thông tin, tuyên truyền, giáo dục luôn làm nổi bật tính chính nghĩa của các cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc; ngợi ca truyền thống lịch sử, lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, ý chí tự lực, tự cường và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; ghi nhận, tri ân công lao to lớn, sự hy sinh anh dũng của quân và dân ta trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, việc thông tin, tuyên truyền về các vấn đề trên luôn thận trọng, bảo đảm đúng quan điểm của Đảng và tôn trọng lịch sử, không lấy lịch sử để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam. Công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn được tập trung thực hiện kiên quyết, kiên trì nhưng theo đúng nguyên tắc là bảo đảm lợi ích của quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; góp phần giữ gìn, thúc đẩy mối quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước xung quanh.

Với vị trí địa chính trị đặc biệt cùng sự phát triển vượt bậc về kinh tế, chính trị, Việt Nam đang trở thành quốc gia quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Vì thế, mỗi động thái ngoại giao của Việt Nam đều thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế, nhất là trong bối cảnh thế giới đang lâm vào khủng hoảng địa chính trị, các cường quốc phân cực mạnh mẽ. Khi các cường quốc gia tăng sức ép để lôi kéo đồng minh, những quốc gia nhỏ hơn phải chịu rất nhiều áp lực về việc chọn phe. Chỉ những quốc gia với tiềm lực nhất định, khéo léo và bản lĩnh mới có thể cân bằng tình thế để bảo đảm lợi ích cho quốc gia, dân tộc.

Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhân dân đã phải đổ nhiều máu xương đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước thì không một ai có thể quên đi quá khứ đau thương, càng không bao giờ được lơ là, mất cảnh giác. Tuy nhiên, cũng chính vì thế, chúng ta càng cần trân quý và gìn giữ mỗi trường hòa bình, ổn định để dựng xây đất nước. Chỉ có thể thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” trong điều kiện hòa bình, hợp tác, đoàn kết các dân tộc anh em để phát triển. Kiểu thông tin theo thuyết âm mưu của các trang tin và tổ chức chống cộng là muốn kích động sự hiềm khích dân tộc, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, nhằm làm rối ren tình hình chính trị và đẩy Việt Nam vào tình thế khó khăn. Bởi thế, mỗi người cần tỉnh táo để nhận rõ âm mưu thâm độc, dã tâm phá hoại quan hệ quốc tế, ngăn cản sự phát triển của đất nước ta.

Cần cảnh giác những biến tấu của hội, nhóm “yêu đồ lính”

Các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, bôi lem bản chất, hình ảnh lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Một trong những thủ đoạn mới của chúng trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay là sử dụng không gian mạng tuyên truyền lối sống, văn hóa, khôi phục tàn dư của chế độ Việt Nam Cộng hoà trước đây; đồng thời đánh tráo khái niệm, bôi lem, bóp méo hình ảnh người lính lực lượng vũ trang nhân dân.


Ảo tưởng thú “chơi” đồ lính

Hoạt động bất thường các hội, nhóm “yêu đồ lính”

Mấy năm gần đây, trên không gian mạng, các kênh You tube, Facebook… xuất hiện tràn lan những hội nhóm “yêu đồ lính”, “yêu đồ lính Việt Nam Cộng hòa” và ai cũng có thể dễ dàng gia nhập các group như “hội yêu đồ lính”, “hội yêu đồ lính thành phố Phúc Yên”, “yêu đồ lính Thành Nam”, “anh em yêu đồ lính Thủ đô”, “đồ lính Mỹ”, “hội đam mê đồ lính Hải Dương”, “chơi đồ lính xứ Lạng”, “phong cách lính miền Trung”… Các hội, nhóm này ngày càng phát triển rộng trên các tỉnh, thành từ Bắc tới Nam, mỗi hội, nhóm có số lượng thành viên lên tới hàng trăm người.

Sự việc sẽ là bình thường, thậm chí rất tốt nếu như “yêu đồ lính” đó là “màu xanh áo lính”, gắn với hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, hình ảnh lực lượng vũ trang (Công an, Quân đội) nhân dân Việt Nam. Người lính Cụ Hồ vốn được Đảng, Bác Hồ khai sinh ra, giáo dục, rèn luyện; là cánh tay phải, kề vai sát cánh dưới cờ Đảng; đồng hành cùng vận mệnh dân tộc, đất nước qua các thời kỳ lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng và bảo vệ đất nước yên bình, phát triển như hôm nay.

Sẽ là bình thường, bởi kể từ khi ra đời, ngày 22/12/1944 đối với lực lượng Quân đội nhân dân và ngày 19/8/1945 đối với lực lượng Công an nhân dân thì hình ảnh người lính chẳng tiếc tuổi xuân, máu xương, chiến đấu quên mình, hy sinh bản thân cho từng tấc đất, con sông, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc và sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Sẽ là bình thường bởi hình ảnh người lính Cụ Hồ in đậm trong trang sách, lời ca, đi vào tiềm thức, tâm tư, tình cảm, lắng đọng trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam và lan tỏa đến bạn bè quốc tế.

Nhưng điều đáng nói ở đây, sự xuất hiện thông tin, hình ảnh, hoạt động của những hội, nhóm “yêu đồ lính” trên không gian mạng và hoạt động ngoài đời không bình thường mà đầy những bất thường, tiềm ẩn những vấn đề về an ninh xã hội, văn hoá dân tộc. Điều bất thường ở chỗ những hình ảnh đại diện của các tài khoản Youtube, Facebook hoặc những tài khoản rao bán trang phục nhân danh “yêu đồ lính” trên mạng tràn lan hình ảnh trang phục đủ loại, thậm chí cả cái kim tây dùng cài chốt lựu đạn của quân đội Mỹ ở miền Nam… cho thấy rõ “yêu đồ lính” ở đây là lính Mỹ, lính của chế độ Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975.

Điều bất thường ở chỗ, những hội, nhóm này không chỉ hiện hữu trên không gian mạng mà nảy nở ở hiện thực ngoài đời, trên nhiều tỉnh, thành trên cả nước. Rồi những người này liên tục có các hoạt động mang tính chất phô trương thanh thế như mặc các đồ người lính Việt Nam Cộng hoà, rồng rắn từng đoàn đi các loại xe mô tô phân khối lớn hoặc xe ôtô Zeep cũ diễu hành trên các đường phố như muốn “diễu võ giương oai” với thiên hạ. Họ tranh thủ tìm mọi cách xâm nhập vào các sự kiện, các hoạt động văn hóa, những nơi nhộn nhịp, có sự hiện diện của nhiều thành phần.

Chúng ta còn nhớ, ngày 11/3/2023, dư luận xã hội rất bức xúc khi nhóm người này “giễu võ giương oai” trong Lễ hội Áo dài hoa cúc biển Cửa Lò 2023. Điều bất thường, thậm chí mang tính xúc phạm đối với những vong linh anh hùng, liệt sĩ, những người lính Cụ Hồ năm xưa đã đổ bao xương máu, hy sinh bản thân mình vì độc lập, tự do cho Tổ quốc khi những người này nghênh ngang cả đoàn dài, lố nhố trên xe Zeep với những khuôn mặt bặm trợn, trang phục của quân lính Mỹ, chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 - sắc phục của những thế lực đã thả bom, đạn, lấy đi xương máu, cướp đi sinh mạng khiến đồng bào, chiến sĩ ta vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất mẹ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam của nhân dân Việt Nam kết thúc cách đây đã gần 50 năm, những tàn dư sắc phục, đồ dùng của lính Mỹ hay quân đội Sài Gòn thời đó, nếu ngày nay có còn thì cũng đã mục rách, rỉ sét và cũng chỉ còn số lượng rất ít. Vậy lấy đâu ra số lượng lớn, với nhiều đồ mới để cung cấp cho những hội, nhóm này? Qua các thông tin trên báo chí cho thấy, lực lượng chức năng đã phát hiện, thu giữ nhiều vụ nhập lậu các lô hàng trang phục có màu sắc, thiết kế giống với trang phục của quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà trước đây. Như vậy, hình ảnh quân, trang phục của hội nhân danh “yêu đồ lính” trên mạng xã hội và ở ngoài đời là có sự tiếp tay, hậu thuẫn từ bên ngoài.

Đó là sự kiện mang tính “phô trương thanh thế” khi những người này nghênh ngang trang phục lính Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ vào các nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên, Hà Giang hay địa danh liên quan những thương vong lớn của ta thời kỳ kháng chiến chống Mỹ như Khe Sanh, Thành Cổ (Quảng Trị)…  Thậm chí ngày 15/4/2021, ở đường Võ Thị Sáu, Kp7, phường Thống Nhất, Biên Hòa, Đồng Nai có hẳn một quán cà phê mang danh ARMY nhưng bài trí toàn đồ dùng của lính chính quyền Sài Gòn trước đây. Nhân viên phục vụ quán mặc nguyên quân phục của “lực lượng Bình định nông thôn” trước năm 1975 đã rình rang khai trương, ngay sau đó lực lượng liên ngành địa phương đã kiểm tra, yêu cầu sửa chữa, trang trí lại.

Gần đây nữa là hình ảnh đoàn xe Zeep của hội nhóm “yêu đồ lính” đã rầm rộ đi thẳng vào Khu tưởng niệm Thanh niên xung phong Đại đội 915 Bắc Thái. Khu tưởng niệm Đại đội 915 Bắc Thái ở phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên là nơi lưu dấu ấn đậm nét về phẩm chất anh hùng cách mạng tiêu biểu của đất và người Thái Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cách đây 51 năm, đêm Noel năm 1972, một khúc tráng ca đã cất lên và trở thành bất tử trên bầu trời, mặt đất và vào tận thẳm sâu khí chất, tâm hồn con người Thái Nguyên. Trận bom đó khiến 60 cán bộ, đội viên TNXP Đại đội 915 Bắc Thái hy sinh, 8 người khác bị thương.

Cũng trong thời khắc lịch sử đầy bi thương ấy, hình ảnh những CBCS CAND tỉnh Thái Nguyên do đồng chí Nguyễn Văn Thuần, Phó Ty Công an dẫn đầu trong bộ cảnh phục, trên đầu đội chiếc mũ cứng, trên vai khoác chiếc sắc cốt và hình ảnh CBCS Cảnh sát PCCC mặc áo bạt, đội mũ đồng, đi đôi ủng đen quên mình, lăn xả vào đám cháy, bới đống đổ nát, cứu người, cứu hỏa, cứu tài sản đã in đậm trong lòng đất và người Thái Nguyên dấu ấn không thể phai mờ. Sự hy sinh của 60 TNXP vì bom Mỹ đêm Noel năm 1972 đã thành bản anh hùng ca - khúc tráng ca bất tử và ngày nay để tri ân, tưởng nhớ sự hy sinh của 60 TNXP Đại đội 915 Bắc Thái, chính quyền và nhân dân Thái Nguyên đã xây dựng tại đây Khu tưởng niệm.

Ấy thế mà, những người nhân danh “yêu đồ lính” lại ngang nhiên mặc nguyên những trang phục, sử dụng phương tiện của đội quân trực tiếp thả những quả bom tàn sát tập thể, gây ra sự hy sinh của 60 TNXP để rầm rộ “ra oai” tại khu tưởng niệm. Cũng có ý kiến cho rằng, trong thời buổi hội nhập, phát triển đất nước như hôm nay, phải xóa bỏ hận thù để cùng là bạn, cùng phát triển thì việc những cựu binh Mỹ đã từng gây ra thương vong cho đất nước Việt Nam như Thượng nghị sĩ John McCain sau này là bạn với Việt Nam hoặc những cựu sĩ quan chính quyền Sài Gòn trước đây như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Lập đều được chính quyền và nhân dân Việt Nam mở lòng đón họ trở về và họ cũng đã có hành động tích cực, đóng góp vào sự phát triển của quê hương, đất nước. Những người này cũng đã đến thăm những khu tưởng niệm, nghĩa trang liệt sĩ, được tổ chức ra thăm quần đảo Trường Sa…, vậy tại sao lại phê phán những người nhân danh “yêu đồ lính” đến viếng khu tưởng niệm anh hùng liệt sĩ?

Vấn đề ở đây là, những người thực sự thiện chí với hòa hiếu, hoà hợp, đoàn kết dân tộc, trong quá khứ họ từng thực chiến chống lại nhân dân ta thì ngày nay họ đến thăm viếng những khu tưởng niệm anh hùng liệt sĩ bằng tấm lòng thành, với quan điểm “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì đó là điều đáng được ghi nhận và nhân dân ta tạo điều kiện để họ làm điều đó, vì tinh thần hoà hiếu, hoà giải. Và trên quan điểm văn hoá, họ đến viếng với trang phục thông thường, bằng sự chân thành. Còn với những trường hợp nhân danh “yêu đồ lính” thì thành phần tham gia không phải là những người lính quân đội Mỹ hay tham gia chính quyền Sài Gòn trước đây, số này đa phần sinh sau 1975 hoặc trước 1975 thì thời điểm đó cũng còn nhỏ. Nghĩa là họ không trải qua chiến tranh, không cầm súng ra chiến trường.

Khi đến viếng lại không phải đi đứng với thái độ thành kính, tri ân mà ra vào kiểu “phô trương thanh thế”, ăn mặc quân phục, đi phương tiện kiểu của lính Mỹ và quân đội Sài Gòn cũ, đeo kính đen, kèm những phát ngôn, ứng xử kiểu lố lăng, phản cảm, nhiều người thái độ bặm trợn, ra oai. Ăn mặc như thế, thái độ phản cảm như thế, rầm rộ kéo vào khu tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc rồi quay clip phát tán lên mạng, thực sự đó là hành vi lố lăng, vô văn hoá chứ không thể ngụy biện là “thăm viếng liệt sĩ”.

Chúng ta còn nhớ, trong thế chiến thứ II, người chiến sĩ cộng sản Tiệp Khắc Julius Fucik, tác giả cuốn “Viết dưới giá treo cổ” luôn nhắc nhở thế giới phải có trách nhiệm ngăn chặn mọi mầm mống phát xít. Với hành động của những người nhân danh “yêu đồ lính”, lời nói này vẫn còn nguyên giá trị: “Hỡi nhân loại, tôi yêu mến tất cả mọi người, nhưng hãy cảnh giác”.

“Bắt mạch” thủ đoạn lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí

Xã hội hiện đại, báo chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm, ý chí của Nhà nước và tiếng nói của nhân dân, là công cụ của tự do biểu đạt. Ngày nay, tự do ngôn luận, tự do báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng, được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ, có tác động thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.

Cứ thành thói quen, vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3/5) hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6), trên nhiều trang mạng trong và ngoài nước cũng như một số phương tiện truyền thông quốc tế đã có những đánh giá sai lệch, xuyên tạc thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” ra sức nguỵ biện để đổi trắng thay đen, nói không thành có, có thành không về thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, họ triệt để lợi dụng sự đánh giá không khách quan, trung thực, thiếu thiện chí của một số hãng thông tấn, báo chí nước ngoài về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm hạ thấp vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Để đạt được mục đích, họ thành lập một số tổ chức nhân danh báo chí như: “Phóng viên không biên giới”, “The project 88”… để đấu tranh cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”, đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam và một số quốc gia, vu khống Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Gây sức ép đòi thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo… Sâu xa hơn là lợi dụng danh nghĩa đấu tranh “tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối lật đổ chính quyền.

Cần khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.

Tuyên ngôn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa nhân văn cao cả, luôn được Nhà nước Việt Nam tuân thủ, kế thừa, phát triển phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh. Ngược dòng lịch sử, ngày 9/11/1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Kế thừa quy định về quyền tự do ngôn luận từ bản Hiến pháp đầu tiên, các văn kiện của Đảng, các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được bảo đảm, thực thi trong thực tế đời sống, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí sửa đổi năm 2016. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”.

Điều 13 chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của mình, đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Đến hết năm 2020, Việt Nam có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền. Việt Nam còn được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất trên thế giới. Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt ở Việt Nam. 

Theo báo cáo "Thị trường ứng dụng di động 2021" do Appota phát hành, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng điện thoại di động, trong đó có 64% các thuê bao đã kết nối 3G và 4G. Tỷ lệ dân số sử dụng Internet cũng chiếm 70%, lượng người dùng sử dụng Internet qua thiết bị di động chiếm khoảng 95% và trung bình họ có 3 giờ 18 phút để sử dụng Internet qua di động. Đây là con số khá ấn tượng, chứng minh smartphone đang được ưu tiên làm thiết bị kết nối chính nhờ sự tiện lợi và phổ biến.

Số người dùng Facebook tại Việt Nam (năm 2020) có 69.280.000 người, chiếm 70,1% dân số. Chất lượng truy cập Internet Việt Nam cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn, một số thông số cao hơn số liệu công bố bởi các hệ thống quốc tế. Điều này phản ánh nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam phục vụ nhu cầu sử dụng Internet. Sóng của những hãng thông tấn, báo chí lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg… đều được tiếp cận dễ dàng tại Việt Nam.

Những minh chứng trên cho thấy, không thể phủ nhận những thành thành tựu to lớn, vững chắc đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam và sự chủ động thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết quốc tế nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà Việt Nam tham gia. Hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm về thực tế việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mình, vì không ai khác, chính mỗi công dân Việt là người trong cuộc, rõ hơn hết việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đó đến đâu.

Những luận điệu xuyên tạc, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân, không đại diện cho dân, không do dân và vì dân thì làm sao có thể gọi là khách quan, làm sao thể hiện tiếng nói dân chủ như những gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.

Hiển nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không phải là tự do quá trớn. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lên án, phê phán những ý kiến với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển ở nước ta.

Bảng xếp hạng tự do báo chí – Những luận điệu sai trái, cũ mòn

Lâu nay, các tổ chức như Phóng viên không biên giới (RSF); các đài BBC, RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số tổ chức, cá nhân phản động luôn tìm cách xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Mới đây, RSF đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2023”. Trong bảng xếp hạng, RSF xếp ba nước đứng cuối bảng đều ở châu Á, trong đó xếp Việt Nam hạng 178.

Phóng viên không biên giới hay Ký giả không biên giới (Tiếng Pháp: Reporters sans frontiers - RSF) là một tổ chức phi chính phủ với phạm vi hoạt động trên toàn cầu. Mục đích của họ được cho là bảo vệ tự do báo chí trên toàn thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Tổ chức này lấy Điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền làm cơ sở để hành động. Phóng viên không biên giới được Robert Ménard, Rémy Loury, Jacques Molénat và Élmilien Jubineau sáng lập tại Montpellier, Pháp, năm 1985.

Hiện, tổ chức này có trụ sở tại quận 2, Paris; mở văn phòng tại Berlin, Brussels, Geneva, Madrid, Rome, Stockholm, Tunis, Vienna và Washington DC. Văn phòng đầu tiên của họ ở châu Á, đặt tại Đài Bắc, Đài Loan (Trung Quốc) vào tháng 7/2017. Ngoài ra, tổ chức này còn hoạt động chung với 150 thông tin viên, phóng viên trên khắp các châu lục cũng như với hàng chục tổ chức đảng phái độc lập với chính phủ. Nếu nhìn vào những thông tin trên thì nhiều người nghĩ RSF hoạt động “ngay hàng thẳng lối”, giúp thúc đẩy tự do và văn minh, thực sự vì sự phát triển con người.

Song thực tế lại hoàn toàn khác. Tuy viện dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc về nhân quyền, tự do ngôn luận nhưng RSF lại “hát theo người cho bánh mỳ”, bôi nhọ các nước khác, trái ngược với chủ trương của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới cáo buộc tổ chức RSF đứng đằng sau những vụ việc phức tạp, gây rối, bất ổn, kích động bạo lực.

Thực chất, RSF tồn tại và hoạt động dựa vào một phần nguồn hỗ trợ kinh phí của một số chính giới phương Tây. Chính vì vậy, trong các bảng xếp hạng tự do báo chí hằng năm, RSF thường tuân theo sự sắp đặt một cách có chủ ý của các chính phủ quốc gia tài trợ cho tổ chức này hoạt động. Những yếu tố được tổ chức này sử dụng để đánh giá tự do của một nền báo chí thiếu tính bao trùm, không cân nhắc đến các yếu tố văn hóa, xã hội, nhận thức của từng quốc gia riêng biệt. Phần lớn những thông tin được đưa ra là không khách quan, không có hoạt động khảo sát, kiểm chứng thực chất mà đó là những đánh giá thiếu căn cứ hoặc được suy diễn, phóng đại.

Về bảng đánh giá tự do báo chí World Press Freedom Index hằng năm được RSF đưa ra, không khó để thấy căn cứ đánh giá, xếp hạng của RSF không thuyết phục. Riêng đối với Việt Nam, RSF không có một nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể nào về tình hình báo chí. Đồng thời, tổ chức này cũng không sử dụng bất kì báo cáo nào của Chính phủ Việt Nam để đưa ra đánh giá. Trái lại, việc RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam lại thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp, do đó thông tin không khách quan, sai thực tế về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tế, cách đánh giá của tổ chức này thông qua bảng xếp hạng tự do báo chí thường niên không trung thực và không thể hiện được bản chất vấn đề. Chính vì vậy, mức độ tin cậy trong bảng đánh giá tự do báo chí được RSF đưa ra hầu như không có.


Với động cơ, cách làm như vậy, năm nay RSF vẫn xếp Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đứng gần cuối trong “Bảng xếp hạng chỉ số tự do báo chí thường niên năm 2023”. Cổ suý cho bảng xếp hạng là những luận điệu cũ rích được các trang BBC tiếng việt, RFA, RFI, VOA tiếng Việt… và một số tổ chức, cá nhân phản động triệt để sử dụng nhằm mục đích quy kết, vu khống Việt Nam không có tự do báo chí nên xếp hạng tự do báo chí Việt Nam luôn ở vị trí áp chót bảng. Bên cạnh đó, họ xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam quản báo chí theo chế độ “đăng ký”, “bị kiểm duyệt”, “hà khắc”...


Từ việc xuyên tạc trên, nhiều tổ chức và trang mạng xã hội thù địch, phản động kêu gọi thay đổi thể chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chính sách với những luận điệu xảo trá như: “Thể chế hiện nay không tạo môi trường để thay đổi báo chí được mà phải thay đổi thể chế sâu rộng”; “Nhà nước phải cho phép báo chí tư nhân hoạt động”. Không những vậy, một số cơ quan truyền thông phương Tây thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFI, RFA, VOA... và các hội nhóm, các cá nhân phản động trên YouTube, Facebook mỗi khi có sự kiện, vụ việc cụ thể liên quan đến báo chí lại la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình trong nước. Với sự giúp sức của các tổ chức thù địch, một số đối tượng phản động trong nước tự đứng ra thành lập các hội nhóm phi pháp nhằm cổ súy cho cái gọi là “tự do báo chí”, “xã hội dân sự” theo mưu đồ của chúng.

Những thông tin mà “Bảng xếp hạng thường niên về tự do báo chí” năm 2023 một lần nữa khẳng định sự thiếu khách quan, sai thực tế và quy chụp của RSF về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam.

Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”. Báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến đối với Đảng, Nhà nước; định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội.

Điều đó càng được khẳng định rõ về quyền con người, quyền công dân trên lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Nhà nước ta bảo đảm, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin là những quyền cơ bản của quyền con người, của mọi công dân. Nhà nước Việt Nam đã xây dựng khung pháp luật về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương thích với pháp luật quốc tế về quyền con người. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin… Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Theo đó, khoản 1, Điều 3, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Bên cạnh đó, Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí.

Tính đến năm 2022, cả nước có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (có 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình, 77 kênh phát thanh trong nước, 194 kênh truyền hình (7 kênh truyền hình thiết yếu quốc gia, 63 kênh truyền hình địa phương), 57 kênh nước ngoài. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, trong đó, khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí ngày càng phát triển theo hướng hợp tác đa quốc gia và đa lĩnh vực. Hiện nay đã có gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt Nam, trong đó có nhiều hãng lớn như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)...

Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Đến nay, Việt Nam nằm trong top 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới với 68,7% người sử dụng, cao hơn mức trung bình của thế giới (51,4%). Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, Internet đã trở thành công cụ rất quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của mọi tổ chức và cá nhân, nhất là trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những tiện ích mang lại từ hệ thống Internet nhanh chóng được ứng dụng trong thực tiễn, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi tổ chức, cá nhân.

Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị trong những năm gần đây đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm; trong đó, công tác xây dựng Chính phủ điện tử, Quốc hội điện tử đã có bước tiến mạnh mẽ, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số là một trong những ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn 2016 - 2020 để tạo ra nền tảng vững chắc cho việc chuyển đổi số toàn diện trong giai đoạn 2021 - 2030. Đánh giá của Liên hợp quốc về phát triển Chính phủ điện tử, liên tiếp từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đều tăng hạng. Hiện, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia trên thế giới và đứng thứ 6 tại khu vực Đông Nam Á.

Cùng với đó, thông qua các trang mạng xã hội (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng có nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.

Với cơ sở chính trị, pháp lý đã khẳng định và thực tiễn đã chứng minh quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tiễn đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

Nguồn: Báo CAND

Vấn đề tự do báo chí và thủ đoạn “nội công, ngoại kích”

Vừa qua, tổ chức Phóng viên không biên giới (tiếng Pháp: Reporters sans frontières, viết tắt là RSF) – một trong những tổ chức phi chính phủ luôn có cái nhìn định kiến đối với Việt Nam – đã đưa ra báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới”.

Hiện thực bác bỏ luận điệu vu cáo “Tự do báo chí”

Như thường lệ, RSF tiếp tục có những nhận định sai trái, vô căn cứ về tình hình báo chí tại Việt Nam, cho rằng ở Việt Nam không có tự do báo chí, người dân không được thực hiện quyền tự do ngôn luận…

Mưu đồ chống phá

Khi bàn về đấu tranh tư tưởng, nguyên Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tuyên bố: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “toàn bộ vũ khí của Mỹ, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.

Một số nhà tư tưởng của các nước phương Tây cũng nhận định: “Một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”, “một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô la chi cho quốc phòng”… Chính bởi vậy, các thế lực thù địch đã tìm cách lợi dụng vỏ bọc “dân chủ”, “nhân quyền” để tạo cớ tấn công, chống phá mặt trận tư tưởng của ta. Hiện nay, ngoài các cơ quan báo, đài đang duy trì hoạt động, các tổ chức, cá nhân thù địch còn lập ra hàng ngàn trang web để lan truyền những thông tin sai trái, độc hại.

Thông qua vỏ bọc tự do ngôn luận, tự do báo chí, các thế lực xấu đang triệt để sử dụng chiêu trò “nội công, ngoại kích”. Một mặt, chúng tuyển lựa, đào tạo, hỗ trợ các “con buôn dân chủ” trong nước tiến hành những hoạt động công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chính quyền dưới vỏ bọc “nhà báo tự do”, “phóng viên tự do”.

Mặt khác, các thế lực bên ngoài thường xuyên rêu rao về tính tuyệt đối của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, kích động các giá trị dân chủ quá đà “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và đồng thời gây sức ép, đưa ra các bản báo cáo, phúc trình, xếp hạng có nội dung sai sự thật về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam; vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam “đàn áp” báo chí, cho rằng Việt Nam không có tự do báo chí, không có tự do ngôn luận!

Việc xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền của Việt Nam nói chung và việc thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nói riêng không phải là mới. Đây là kịch bản cũ thường xuyên được các cá nhân, tổ chức chống đối thực hiện. Thông qua việc vu cáo Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, các thế lực thù địch đã tìm cách hòng thò tay can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thực chất, đây là một thủ đoạn trong cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay.

Thực tiễn sinh động phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Tại Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các đối tượng xấu lại luôn lợi dụng chống phá, đưa ra những thông tin sai trái, vu khống Việt Nam không có tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Vấn đề tự do báo chí và thủ đoạn “nội công, ngoại kích” 

Quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để thúc đẩy sự phát triển của báo chí và bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân, Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang tích cực thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho lĩnh vực báo chí được quan tâm đầu tư.

Đồng thời, Nhà nước đã có chính sách đặt hàng báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thính, khiếm thị, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác.

Số liệu thống kê đến cuối năm 2022 cho thấy, nước ta có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (trong đó có 327 tạp chí lý luận chính trị, khoa học và 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Số người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí là 41.000 người, với 19.356 cán bộ đã được cấp thẻ nhà báo.

Cùng với các cơ quan báo chí trong nước, nhiều hãng truyền thông, thông tấn quốc tế đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Rossiya Segodnya (Nga)... Với lực lượng làm báo hùng hậu như trên, đời sống báo chí ở Việt Nam đã diễn ra hết sức nhộn nhịp, phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nền tảng quan trọng để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho mỗi người dân.

Theo quy định của pháp luật nước ta, công dân có quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác…

Với những quy định này, mọi người dân đều dễ dàng tham gia vào hoạt động báo chí, trở thành một nhà báo tự do tìm kiếm, phát hiện đề tài và đưa ra sản phẩm báo chí, đảm bảo quyền tự do hoạt động theo quy định của Luật Báo chí và các luật liên quan. Trong thời gian qua, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công tác phòng chống tham nhũng, nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm đã được báo chí phản ánh và đưa ra ánh sáng, góp phần làm trong sạch bộ máy.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính chỉ có thể tồn tại trong một quốc gia có chủ quyền, không bị lệ thuộc vào bất kỳ thế lực nào. Bởi vậy, đi liền với việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, mỗi người dân cũng phải chấp hành nghiêm các quy định về nghĩa vụ của công dân để bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân đều bị nghiêm cấm và có chế tài nghiêm khắc. Không chỉ riêng tại Việt Nam, ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới đều quy định tương tự.

Đơn cử, Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789 ghi nhận: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Hay như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) cũng quy định mọi người có quyền tự do ngôn luận nhưng việc thực hiện quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Việc đưa ra bảng xếp hạng từ những con số, dữ liệu sai lệch rồi cho rằng Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí là những luận điệu xuyên tạc, đi ngược lại lợi ích của Việt Nam và cách làm sai trái đó khiến bức tranh tự do báo chí trên thế giới nói chung bị bóp méo, biến dạng.

Nguồn: Báo CAND

Hải quân các nước ASEAN diễn tập tương tác trên biển vì vùng biển an ninh, an toàn

 Diễn tập đa phương Hải quân các nước ASEAN lần thứ 2 (AMNEX-2) tại Philippines đã kết thúc ngày 14-5 sau gần 2 ngày đêm diễn ra giữa tàu hải quân các nước ASEAN tại khu vực phía Tây Nam cách đảo Grande, tỉnh Zambales 7 hải lý.

Tàu 015-Trần Hưng Đạo của Hải quân nhân dân Việt Nam đã tham gia đầy đủ các khoa mục và đảm nhận tốt vai trò chỉ huy 2 khoa mục trong nhóm chiến thuật 2 (Marlin), góp phần vào thành công chung của AMNEX-2.

Trong cuộc diễn tập, 9 tàu và 4 trực thăng của Hải quân nước chủ nhà Philippines, Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Brunei và Việt Nam được chia làm 2 nhóm chiến thuật Barracuda và Marlin. Kịch bản diễn tập dựa trên tình huống giả định có tín hiệu cấp cứu của tàu khách chở số lượng lớn hành khách (684 người) gặp nạn trên biển. Với sự chỉ huy của tàu Hải quân Philippines, tàu Hải quân các nước ASEAN cùng phối hợp, hiệp đồng để tìm kiếm cứu hộ tàu bị nạn.

Tổ sĩ quan tham mưu liên tục tiếp nhận và xử lý các thông tin từ tàu bạn dưới dạng giản ngữ chiến thuật MTP trong suốt quá trình diễn tập. 

Tổ sĩ quan tham mưu liên tục tiếp nhận và xử lý các thông tin từ tàu bạn dưới dạng giản ngữ chiến thuật MTP trong suốt quá trình diễn tập. 

Theo kịch bản giả định, các tàu cùng tìm kiếm, phát hiện tàu bị nạn, sau đó cùng tham gia xử lý các tình huống như tìm kiếm người trên tàu bị nạn rơi xuống nước, tàu bị cháy, sơ tán y tế (cấp cứu nạn nhân bị thương và đưa lên tàu cứu hộ cứu nạn hoặc sử dụng trực thăng đưa nạn nhân đến bệnh viện gần nhất để cấp cứu…) Trên cơ sở đó, các tàu trong các nhóm chiến thuật thực hiện theo các khoa mục diễn tập như: Kiểm tra thông tin liên lạc giữa các tàu, chụp ảnh đội hình từ trên không, tìm kiếm cứu nạn hàng hải, giải mã điện, tín hiệu ánh đèn, hành quân ban đêm theo đội hình, hạ cánh trực thăng trên tàu, ngăn chặn hàng hải.  

Tàu 015-Trần Hưng Đạo luôn bám đội hình, bảo đảm cự ly, tốc độ và an toàn hàng hải. 

Tàu 015-Trần Hưng Đạo luôn bám đội hình, bảo đảm cự ly, tốc độ và an toàn hàng hải. 

Tàu 015-Trần Hưng Đạo cùng với các tàu trong đội hình phải liên tục cơ động trên phạm vi khu vực diễn tập rộng 30x30 hải lý, vừa bảo đảm bám sát đội hình vừa tham gia tìm kiếm, phát hiện mục tiêu, báo cáo tàu chỉ huy và thực hiện các nội dung theo kịch bản diễn tập. Mỗi tàu thực hiện một nhiệm vụ trong các tình huống cụ thể và lần lượt chỉ huy các khoa mục. Tham gia nội dung cứu nạn trên biển (tình huống tàu khách bị cháy), tàu Việt Nam đã tính toán tiếp cận tàu bị nạn ở khoảng cách 100m, sử dụng vòi rồng công suất lớn phun vào tàu bị nạn để dập tắt đám cháy, hỗ trợ các tàu khác sơ tán người bị nạn lên tàu. Tàu Singapore tham gia cứu, vớt người rơi xuống nước là những mô hình người giả tượng trưng cho người bị nạn. Tàu Brunei đưa người bị thương lên tàu cứu hộ cứu nạn làm công tác sơ cứu nạn nhân. Tàu nước chủ nhà Philippines thực hiện khoa mục sơ tán y tế bằng trực thăng đến các bệnh viện gần nhất…

Tàu Việt Nam phun vòi rồng vào tàu bị cháy trong một tình huống diễn tập. 

Tàu Việt Nam phun vòi rồng vào tàu bị cháy trong một tình huống diễn tập. 

Ở khoa mục tìm kiếm cứu nạn hàng hải do tàu Brunei chỉ huy, bất cứ tàu nào phát hiện được mục tiêu là người bị rơi xuống nước phải báo cáo với tàu chỉ huy để điều động tàu tiếp cận kịp thời cứu nạn nhân. Ở nội dung diễn tập ban đêm, các tàu hành quân theo đội hình dưới sự chỉ huy của tàu Singapore và tiếp tục trinh sát, tìm kiếm các nạn nhân.

Theo Trung tá Mã Nguyên Thanh, Thuyền trưởng Tàu 015-Trần Hưng Đạo, cường độ diễn tập vì vậy tương đối căng thẳng. Các tàu đều phải tham gia tìm kiếm và phát hiện được hết số lượng người bị nạn, như vậy mới đáp ứng yêu cầu của kịch bản diễn tập. Thời gian diễn tập kéo dài cả ban ngày lẫn ban đêm. Các kíp trực phải liên tục thay ca, đặc biệt là các vị trí quan sát mạn làm việc với cường độ cao để kịp thời phát hiện mục tiêu và cảnh báo nguy cơ đâm, va trên biển, báo cáo thuyền trưởng điều động tàu vừa theo đúng ý đồ chiến thuật vừa bảo đảm an toàn hàng hải.

Vị trí quan sát mạn bám sát mục tiêu. 
Vị trí quan sát mạn bám sát mục tiêu. 

Tàu 015-Trần Hưng Đạo đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu của tàu chỉ huy khoa mục, cơ động theo đúng hướng, cự ly và tốc độ quy định trong đội hình, bảo đảm định mức thời gian, an toàn hàng hải và thông tin liên lạc thông suốt.

Tàu Việt Nam chỉ huy liên tiếp hai khoa mục giải mã điện và tín hiệu ánh đèn liên tục trong khoảng thời gian từ 18 giờ đến 22 giờ đêm. Trong thời gian này, tàu sẵn sàng xử lý các sự cố, tình huống bất ngờ xảy ra như có tàu gặp trục trặc kỹ thuật không thể tiếp tục bám đội hình. Lúc đó, tàu chỉ huy thông qua các khẩu lệnh chỉ huy là các giản ngữ chiến thuật MTP phải chỉ huy tàu đó rời đội hình để khắc phục sự cố. “Tàu chỉ huy khoa mục phải bảo đảm an toàn cho đội hình, kịp thời cảnh báo các nguy cơ đâm va, nhanh chóng tính toán phương án tiếp cận mục tiêu sau khi nhận được báo cáo phát hiện mục tiêu của tàu thành viên nhóm chiến thuật và điều động tàu tiếp cận thực hiện cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm an toàn hàng hải”, theo Trung tá Phạm Anh Tuấn, Tổ trưởng Tổ sĩ quan tham mưu.

 
 

Các tàu cơ động theo đội hình trong quá trình diễn tập. 

Đáng chú ý, AMNEX-2 cũng diễn tập các tình huống liên lạc và kết nối với Trung tâm chia sẻ thông tin (IFC) ở Singapore. IFC với các thiết bị định vị vệ tinh hiện đại sẽ hỗ trợ và chia sẻ thông tin với các tàu trong quá trình diễn tập, cung cấp các thông tin về mục tiêu cần tìm kiếm như vị trí, tọa độ tàu bị nạn…

Kịch bản diễn tập AMNEX-2 được xây dựng sát với tình huống có thể diễn ra trong thực tế mà các nước ASEAN phải cùng nhau ứng phó, trong bối cảnh khu vực đang gia tăng các thách thức và mối đe dọa an ninh, an toàn trên biển như hiện nay. AMNEX-2 với các khoa mục được xây dựng chuyên nghiệp, tỉ mỉ và thống nhất giữa Hải quân các nước ASEAN cùng với kết quả diễn tập đạt các yêu cầu mục tiêu đề ra, đã góp phần thúc đẩy hợp tác, nâng cao khả năng phối hợp hiệp đồng và tương tác giữa hải quân các nước trong khu vực để ứng phó với các thách thức về an ninh, an toàn hàng hải.

Diễn tập đa phương Hải quân các nước ASEAN lần thứ 2 (AMNEX-2). Nguồn: BQĐND 

Đại sứ Việt Nam tại Philippines thăm Tàu 015-Trần Hưng Đạo

 Ngày 15-5, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Philippines Hoàng Huy Chung dẫn đầu Đoàn đại biểu Đại sứ quán đã tới thăm cán bộ, thủy thủ Tàu 015-Trần Hưng Đạo cùng đoàn công tác Hải quân nhân dân Việt Nam đang làm nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng tại Philippines.

Cùng đi có Đại tá Nguyễn Văn Sơn, Tùy viên Quốc phòng Việt Nam tại Philippines. Đại tá Nguyễn Văn Ngân, Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân, Trưởng đoàn công tác và chỉ huy, cán bộ, thủy thủ tàu đã nồng nhiệt đón tiếp Đại sứ cùng các thành viên trong đoàn.

Đại tá Nguyễn Văn Ngân bày tỏ vinh dự và xúc động được tiếp đón Đại sứ tới thăm và động viên trong thời gian Tàu 015-Trần Hưng Đạo tham gia Duyệt binh tàu Hải quân các nước ASEAN (AFR) và Diễn tập đa phương Hải quân các nước ASEAN lần thứ 2 (AMNEX-2).

Chỉ huy đoàn công tác, cán bộ, sĩ quan trên tàu nồng nhiệt chào đón Đại sứ Hoàng Huy Chung. 

Chỉ huy đoàn công tác, cán bộ, sĩ quan trên tàu nồng nhiệt chào đón Đại sứ Hoàng Huy Chung. 

Đại sứ đã tham quan và nghe Chỉ huy Tàu 015-Trần Hưng Đạo giới thiệu một số kết quả hoạt động của đơn vị trong thời gian qua và một số tính năng kỹ, chiến thuật của vũ khí trang bị kỹ thuật trên một trong những chiến hạm hiện đại nhất của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Đại sứ Hoàng Huy Chung bày tỏ niềm tự hào được tới thăm chiến hạm hiện đại 015-Trần Hưng Đạo, chứng kiến sự trưởng thành và lớn mạnh của Hải quân nhân dân Việt Nam. “Từ thủ đô Manila tới đây, chúng tôi và các thành viên đoàn công tác đều rất xúc động và vui mừng khi nhìn thấy lá cờ Tổ quốc tung bay trên Tàu 015-Trần Hưng Đạo tại căn cứ Hải quân Subic”, Đại sứ xúc động nói.

 Đại sứ Hoàng Huy Chung trao đổi với cán bộ và sĩ quan trên tàu.
 Đại sứ Hoàng Huy Chung trao đổi với cán bộ và sĩ quan trên tàu.

Trong hơn 3 năm nhiệm kỳ công tác vừa qua, trên cương vị Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Philippines, Đại sứ đã nỗ lực thúc đẩy tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai nước Việt Nam và Philippines, trong đó hoạt động thăm tàu là một trong những ưu tiên mà ông dành nhiều tâm sức để thúc đẩy. “Chính vì vậy, chuyến thăm tàu lần này là một niềm vinh dự lớn lao, một kỷ niệm khó quên và ý nghĩa trong nhiệm kỳ công tác và sự nghiệp ngoại giao của tôi”, Đại sứ chia sẻ.

Nhân dịp này, Đại sứ Hoàng Huy Chung chúc toàn thể cán bộ, chiến sĩ, thuỷ thủ Tàu 015-Trần Hưng Đạo cùng các thành viên đoàn công tác nhiều sức khỏe, luôn tràn đầy nhiệt huyết cống hiến và hoàn thành tốt nhiệm vụ cao cả bảo vệ chủ quyền biển đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Đại sứ khẳng định, AFR và AMNEX-2 là những hoạt động hợp tác quốc phòng lớn của ASEAN trong năm 2023. Việc Việt Nam cử tàu Hải quân cùng đoàn công tác tham gia các sự kiện này thể hiện sự coi trọng của Việt Nam đối với việc thúc đẩy hợp tác quốc phòng với ASEAN nói chung và Philippines nói riêng; khẳng định sự ủng hộ của Việt Nam đối với những sự kiện quốc tế do Philippines tổ chức.

 
 

 

Trung tá Mã Nguyên Thanh, Thuyền trưởng Tàu 015-Trần Hưng Đạo giới thiệu với Đại sứ về hoạt động và trang bị vũ khí kỹ thuật trên tàu. 

Trung tá Mã Nguyên Thanh, Thuyền trưởng Tàu 015-Trần Hưng Đạo giới thiệu với Đại sứ về hoạt động và trang bị vũ khí kỹ thuật trên tàu. 

Trong bối cảnh môi trường khu vực và quốc tế tiếp tục có những diễn biến khó lường, các căng thẳng trên biển gia tăng và kéo dài, sự tham gia của Việt Nam trong các hoạt động hợp tác biển khu vực càng có ý nghĩa sâu rộng. Đây vừa là sự chuẩn bị của Nhà nước ta đối với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của ta trên biển, nhưng cũng đồng thời gửi đi thông điệp quốc tế về tinh thần sẵn sàng hợp tác, sẵn sàng tham gia đóng góp vì đoàn kết ASEAN và hòa bình, ổn định của khu vực cũng như quốc tế.

Đại sứ ký Sổ vàng lưu niệm. 

Đại sứ ký Sổ vàng lưu niệm. 

Đại tá Nguyễn Văn Ngân trao quà lưu niệm tặng Đại sứ Hoàng Huy Chung. 
Đại tá Nguyễn Văn Ngân trao quà lưu niệm tặng Đại sứ Hoàng Huy Chung. 
Đại sứ và các thành viên trong đoàn chụp ảnh với chỉ huy đoàn công tác Hải quân nhân dân Việt Nam và chỉ huy, cán bộ tàu.  
Đại sứ và các thành viên trong đoàn chụp ảnh với chỉ huy đoàn công tác Hải quân nhân dân Việt Nam và chỉ huy, cán bộ tàu.  

Đại sứ khẳng định, trong thời gian qua hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực quốc phòng nói chung và Hải quân nói riêng đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đóng góp vào việc thúc đẩy, tăng cường hợp tác giữa hai nước. Đại sứ Hoàng Huy Chung hy vọng trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục có các hoạt động thực chất hơn nữa, trong đó hoạt động thăm tàu đóng một vai trò quan trọng, không chỉ tham gia trong khuôn khổ hoạt động đa phương của ASEAN mà còn thúc đẩy thăm tàu trong khuôn khổ song phương với Philippines, qua đó đóng góp thực chất vào việc phát triển quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước; triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước, là bạn của tất cả các nước.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...