Thứ Tư, 5 tháng 2, 2020

“QUỐC TẾ HÓA” VỤ VIỆC ĐỒNG TÂM - MỘT ÂM MƯU GIAN TRÁ, VÔ LƯƠNG TÂM



Bất chấp đạo lý và pháp lý, những ngày gần đây, các thế lực thù địch và kẻ xấu tiếp tục tung ra nhiều thông tin xuyên tạc hòng lôi kéo sự can thiệp của các tổ chức quốc tế đối với vụ việc xảy ra ở Đồng Tâm.
Nhưng những luận điệu không thuyết phục được dư luận bởi nó chẳng những lạc lõng so với sự thật mà còn bị chính những luật sư, nhà nghiên cứu ở nước ngoài phản đối. Chỉ những kẻ vô lương tâm mới có thể biện minh cho những hành vi giết người, chống người thi hành công vụ, khủng bố…
KÊU GỌI, "HƯỚNG LÁI" DƯ LUẬN QUỐC TẾ
Một số đài báo nước ngoài với cái nhìn thiếu thiện chí, thường xuyên xuyên tạc tình hình Việt Nam, như: BBC tiếng Việt, VOA, RFA, RFI… tiếp tục có nhiều bài viết sai sự thật. Tại Mỹ, đối tượng Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã lập ra cái gọi là nhóm “Hành động vì Đồng Tâm” và chuyển “Báo cáo về vụ tấn công ở Đồng Tâm” đến văn phòng một dân biểu liên bang Mỹ. Họ lợi dụng vị dân biểu với “truyền thống” hay thiên kiến với Việt Nam này để thổi phồng sự việc.
Một vị dân biểu liên bang khác ở Australia cũng được trang BBC tiếng Việt dẫn ý kiến hết sức chủ quan, phiến diện, vu cáo tình hình nhân quyền tại Việt Nam ngày càng "trở nên tồi tệ hơn", đưa ra những khuyến nghị vô lý đòi gây sức ép. Cái gọi là "Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế" lại coi sự việc thành cơ hội để can thiệp vào tình hình Việt Nam khi kêu gọi các thành viên Nghị viện châu Âu có áp lực gắn với các biểu quyết liên quan đến vấn đề kinh tế.
Tổ chức khủng bố Việt Tân cũng kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp, cổ xúy cho việc quyên góp ủng hộ “các nạn nhân Đồng Tâm”. Đối tượng Phạm Đoan Trang, thành viên cốt cán của tổ chức Voice-ngoại vi của Việt Tân còn soạn thảo báo cáo dày hàng chục trang bịa đặt, bóp méo sự việc ở Đồng Tâm để gửi tới các dân biểu, nghị viện nước ngoài. Sau khi Cơ quan An ninh điều tra đề nghị các tổ chức tín dụng rà soát, phong tỏa một số tài khoản có liên quan đến vụ án, nhiều đối tượng đã kêu gọi, phản đối việc phong tỏa tài khoản Vietcombank; kêu gọi tẩy chay ngân hàng…
XỬ LÝ SỰ VIỆC ĐÚNG PHÁP LUẬT, KHÔNG VI PHẠM NHÂN QUYỀN
Những luận điệu của các đối tượng trên thoạt nghe tưởng như tốt đẹp, tiến bộ, vì quyền con người nhưng nếu nhìn thẳng vào bản chất sự việc thì chỉ là những lời lẽ giả dối, vô lương tâm.
Sau khi sự việc xảy ra, Trung tướng Lương Tam Quang, Thứ trưởng Bộ Công an đã hai lần thông tin công khai trước báo chí về toàn bộ diễn biến sự việc. Theo đó, ngay sau hội nghị đối thoại của Thanh tra Chính phủ, các đối tượng trong cái gọi là "tổ Đồng thuận" chẳng những không lắng nghe, tiếp thu mà còn ráo riết chuẩn bị phương án, vũ khí để chống đối. Họ còn đe dọa bắt cán bộ, gây cháy, nổ UBND xã Đồng Tâm, gây cháy, nổ cây xăng Đồng Tâm để gây tiếng vang với dư luận bên ngoài.
Trước tình hình chống đối của các đối tượng, Công an TP Hà Nội phối hợp với các lực lượng của bộ tiến hành triển khai các chốt nhằm bảo đảm an toàn cho trụ sở xã, cán bộ xã, cán bộ thôn, các khu vực trọng yếu. "Hoàn toàn không có việc vào để bắt giữ. Lúc đó không hề có lệnh bắt giữ, dù biết rõ đây là nhóm quá khích. Đây chỉ là các tổ công tác bảo đảm tuyệt đối an toàn nhất các tình huống xảy ra", Trung tướng Lương Tam Quang khẳng định.
"Khi lực lượng chức năng đang triển khai các chốt bảo đảm an ninh ở khu vực cổng thôn Hoành thì có khoảng 20 đối tượng tấn công bằng lựu đạn, bom xăng, dao phóng lợn hàn tuýp sắt tấn công lực lượng chức năng. Lực lượng công an đã tuyên truyền, dùng loa thuyết phục, nhưng các đối tượng rất manh động, sau khi tấn công thì chúng rút vào mấy nhà, tiếp tục tấn công tổ công tác từ trong nhà ra. Tổ công tác đã dùng loa kêu gọi các đối tượng nhưng chúng vẫn ngoan cố, tấn công quyết liệt hơn, tiếp tục ném lựu đạn, bom xăng vào tổ công tác, sau đó rút vào cố thủ trong nhà...".
Do đó, tổ công tác đã tiến hành vây bắt các đối tượng phạm tội theo quy định pháp luật. Quá trình truy đuổi, các đối tượng tiếp tục dùng bom xăng, tuýp sắt gắn dao tấn công tổ công tác. Tổ công tác 3 người trong quá trình truy đuổi đã bị ngã và rơi xuống hố kỹ thuật (sâu khoảng 4m), nằm giáp sau nhà Lê Đình Hợi và Lê Đình Chức. Khi biết 3 chiến sĩ bị ngã xuống hố, các đối tượng đổ xăng, ném bom xăng, phóng hỏa thiêu chết 3 cán bộ, chiến sĩ. Trước tình huống đó, lực lượng công an phải nổ súng và bắt giữ hơn 30 đối tượng, thu giữ tại hiện trường các vũ khí, vật liệu nổ. Khi truy bắt, một đối tượng bị chết là Lê Đình Kình, đối tượng bị thương là Lê Đình Chức.
Qua tài liệu thu thập được cho thấy, một số tổ chức lưu vong, phần tử chống đối đã tài trợ tiền, hướng dẫn "nhóm Đồng thuận" cách làm bom xăng, tạo quả nổ, hướng dẫn mua sắm vật tư làm vũ khí… "Nhóm Đồng thuận” đã thể hiện rõ là một ổ nhóm tội phạm có tổ chức. Ngoài tuyên bố “tử chiến giữ đất”, “sẵn sàng giết 300-500 người”, nhóm này còn đe dọa lãnh đạo xã và các gia đình người dân không hợp tác với chúng. Chúng cũng thường xuyên viết đơn gửi các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế lu loa chính quyền đàn áp “dân oan”, hòng “quốc tế hóa” vấn đề, biến Đồng Tâm thành điểm nóng chính trị.
Qua những thông tin nêu trên cũng đã thể hiện rất rõ không thể gọi những kẻ vi phạm pháp luật nghiêm trọng là nạn nhân ở Đồng Tâm. Cho nên, những lời kêu gọi "ủng hộ", "đòi công lý", "vì nhân quyền" cho những đối tượng này là lạc lõng, phi lý.
KHÔNG THỂ BIỆN MINH CHO TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI, KHỦNG BỐ
Theo luật sư Nguyễn Anh Thơm, Trưởng văn phòng luật sư Nguyễn Anh (Đoàn Luật sư Hà Nội), việc cơ quan điều tra khởi tố ban đầu lên đến 19 bị can về tội giết người là con số kỷ lục ít thấy trong một vụ án hình sự những năm gần đây. Đây là vụ án giết người, chống người thi hành công vụ với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Các đối tượng đã lên kế hoạch chặt chẽ, phân công nhiệm vụ và chuẩn bị vũ khí, hung khí nguy hiểm để đối phó với các lực lượng thực thi nhiệm vụ. Hành vi phạm tội của các đối tượng đã cấu thành tội giết người và tội chống người thi hành công vụ. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 123 và điều 330 Bộ luật Hình sự 2015. Trong vụ án này, với hậu quả 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh, nếu có căn cứ xác định là đồng phạm thì các đối tượng phải đối mặt hình phạt cao nhất đến tử hình. Bởi theo khoản 1, điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015, tình tiết trong vụ án cho thấy các đối tượng đã vi phạm tới cả 4 trường hợp phải chịu mức án nặng nhất: Giết hai người trở lên; giết người đang thi hành công vụ; có tính chất côn đồ; có tổ chức.
Theo thông tin từ cơ quan chức năng, đối tượng Nguyễn Văn Tuyển khi bị bắt đã khai thường xuyên được các đối tượng ở nước ngoài liên lạc tài trợ tiền, trong đó có liên lạc trao đổi thông tin và nhận tiền từ các đối tượng Nguyễn Văn Đài và Ngọc Tuấn Trần… Số tiền nhận được từ các tổ chức khủng bố, các đối tượng đã sử dụng một phần mua lựu đạn, bom xăng để sẵn sàng chống trả cơ quan chức năng, phần lớn số tiền còn lại chúng dùng để chi tiêu cá nhân. Đại tá Phan Nguyên Hùng, Phó cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an cho biết, các đối tượng ở Đồng Tâm đã nhiều lần nhận tiền của đối tượng bên ngoài, sử dụng để cử người đi mua vũ khí (10 quả lựu đạn); mua hàng trăm lít xăng chế tạo bom xăng và phân phát cho các đối tượng và một số người dân tiến hành những hoạt động theo chỉ đạo bên ngoài, đặc biệt là tụ tập đông người để cản trở các lực lượng thi hành nhiệm vụ.
Từ những thông tin trên, dưới góc độ nghiên cứu luật, một số luật sư cho rằng có yếu tố để xem xét tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” theo điều 113 Bộ luật Hình sự 2015.
Còn với việc phong tỏa các tài khoản ngân hàng, để phục vụ yêu cầu điều tra, mở rộng vụ án, trong đó có hành vi tài trợ khủng bố, cơ quan điều tra đã đề nghị các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước phối hợp rà soát, phong tỏa một số tài khoản có liên quan. Tài khoản Vietcombank Nguyễn Thúy Hạnh với số tiền hơn 500 triệu đồng bị phong tỏa là đúng pháp luật.
Được biết, từ lâu, Nguyễn Thúy Hạnh đã có nhiều hoạt động liên quan tới tổ chức khủng bố Việt Tân. Nhiều năm nay, Hạnh đã lập ra cái gọi là “quỹ 50k" ủng hộ các tù nhân lương tâm tài trợ cho một số đối tượng gây rối đã bị xử lý sau các vụ việc ở Đồng Nai, Bình Thuận, Hà Tĩnh… Cái gọi là “quỹ 50k” thực chất là tổ chức tài trợ cho những kẻ chống phá Nhà nước, là cánh tay nối dài của các tổ chức khủng bố Việt Tân, chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời... Cuối năm 2019, cái gọi là “quỹ 50k” do Hạnh khởi xướng đã được tổ chức khủng bố Việt Tân trao giải thưởng “nhân quyền Lê Đình Lượng năm 2019”.
Vì vậy, người dân cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác với những lời kêu gọi tẩy chay ngân hàng, tuyệt đối không tham gia các hoạt động quyên góp, ủng hộ, có thể vô hình trung vi phạm pháp luật, tiếp tay cho tổ chức khủng bố…
NHỮNG Ý KIẾN PHẢN BÁC DƯỚI GÓC NHÌN LUẬT PHÁP QUỐC TẾ
Nhiều chuyên gia, luật sư, nhà nghiên cứu ở nước ngoài cũng đã lên tiếng phản bác, đồng tình với cách giải quyết sự việc nếu nhìn ở góc độ pháp luật và thông lệ quốc tế.
Luật sư người Mỹ gốc Việt Hoàng Duy Hùng đã có những phân tích với cái nhìn khách quan về sự việc theo góc độ luật pháp quốc tế. Ông cho biết: “Những người ở Mỹ khi đi mua một căn nhà, bất kỳ bất động sản nào đều có câu tiếng Anh rõ ràng là “Eminent domain” nghĩa là chủ quyền tối thượng của đất nước khi đất nước cần trưng dụng về vấn đề quốc phòng, công cộng, an ninh. Đây là nguyên tắc đầu tiên, là nguyên tắc tất cả người dân Hoa Kỳ, Australia, châu Âu, Canada… đều biết rất rõ. Nhà nước cần về vấn đề quốc phòng, công cộng, an ninh thì có quyền lấy, thu luôn, thu hồi, không có tranh cãi. Khi đó, nhà nước không cần báo cho dân chúng về nguyên do. Tôi lấy ví dụ ở Houston có cái sân bay quân sự Ellington Field, lúc người ta lấy thì chỉ nói là vấn đề quốc phòng, hỏi quốc phòng để làm gì thì được trả lời là không được phép hỏi”.
“Những người như gia đình ông Lê Đình Kình không tôn trọng luật pháp, nhất định biến khu vực đó trở thành tài sản của gia đình. Về vấn đề chống lại người thi hành công vụ ở Mỹ. Ở bang Texas, có cơ quan Texas Alcoholic Beverage Commission (TABC) là một cơ quan công cộng Texas chịu trách nhiệm xử lý việc mua bán và sử dụng đồ uống có cồn. Chỉ cần người bán bia, rượu cho người dưới 21 tuổi mà cơ quan này nắm được thông tin chứng cứ thì họ cho cả một tiểu đoàn cảnh sát vô bắt người đó, đóng cửa cửa hàng luôn. Nếu phản kháng thì tăng thêm tội là tấn công người thi hành công vụ. Người thi hành công vụ đúng hay sai chưa cần biết, nhưng phải tuân thủ ngay, sau mới có thể phản kháng hay kiến nghị. Nếu chống đối có thể bị bắn chết!”, luật sư Hoàng Duy Hùng phân tích
Phản bác những luận điệu từ nước ngoài “thương vay khóc mướn” cho "nhóm Đồng thuận", luật sư Hoàng Duy Hùng cho rằng: “Cách làm luật của người Mỹ là như vậy. Sao mấy ông bên này không ra mà bảo đó là luật pháp bất nhân đi mà lại chõ về Việt Nam để nói những chuyện kỳ cục như vậy. Chống người thi hành công vụ là tội phải xử nghiêm minh. Mỹ đã làm từ mấy trăm năm nay. Mình là người dân công chính thì phải khuyến khích người dân không được chống lại người thi hành công vụ. Nên người dân Đồng Tâm tấn công cảnh sát là có lỗi đầu tiên, còn nếu có gì không phải thì để tòa án xét xử sau. Nhà nước đã mở ra thì những người kia phải biết đón nhận theo luật pháp, hòa hợp dân tộc không có nghĩa là vô luật pháp. Cách làm của ông Kình là vô luật pháp, ông này tự biến mình thành cường hào, địa chủ, lãnh chúa trong Đồng Tâm”.
Ông Hồ Ngọc Thắng, Việt kiều tại Đức cho biết: Là người tốt nghiệp đại học luật và làm việc lâu năm trong ngành luật cho Nhà nước Đức, tôi nhận thấy việc thực thi những nguyên tắc nhà nước pháp quyền không chỉ cho phép mà còn yêu cầu sử dụng những biện pháp cứng rắn để đối phó với những hành động xem thường pháp luật. “Tôi cũng cực lực lên án những kẻ lợi dụng làm phức tạp sự việc Đồng Tâm để vu khống, xuyên tạc Đảng, Nhà nước. Họ gọi đó là “vụ thảm sát Đồng Tâm”, “chỉ có kẻ thù mới cho quân nổ súng vào dân”… Đặt vấn đề kiểu mập mờ như vậy là không ổn. Hoạt động của ông Kình và đồng bọn không phải là “bất bạo động” mà là khủng bố”, ông Hồ Ngọc Thắng nhận xét.
Rồi đây, sự việc sẽ tiếp tục được sáng tỏ khi các cơ quan pháp luật điều tra, truy tố, xử lý công minh, rõ người, rõ tội. Với tinh thần thượng tôn pháp luật, tin tưởng rằng dư luận trong nước và quốc tế sẽ hiểu đúng sự việc, ủng hộ chính quyền các cấp trong bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân, đẩy lùi những luận điệu đen tối muốn “quốc tế hóa” sự việc Đồng Tâm, không để biến vụ án hình sự nghiêm trọng thành điểm nóng phức tạp.

90 MÙA XUÂN VINH QUANG CỦA ĐẢNG



Trong 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn để lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 MÙA XUÂN NĂM CANH NGỌ LỊCH SỬ
Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bắt đầu xúc tiến chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập một chính đảng kiểu mới ở Việt Nam. Tháng 11/1924, Người về Quảng Châu (Trung quốc), mở lớp huấn luyện chính trị, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6/1925), ra báo Thanh niên (21/6/1925) cùng các tờ báo Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong... nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; làm cho luồng gió cách mạng của thời đại thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta, tạo nên sự chuyển biến sâu sắc về chất và lượng.
Những bài giảng của Người ở lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu được tập hợp thành cuốn sách “Đường Cách mệnh” (xuất bản năm 1927); trong đó, Người khẳng định: "Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”  và Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là “phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”[1]
Cùng với đó, chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua phong trào “vô sản hóa” được những chiến sĩ tiên phong của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên truyền bá về trong nước, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động. Phong trào công nhân chuyển mạnh từ đấu tranh tự phát sang tự giác, từ đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế lên đấu tranh đòi quyền lợi về chính trị; phong trào yêu nước phát triển sâu rộng theo huynh hướng vô sản, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam cộng sản Đảng (10/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1/1930).
Việc xuất hiện ba tổ chức cộng sản biệt lập, cùng ra Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ trong nước dẫn đến tình trạng tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, chia rẽ và phân liệt phong trào đấu tranh cách mạng. Nhận thức sâu sắc nguy cơ bất lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng Đông Dương, với nhãn quan chính trị nhạy bén, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ động, kịp thời trên cương vị “phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương” gửi thư về nước mời đại diện của các tổ chức cộng sản sang Hồng Kông bàn việc hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Mùa xuân năm 1930, tại Cửu Long, Hồng Kông (từ ngày 6/1/1930 đến ngày 7/2/1930), Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh (Đông Dương Cộng sản Đảng); Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm (An Nam Cộng sản Đảng) và Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn giúp việc Hội nghị. Trên cơ sở bỏ mọi thành kiến xung đột cũ và đoàn kết, Hội nghị thống nhất đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do Người dự thảo. Các văn kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; trong đó, Đảng xác định rõ đường lối, mục tiêu, phương châm của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”... Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đó là đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc, “là đạo đức, là văn minh”, là danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
"ĐẢNG KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TỔ CHỨC ĐỂ LÀM QUAN PHÁT TÀI" 
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, là độc lập, là hoà bình, ấm no, do đó Đảng phải được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo 12 “tư cách của Đảng chân chính cách mạng”[2]. Trong đó, “1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. 2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau. 3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương. 4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không. 5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân”[3].
Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng: “6, phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng. Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng. 7, phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát”; đồng thời, “8, không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”, “9, phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo” và “10, phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài”. Đặc biệt, Đảng “11, phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng” và “12, phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[4].
Trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ thấm nhuần sâu sắc vai trò, sức mạnh của đạo đức cách mạng, coi đạo đức là gốc, là căn bản, là nền tảng mà còn phải thường xuyên rèn luyện “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Cụ thể, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người đều phải phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, nhất là phải có và thường xuyên rèn luyện 5 đức tínhnhư: "NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân, vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.  NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng, ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất cứ  to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng đúng đắn. TRÍ là vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian.  DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc là phải có gan làm. Thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc. LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ”[5].
Cũng theo lời Người, để làm tròn nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định rõ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ” và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” để luôn hướng về nhân dân, vì nhân dân phục vụ và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Người thường xuyên phê phán bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, tư tưởng đặc quyền, đặc lợi của một bộ phận cán bộ, đảng viên “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng”. Đồng thời, Người yêu cầu tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân... đều phải phụng sự nhân dân trên tinh thần luôn “đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo. Cán bộ Đảng và chính quyền ta đều sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”[6], để quy tụ được nhân dân, làm cho nhân dân tin yêu, gắn bó và ủng hộ.
Đó chính là đạo đức của Đảng macxit cách mạng, trong sạch, vững mạnh và của mỗi cán bộ, đảng viên - những người đảm nhận trọng trách kép vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, luôn “làm mực thước cho dân”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” mà không cầu danh lợi, không màng phú quý, coi khinh sự xa hoa, giản dị trong lối sống đời thường…
ĐỂ ĐẢNG LUÔN "LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH"
Trong 90 năm qua kể từ khi ra đời vào mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược đúng đắn, sách lược mềm dẻo, luôn vì nước, vì dân đã tập hợp quần chúng, tổ chức họ, lãnh đạo họ, đưa họ ra đấu tranh và liên tiếp giành được thành tựu. Thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945); xây dựng chế độ xã hội mới, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954); xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội (1975 - nay), kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là minh chứng sinh động khẳng định trên thực tế sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng; đồng thời, 90 năm đó cũng đã tôi luyện, thử thách để Đảng không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm, ngày càng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và sự tin cậy của nhân dân.
Việc tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng Đảng: Tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất; gắn bó mật thiết với nhân dân, v.v.. và sự nêu gương mẫu mực về đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên được thực hiện xuyên suốt và nhất quán trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh đã góp phần làm nên sức mạnh vô địch của Đảng, sức hấp dẫn của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì thế, không phải ngãu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước… Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”[7], yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng mà còn không ngừng rèn luyện, gương mẫu về đạo đức cách mạng, thống nhất giữa lời nói với việc làm.
Bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam khác với các đảng phái chính trị khác ở chỗ “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” và cán bộ, đảng viên của Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân. Ngược lại, khi cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, lãng phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng, vô kỷ luật, coi thường phép nước, rời xa nhân dân, v.v.. họ sẽ chỉ là “những ông quan phụ mẫu”, những “con sâu mọt” làm mất uy tín, danh dự của Đảng, làm cho Đảng quan liêu, xa dân, dẫn đến lxói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng.
Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và thấu triệt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch ra khuyết điểm đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra hoàn cảnh đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó, như vậy là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[8], công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được chú trọng và đẩy mạnh.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05- CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” sâu rộng, thiết thực, trở thành nền nếp trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đã mang lại những kết quả tích cực, tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy và của từng cán bộ, đảng viên. Hằng năm, ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị đều xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 gắn với chuẩn mực đạo đức công vụ phù hợp, chủ động phòng, chống và đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhiều cách làm mới, sáng tạo trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính; nâng cao tinh thần và trách nhiệm thực thi công vụ; kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân gắn với nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… được triển khai trong sinh hoạt chuyên đề tại các chi bộ.
Công tác cán bộ được chú trọng; trong đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, nhất là ở các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực đã mang lại hiệu quả thiết thực tại các địa phương, cơ quan, đơn vị. Cùng với đó, việc phát huy vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi tổ chức, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là trong thực thi công vụ đã góp phần phòng, chống và ngăn ngừa các biểu hiện suy thoái, tha hóa bởi quyền lực. Việc nghiêm túc, công tâm sàng lọc và kịp thời đánh giá, kiểm điểm, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng, tham ô, tham nhũng, làm giàu bất chính để mưu lợi ích cho mình, cho người thân và nhóm lợi ích đã góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, được nhân dân đồng tình và ủng hộ.
Tuy nhiên, là những hệ lụy của quyền lực, con đẻ của chủ nghĩa cá nhân: Thói trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo; tệ quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân; “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”, “chạy quy hoạch”... trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong những bài nói, bài viết của mình vẫn còn là những vấn nạn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để tại các cơ quan Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Sự suy thoái của bộ phận không nhỏ “những con sâu làm rầu nồi canh” đó đã biến “những nghị quyết và chỉ thị Đảng” thành những “lời nói suông”, biến những “công bộc của dân”, “đày tớ của nhân dân” trở thành “cha mẹ dân”, gây bức xúc trong nhân dân. Những việc làm của họ trái với lợi ích của Đảng, trái với 12 điều quy định về Đảng và những chuẩn mực của người đảng viên cộng sản, làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII cũng chỉ rõ thực trạng này thông qua việc chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao. Những biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân và nhất là biểu hiện "tư duy nhiệm kỳ", "cục bộ", "thân quen", "lợi ích nhóm", mất dân chủ, thiếu gương mẫu, "nể nang, dễ dãi", "chạy chọt, vận động, tranh thủ lẫn nhau" trong quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ... vẫn còn tồn tại ở không ít không ít cơ quan, địa phương, đơn vị.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xứng đáng với vai trò tiền phong, các cấp ủy đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng; gắn việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ", với Quy định về những điều đảng viên không được làm và các Quy định về nêu gương.
Cùng với việc tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nỗ lực rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, phòng, chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thực hành “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, luôn tự phê bình và phê bình trên cơ sở của tình thương yêu đồng chí lẫn nhau để đoàn kết thống nhất trong ý chí, hành động. Đồng thời, gắn bó mật thiết với nhân dân, hết lòng vì nhân dân phục vụ và coi sự giám sát, đánh giá của nhân dân là thước đo, là một tiêu chuẩn đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi mặt công tác, nhất là trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ.
Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đưa sinh hoạt chi bộ hằng tháng theo chuyên đề gắn với chuyên đề năm 2020 “Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành nền nếp, nhu cầu tự thân của mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ và trong cuộc sống đời thường.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”, chống đặc quyền, đặc lợi; đồng thời, trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham ô, tham nhũng, làm giàu bất chính, xâm phạm lợi ích của nhân dân, bất kể chúng là ai, giữ chức vụ gì và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những kẻ tha hóa, biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã dùng tiền tài để mua và “chui lọt” vào những chức vụ, vị trí cao trong các cơ quan Đảng, Nhà nước chỉ để nhằm “dĩ công vi tư”, mưu cầu cho nhóm lợi ích.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm, tận dụng thời cơ và thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn và trở ngại, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng./.


DIỄN VĂN CỦA TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN PHÚ TRỌNG TẠI LỄ KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM



Sáng 03-2, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-2-1930 - 03-2-2020). Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu toàn văn diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đọc tại Lễ kỷ niệm.
"Thưa các vị đại biểu, 
Thưa đồng chí và đồng bào, 
Trong không khí cả nước hân hoan phấn khởi trước những thành tựu rất quan trọng của năm 2019 và đón Xuân Canh Tý 2020, hôm nay, tại Thủ đô Hà Nội "Ngàn năm văn hiến và anh hùng" - "Thành phố vì hòa bình", chúng ta long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh (3-2-1930 / 3-2-2020). Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi nhiệt liệt chào mừng và gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bậc lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các vị khách quý cùng toàn thể đồng chí, đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
 Thưa đồng chí và đồng bào, 
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và giữ nước, kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân ta. Nối tiếp truyền thống đó, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, không cam chịu thân phận nô lệ, nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các phong trào yêu nước diễn ra liên tục và mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ con đường cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con đường cách mạng tư sản... Mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường, đầy tâm huyết và chịu những hy sinh to lớn, song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối đúng, các phong trào đó đều không thành công. Lịch sử đòi hỏi phải tìm con đường mới.
Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta) đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mang trong mình khát vọng lớn lao, cháy bỏng, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng này con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người đã kiên trì nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, dày công chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thành lập một đảng cách mạng chân chính. Ngày 3-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Người (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc), đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của nhân dân.
Sau khi ra đời, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối, chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 "long trời, lở đất", thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945 (năm nay chúng ta kỷ niệm tròn 75 năm). 
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", kiên cường bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối kháng chiến "toàn dân", "toàn diện", "trường kỳ", "dựa vào sức mình là chính", phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. 
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "không có gì quý hơn độc lập, tự do"; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối vào ngày 30-4-1975. Thắng lợi đó "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc" (năm nay chúng ta kỷ niệm tròn 45 năm). 
Trong lúc phải khẩn trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do chiến tranh để lại, nhân dân Việt Nam lại tiếp tục phải đương đầu với những cuộc chiến tranh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tập trung khôi phục kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi hoạ diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước.
Trước những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, để khắc phục những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau chiến tranh, trên cơ sở tổng kết sáng kiến, sáng tạo trong thực tiễn của nhân dân, Đảng ta đã tiến hành Đổi Mới từng phần trong nông nghiệp, công nghiệp và trước hết là Đổi Mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và từng bước hình thành Đường lối Đổi Mới đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986), trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", đã đề ra Đường lối Đổi Mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối Đổi Mới ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước. 
Sau Đại hội VI, Đảng đã từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối Đổi Mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội. Những năm 90 của thế kỷ XX, vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã kiên định, tiếp tục vững bước và sáng tạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa VI đến khóa XII đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề cơ bản, hệ trọng của Đảng và sự phát triển của đất nước. Quốc hội thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật và các đạo luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ và phù hợp cho quá trình Đổi Mới. Chính phủ cụ thể hoá thành các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể để quản lý, quản trị, điều hành công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong việc xác định, đề ra đường lối Đổi Mới, Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý, quan điểm cơ bản, phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm thực tiễn ở trong nước và quốc tế, xử lý tốt các mối quan hệ cơ bản như: Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa "của dân, do dân và vì dân"; kết hợp chặt chẽ Đổi Mới kinh tế với Đổi Mới chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp có hiệu quả giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí, từ cực này nhảy sang cực kia.
Thực tế, sau gần 35 năm tiến hành công cuộc Đổi Mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Mới đây, được Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu với số phiếu tín nhiệm rất cao, gần như tuyệt đối, lần thứ hai trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Thưa đồng chí và đồng bào, 
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Mặt khác, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả.
Nhìn lại chặng đường 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong thời khắc thiêng liêng này, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng ta và dân tộc ta, Người thày vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho dân, cho nước, dẫn dắt Đảng ta, nhân dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và làm "rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Đất nước càng phát triển, nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, càng chứng tỏ, tư tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai. 
Chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của các vị lãnh đạo tiền bối, của hàng triệu anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì nghĩa vụ quốc tế cao cả. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các bậc lão thành cách mạng, các gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với nước, cùng toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, lao động sáng tạo, đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta. Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: "Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng!". Chúng ta mãi mãi ghi nhớ và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các lực lượng tiến bộ cùng bầu bạn khắp năm châu đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Thưa đồng chí và đồng bào, 
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp Đổi Mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là một sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn, vĩ đại, "một cuộc chiến đấu khổng lồ" như Bác Hồ đã nói, nhưng cũng cực kỳ khó khăn, phức tạp. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước bên cạnh mặt thuận lợi, thời cơ, cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Chúng ta đứng trước nhiều vấn đề mới phải xử lý, nhiều việc hết sức phức tạp phải giải quyết. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, hơn bao giờ hết, phải phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng đàng hoàng hơn, tươi đẹp hơn. Sự phấn đấu kiên cường, sáng tạo của toàn dân, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế là nhân tố cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển đất nước ta. Đảng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. 
Từ sau Đại hội XII của Đảng đến nay, Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Gần đây, toàn Đảng đã tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khoá XII đạt được những kết quả và kinh nghiệm bước đầu rất quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi một bước những tiêu cực, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân... Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, Nhà nước ta, đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Phương hướng chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển.
Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, thường xuyên phải đối mặt với những cám dỗ của tiền bạc, của cải vật chất, quyền lực, lợi ích cá nhân, chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực và kiên trì rèn luyện và học tập thì rất dễ bị thoái hóa, biến chất. Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng - một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tuỵ, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên. 
Thưa đồng chí và đồng bào, 
Năm nay chúng ta kỷ niệm Ngày thành lập Đảng vào thời điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Năm 2020 là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XII; năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; năm kỷ niệm nhiều sự kiện chính trị trọng đại; năm Việt Nam thực hiện vai trò Chủ tịch ASEAN và Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực rất cao, quyết tâm rất lớn, phấn đấu để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của năm 2020 mà trọng tâm là: Phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Giữ vững độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; đẩy mạnh quan hệ đối ngoại. Tập trung tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng Đảng, Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 
Với niềm phấn khởi, tự hào, chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vinh quang đời đời thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng!
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
Tôi xin trân trọng cảm ơn."


GIỮ VỮNG NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI



Giữ vững nền tảng tư tưởng luôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu có liên quan mật thiết đến sinh mệnh của Đảng và cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình mới.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác – Lê-nin là “cái cốt của Đảng”, “cái gốc của Đảng”, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (năm 1951), Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác – Lê-nin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng đã quyết định bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, lập trường cách mạng triệt để, quan điểm khoa học, phương pháp biện chứng duy vật để giải quyết đúng đắn những vấn đề của cách mạng nước ta cũng như thời đại đặt ra. Kiên trì và tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, giữ vững nền tảng tư tưởng và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó có ý nghĩa quyết định mọi thành tựu của công cuộc đổi mới để đất nước vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mặc dù trong bối cảnh mới của tình hình thế giới còn nhiều phức tạp, khó khăn, thử thách đối với Đảng và cách mạng Việt Nam.
   Ngày nay, trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, chúng ta phải giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trên cơ sở sự kiên định và tích cực bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, chúng ta phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kiên quyết phòng chống bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, để góp phần củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi phải thường xuyên củng cố, tăng cường các thành tố của nền tảng tư tưởng bảo đảm sự chắc chắn nhất, vững chắc nhất và không ngừng phát triển của nền tảng tư tưởng của Đảng. Quá trình liên tục này cần phải xem xét các yếu tố chủ quan nội tại và các yếu tố tác động của khách quan, là quá trình tiến hành một cách đồng bộ, tổng thể các chủ trương, giải pháp dựa trên các nguyên tắc bất di, bất dịch và thật sự khoa học, hiệu quả cao với sự tham gia của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và nhân dân.
Để giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới cần quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết số 35 -NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới và các nghị quyết Trung ương, nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Theo tinh thần đó, trong tình hình mới chúng ta cần coi trọng và thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, kiên định và giữ vững chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Tư tưởng chính trị thể hiện trước hết ở chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trước hết phải giữ vững chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kiên định nền tảng tư tưởng sẽ quyết định đến việc giữ vững nền tảng tư tưởng, ngăn ngừa mọi biểu hiện xa rời bản chất cách mạng và khoa học của Đảng. Bởi vì, việc kiên định hay xa rời bản chất của Đảng là vấn đề sinh tử, liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Chủ nghĩa đó, theo Nguyễn Ái Quốc là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vì đó là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”.
Hai là, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng để xây dựng, nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên; kiên quyết chống suy thoái về tư tưởng chính trị trong Đảng.
Bản lĩnh chính trị là phẩm chất đặc biệt quan trọng và nhất thiết phải có đối với Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị giúp cho người cán bộ, đảng viên kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định đường lối đổi mới của Đảng,… Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là biểu hiện của sự giảm sút về bản lĩnh chính trị, tác động trực tiếp và thách thức đến nền tảng tư tưởng và bản lĩnh chính trị của Đảng. Do vậy, để nâng cao bản lĩnh chính trị, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị trong Đảng hiện nay cần phải nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, cần đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học các môn lý luận chính trị, các môn học về nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường, trong hệ thống giáo dục quốc dân, chú trọng đối tượng cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, đối tượng sinh viên ngay khi còn trên ghế nhà trường để nâng cao nhận thức lý luận chính trị và xây dựng bản lĩnh chính trị cho họ. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị và học tập chính trị trong toàn Đảng, trong các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân. Tăng cường giáo dục nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Thực tế cho thấy, suy thoái về đạo đức sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, làm xói mòn bản lĩnh chính trị. Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị không tách rời việc nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả cao, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực hơn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng, các  nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng. Thực hiện thật tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong nội bộ, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
 Ba là, kiên quyết bảo vệ Đảng, phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch.
 Hiện nay, các thế lực thù địch đánh trực tiếp vào nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng gây hoang mang, dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết là nội dung cốt lõi, then chốt trong Cương lĩnh, đường lối chính trị, quan điểm cơ bản của Đảng. Các thế lực thù địch công khai nói xấu nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đòi từ bỏ Đảng, từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện nền tảng tư tưởng mới, nhưng thực chất là hệ tư tưởng tư sản. Chúng đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, nhưng thực chất là đối lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin và phủ nhận cả hai. Do vậy, một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay là chúng ta phải đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ và giữ vững nền tảng tư ttưởng của Đảng. Biện pháp đấu tranh hiện nay cần phải tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII. Theo đó, tập trung chỉ đạo việc kiện toàn lực lượng chuyên sâu, chuyên trách, nhất là việc thành lập các ban chỉ đạo về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tổ chức thực hiện tốt quy hoạch báo chí, pháp luật và quy định về quản lý báo chí, xuất bản, intenet và mạng xã hội. Xây dựng và triển khai thực hiện của các cơ quan thông tấn, báo chí tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đổi mới nội dung, phương pháp, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh tư tưởng, lý luận. Nâng cao tính chủ động, tính chiến đấu, tính sắc bén, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong công tác tư tưởng, lý luận.
Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Do yêu cầu của thực tiễn hiện nay cần phải bổ sung, phát triển lên tầm cao mới nền tảng tư tưởng của Đảng, trọng tâm trước hết là nhận thức sâu sắc hơn các luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là một học thuyết mang bản chất cách mạng và khoa học, nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là “cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Vì xậy, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho phù hợp với thời đại và điều kiện lịch sử của mỗi nước và mỗi giai đoạn cụ thể. Hiện nay, trước yêu cầu mới của việc giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cần phải “nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta”. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển lý luận sẽ thực sự góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vào việc làm rõ bước đi cụ thể của cách mạng nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là góp phần củng cố ngày càng vững chắc hơn nền tảng tư tưởng của Đảng ta. 
 Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hơn bao giờ hết đang đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và bảo vệ sự trường tồn của Đảng. Trong tình hình mới, để giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng phải kiên trì, vận dụng, phát triển sáng tạo và bảo vệ vững chắc chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kiên trì, vận dụng, phát triển sáng tạo và bảo vệ vững chắc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...