Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2022

Họp báo sau vụ bắt Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát

Liên quan đến việc bị can Trương Mỹ Lan - Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát bị bắt, chiều ngày 8/10, tại TP Hồ Chí Minh đã có buổi họp báo để thông tin những vấn đề có liên quan…

Sáng 8/10, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, xảy ra tại Công ty CP Tập đoàn Đầu tư An Đông và các tổ chức, đơn vị có liên quan. Đồng thời ra quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với bị can Trương Mỹ Lan (Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát) và 3 bị can đồng phạm để điều tra về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Kết quả điều tra ban đầu xác định, các bị can trên đã có hành vi gian dối trong việc phát hành, mua bán trái phiếu trái quy định của pháp luật để chiếm đoạt hàng nghìn tỉ đồng của người dân trong thời gian 2018 – 2019. 

Tại buổi họp báo chiều ngày 8/10, ông Từ Lương- Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông TP Hồ Chí Minh cho biết, thông tin nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình hoạt động của Ngân hàng thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB).

Trước tình hình người dân và doanh nghiệp (DN) đến giao dịch tăng đột biến tại các phòng giao dịch của SCB trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, UBND TP Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Sở Thông tin & Truyền thông phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh TP Hồ Chí Minh, Ngân hàng SCB để thông tin chính thức, đầy đủ kịp thời, nhằm đảm bảo thông tin chính thống từ cơ quan Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền đến người dân một cách chính xác, để đảm bảo người dân không hoang mang, lo lắng và an tâm trong thời gian tới.

Ông Hoàng Minh Hoàn - Phó Tổng Giám đốc phụ trách điều hành Ngân hàng SCB thông tin: Ngày 8/10 cơ quan CSĐT của Bộ Công an có thông tin khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bà Trương Mỹ Lan về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” liên quan đến hoạt động mua bán trái phiếu của Công ty CP Tập đoàn Đầu tư An Đông. Về vụ việc này, Ngân hàng SCB đã rà soát và khẳng định, Công ty An Đông không phải là cổ đông của ngân hàng SCB, bà Trương Mỹ Lan cũng không giữ chức vụ quản lý và điều hành tại SCB, do đó không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của ngân hàng SCB. SCB cam kết có đầy đủ giải pháp, nguồn lực để đảm bảo đầy đủ quyền lợi và lợi ích của người gửi tiền cũng như quyền, lợi ích của đối tác và khách hàng của SCB theo quy định của pháp luật. 

Ông Võ Minh Tuấn – Giám đốc NHNN chi nhánh TP Hồ Chí Minh thông tin 3 nội dung: Thứ 1,  hiện nay Ngân hàng SCB đang hoạt động bình thường ổn định, trên web của NHNN Việt Nam có khẳng định, sẽ có biện pháp nhằm tiếp tục đảm bảo hoạt động liên tục và ổn định cho SCB; Thứ 2, ổn định các hệ thống tín dụng trên địa bàn TP Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung, an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng là một trong những vấn đề rất quan trọng trong nhiều năm qua. NHNN và các Bộ, ngành chức năng đã có nhiều biện pháp, chính sách để đảm bảo an toàn cho cả hệ thống các tổ chức tín dụng.

Thời gian tới NHNN đã và sẽ tiếp tục có những biện pháp cụ thể, quyết liệt, để đảm bảo an toàn hoạt động chung, cũng như của Ngân hàng SCB để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền tại Ngân hàng; Thứ 3, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền thì tất cả quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người dân sẽ được đảm bảo.

Nguồn: Báo CAND

Nhận diện hoạt động lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước

Tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, luôn thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Do đó, cùng với vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động chống phá Đảng và chế độ ta.

Các thế lực thù địch âm mưu biến tôn giáo thành “ngòi nổ” gây mất ổn định chính trị - xã hội hoặc thông qua vỏ bọc tôn giáo để tuyên truyền luận điệu xuyên tạc kích động, phá hoại tư tưởng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chiêu bài tôn giáo là một phần của chiến lược “diễn biến hoà bình” mà các tổ chức, cá nhân thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam thường sử dụng nhằm kích động xu hướng chia rẽ, ly khai, từ đó phát triển thành các cuộc tuần hành, biểu tình, gây rối an ninh, trật tự, tạo sự bất ổn định về chính trị - xã hội, ảnh hưởng không nhỏ sự phát triển toàn diện của xã hội. Đây cũng là cái cớ để họ công khai can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đáng chú ý, trong giai đoạn hiện nay, ngoài những hoạt động chống phá mang tính quy luật thì một trong những thủ đoạn mà số đối tượng chống đối cực đoan ở trong và ngoài nước thường tiến hành là tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số nhằm kích động tư tưởng ly khai, tự trị tại các địa bàn chiến lược về an ninh, quốc phòng. 

Thực tế cho thấy, tại các khu vực trọng yếu của đất nước như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, các thế lực chống phá cực đoan ở trong và ngoài nước đã lợi dụng vấn đề dân tộc gắn với vấn đề tôn giáo để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, xúi giục người dân di cư tự do, biểu tình, bạo loạn gây mất ổn định chính trị nhằm tạo cớ can thiệp, phá hoại độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Nổi lên thời gian qua là các vụ việc trọng điểm xảy ra trên địa bàn Tây Bắc, trong đó tập trung ở các tỉnh như Điện Biên, Lai Châu… Dưới sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch, các đối tượng chống đối trong nước ráo riết thực hiện mưu đồ lập ra tôn giáo riêng ở đồng bào dân tộc như lập ra “đạo Vàng Chứ” để qua đó lôi kéo, tập hợp lực lượng thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”. Ở một số địa phương, tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc, các phần tử xấu còn lợi dụng các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo như Giê Sùa, Bà Cô Dợ, Hội thánh Đức Chúa trời, Sề Chu Hà Ly Cha và một số hiện tượng tôn giáo liên quan đến tục lễ thờ cúng các anh hùng liệt sĩ, người có công với cách mạng để tiến hành các hoạt động gây rối an ninh, trật tự. Thực tế, Giê Sùa, Bà Cô Dợ đều là tà đạo lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tập hợp phát triển lực lượng lập “Nhà nước Mông”. Thời gian qua, các đối tượng triệt để sử dụng phương thức, thủ đoạn thông qua điện thoại, mạng xã hội, các phần mềm trực tuyến để chỉ đạo số đối tượng cốt cán ở trong nước tích cực tuyên truyền, lôi kéo người Mông tại Việt Nam tham gia tà đạo nhằm kích động lập “Nhà nước Mông” với các luận điệu như: Đức Chúa trời Giê Hô Va đã chia đất cho người Mông nhưng người Mông không đoàn kết, nên đất đai đã bị các nước khác xâm chiếm; người Mông không có lãnh thổ, nhà nước riêng, suốt đời đi làm thuê cho các dân tộc khác…

Những vấn đề nêu trên đã và đang tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực, tạo thành những điểm nóng tôn giáo.

Hay như ở vùng Tây Nguyên trước đây, các đối tượng chống đối, cực đoan trong dân tộc cũng từng đòi thành lập đạo Tin lành Đề ga của đồng bào dân tộc bản địa để mưu đồ lập ra cái gọi là Nhà nước Đề ga độc lập. Tương tự ở Tây Nam Bộ, nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống, chúng cũng dựng nên cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm” với luận điệu vu khống Nhà nước ta đàn áp sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer Nam Bộ. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại an ninh quốc gia, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bên cạnh đó, thời gian qua, tại một số địa phương xuất hiện những mặt hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội như vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa… Triệt để lợi dụng vấn đề này, các đối tượng chống đối cực đoan trong tôn giáo tìm mọi cách để ngụy tạo chứng cứ, thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín và vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và các ban, ngành chức năng có liên quan. Từ đó tạo tâm lý tiêu cực, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với các cấp uỷ đảng, chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cao hơn nữa có thể kích động quần chúng tín đồ tụ tập đông người, gây rối an ninh, trật tự hoặc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, chống phá chế độ. Không những vậy, một số đối tượng cực đoan trong tôn giáo còn lợi dụng tình hình thiên tai hay đại dịch COVID-19 để tuyên truyền xuyên tạc, tạo “chiến tranh tâm lý”, gây hoang mang, lo lắng, hoài nghi trong nhân dân, nhất là việc xuyên tạc chất lượng của vaccine phòng COVID-19; xuyên tạc chính sách phòng, chống COVID-19 của Nhà nước ta; bôi nhọ các lực lượng thực thi pháp luật, hỗ trợ nhân dân chống dịch bệnh; thổi phồng những mất mát, tổn thất do dịch bệnh gây ra, quy nguyên nhân dịch bệnh do “chính quyền thờ ơ, vô cảm”, “đường lối của Đảng sai lầm”!

Mới đây, sau khi một số trang báo điện tử đưa tin về việc Mỹ tiêu hủy gần 400 triệu liều vaccine COVID-19 do vấn đề chất lượng, các đối tượng lập tức “đánh bùn sang ao”, cố tình bẻ lái sang vấn đề tiêm vaccine ở Việt Nam với luận điệu hết sức hoang đường khi ám chỉ Nhà nước ta không coi trọng sức khỏe và tính mạng của người dân, o ép người dân tiêm vaccine. Trong khi đó, thực tế đã chứng minh việc tiêm vaccine ở Việt Nam thời gian qua đã đem lại những tín hiệu tích cực, được nhân dân ủng hộ cao, qua đó đã tạo “tấm lá chắn” hữu hiệu nhất để chúng ta và nhân loại đẩy lùi dịch bệnh.

Rõ ràng, qua phân tích những vấn đề nêu trên cho thấy, chiêu bài tôn giáo được các thế lực thù địch và số đối tượng chống đối ở trong và ngoài nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước ta, là vấn đề mang tính quy luật. Hiện nay, thủ đoạn lợi dụng chống phá của các đối tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lại được che đậy bởi vỏ bọc tôn giáo nên người dân khó phát hiện. Tính chất nguy hiểm ngày càng cao khi thủ đoạn này đã tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng của đồng bào theo đạo. Đây sẽ là tiền đề để khi có điều kiện, có thời cơ, các đối tượng sẽ đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, kích động, lôi kéo quần chúng tín đồ tham gia vào các hoạt động chống đối, vi phạm pháp luật.

Do đó, mọi chức sắc, tín đồ tôn giáo nói riêng và mỗi người dân Việt Nam nói chung hãy luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động lên án những mưu đồ xấu của kẻ địch. Đồng thời, tích cực tham gia đấu tranh, đẩy lùi việc lợi dụng vấn đề chính trị để chống phá ra khỏi đời sống tôn giáo, góp phần làm cho các hoạt động tôn giáo trở nên thuần khiết, tốt đẹp như bản chất vốn có. Nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác của người dân, phân biệt rõ hoạt động tôn giáo đúng nghĩa và hành vi lợi dụng tôn giáo để kích động chống phá của kẻ xấu. Mọi hoạt động tôn giáo phải tuân thủ giáo lý, giáo luật, tuân thủ luật pháp, đem lại đời sống đạo pháp đúng nghĩa, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tôn giáo cho đồng bào trên cơ sở tuân thủ pháp luật của Nhà nước.

Nguồn: Báo CAND

TUYỆT ĐỐI KHÔNG MƠ HỒ, MẤT CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Thời gian qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tiếp tục lợi dụng âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta. Chúng tung thông tin giả, xấu độc, xuyên tạc, đang từng ngày, từng giờ lan tràn trên internet và mạng xã hội. Do vậy, các cấp, các ngành phải chủ động và tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên không gian mạng là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài trong tình hình mới. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động chống phá nước ta với âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, nham hiểm, xảo quyệt, đặc biệt là chúng lợi dụng internet, mạng xã hội đưa những ý kiến trái với quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh sai tình hình thực tiễn cách mạng, đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam như: Tổ chức Việt Tân, Đài Á châu tự do, BBC Việt ngữ, thoibao.de… thường xuyên đăng tải, tung thông tin sai sự thật chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúng thiết lập các website, blog, facebook, youtube, mở các “diễn đàn”, “câu lạc bộ”… phát tán các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung xấu độc để chống phá; đăng tải thông tin thật giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận truyền thống cách mạng, bản chất cách mạng cao đẹp của lực lượng vũ trang, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Bọn chúng sử dụng không gian mạng để tuyên truyền, kích động, lôi kéo, tập hợp dư luận, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Chuyển hóa các bài viết có sẵn thành thể thơ hoặc bài hát phát trên các kênh âm nhạc trực tuyến làm công cụ tuyên truyền, chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

Đặc biệt, các phần tử xấu, cơ hội chính trị điên cuồng chống phá, không từ một thủ đoạn nào, từ xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ nhân cách và phẩm giá, đến đánh giá phiến diện, sai trái; tìm mọi cách “hạ thấp uy tín, bôi nhọ lãnh tụ” của Đảng ta, bài bác, hòng phủ nhận tư tưởng của Hồ Chí Minh, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Các thế lực thù địch còn ra sức rêu rao: “Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là điều kiện cần thiết để thực thi dân chủ ở Việt Nam”. Thực chất đây là những luận điệu phản động, sai trái, bịa đặt nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Việc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta gần đây diễn ra rất kiên quyết, mạnh mẽ, “Sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó và không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào” được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, các thế lực phản động, những kẻ đội lốt “dân chủ” bóp méo rằng, công tác phòng chống tham nhũng của Đảng chỉ là sự “thanh lọc” trong nội bộ chứ không phải vì mục đích phục vụ sự phát triển của đất nước; chúng còn vu cáo, tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể chế một đảng không thể chống được tham nhũng... Chúng lợi dụng việc xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng, các phần tử xấu thổi phồng, “vơ đũa cả nắm”... tung luận điệu rằng: “Tham nhũng xảy ra ở toàn quân...”. Thực chất đây là kiểu quy chụp, chúng đưa những thông tin sai trái, xuyên tạc nhằm lái dư luận sang chiều hướng tiêu cực, hòng làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, giảm uy tín, vai trò của quân đội; tự bịa đặt, suy diễn, kích động làm “nóng” tình hình; bày ra âm mưu cực kỳ tinh vi, xảo quyệt hòng thúc đẩy nhanh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội. Các thông tin do các thế lực thù địch, cơ hội chính trị nhào nặn rất tinh vi, trộn lẫn tốt xấu, thật giả, khó nhận diện, trở nên cực kỳ nguy hiểm. Những thông tin như vậy trước hết các thế lực phản động kích động sự hiếu kỳ của đông đảo người dân, đồng thời tạo sự mâu thuẫn, đấu đá nội bộ, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta.

Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân cần cảnh giác với thông tin trên các trang mạng xã hội, phải tỉnh táo, sáng suốt nhận biết thông tin nào là đúng, chính xác, thông tin nào là giả, bịa đặt, xuyên tạc nhằm tránh bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị sử dụng để lôi kéo, kích động người dân hướng theo ý đồ xấu độc của chúng. Phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ BÀI VIẾT “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Thứ nhất, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đi vào khái quát và luận giải rất sâu sắc khái niệm về chủ nghĩa xã hội. 

Chúng ta thấy rằng cách hiểu về chủ nghĩa xã hội còn có nhiều ý kiến khác nhau tùy theo cách tiếp cận và luận giải, nhưng trong bài viết đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khái quát “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách” gồm: nó là một học thuyết; nó là một phong trào và nó là một chế độ. Song đ/c cũng lưu ý mỗi một tư cách cần hiểu nó gắn với những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể, và dù hiểu với tư cách nào thì cách nhìn nhận chủ nghĩa xã hội ở đây là “chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lê nin trong thời đại ngày nay” . 

Thứ hai, bài viết chỉ ra tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 

Từ cách khái quát dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nêu lên tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết cho rằng, mặc dù hiện nay chủ nghĩa tư bản vẫn còn có khả năng điều chỉnh, thích nghi để phát triển, và chủ nghĩa xã hội đang gặp không ít khó khăn, thách thức của thời cuộc, song những vấn đề bất cập trong đời sống đương đại hiện nay “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa” . Đồng thời, đồng chí Tổng Bí thư còn phân tích sâu sắc mâu thuẫn không thể giải quyết được của hệ thống quyền lực và thể chế dân chủ trong đời sống chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, bài viết đã đề cập toàn diện các vấn đề đặt ra hiện nay để xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, tiến bộ, bình đẳng, giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, vì lợi ích của nhân dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Trên cơ sở đó, bài viết đã khẳng định mong muốn đã trở thành khát vọng của dân tộc ta về một chế độ xã hội tốt đẹp, tiến bộ, bình đẳng, giải phóng triệt để con người ở Việt Nam “chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi” . Trên cơ sở các lập luận rất chặt chẽ, logic và giàu tính thuyết phục, bài viết khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề mang tính tất yếu khách quan, là sự lựa chọn theo quy luật của lịch sử cách mạng Việt Nam. 

Thứ ba, bài viết chỉ ra mục tiêu, đặc trưng bản chất của mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 

Từ luận giải cách hiểu về chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh” . Đó là chế độ xã hội tốt đẹp, tiến bộ nhất nhằm giải quyết triệt để vấn đề dân tộc, đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Bằng các luận cứ thuyết phục, đồng chí Tổng Bí thư lưu ý cần khắc phục hạn chế về nhận thức trước đây khi đồng nhất mục tiêu trước mắt của chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội, cũng như các nhận thức sai lầm về quan hệ sản xuất, phân phối sản phẩm, sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...

Thứ tư, bài viết khẳng định nhất quán về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và những định hướng thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. 

Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” .

Từ cách khái quát này, bài viết nêu lên những chỉ dẫn toàn diện, đồng bộ trên các mặt của đời sống xã hội để thực hiện mục tiêu và các đặc trưng bản chất nêu trên, mà cốt yếu là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nề văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Thứ năm, bài viết khẳng định những thành tựu không thể phủ nhận của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước. 

Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư khái quát những thành tựu nổi bật cả về thực tiễn quá trình thực hiện các nội dung của quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng khẳng định: “Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua” . Bài viết nhấn mạnh: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” . Điều đó khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đúng đắn, hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan.

Nội dung bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phản ánh tư duy lý luận khoa học, cách mạng và tầm nhìn chiến lược, có giá trị và ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn; có tính tư tưởng, tính lý luận cao, làm sáng rõ hơn cách hiểu về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần nâng cao nhận thức và định hướng hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

NHỮNG ĐÁNH GIÁ SAI LỆCH VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Thời gian qua, với âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, trên diễn đàn mạng xã hội, một số cá nhân, tổ chức đã lợi dụng công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta để xuyên tạc, bóp méo, cho đó là “cuộc đấu tranh thanh trừng nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích”, vu cáo Đảng, Nhà nước ta đang ở thế “lưỡng nan đối nghịch” với hàm ý chống tham nhũng nhưng ngại thay đổi thể chế chính trị. Lợi dụng một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên được phát hiện trong thời gian gần đây, đặc biệt là liên quan đến vụ kit test Việt Á, các cá nhân, tổ chức thù địch đã lấy hiện tượng làm bản chất, quy chụp rằng toàn bộ đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước “đang rơi vào tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, thoái hóa, biến chất”. Họ vu cáo rằng, đó là bản chất, là “căn bệnh nan y, kinh niên” của chế độ độc đảng cầm quyền.

Trên thực tế, Đảng, Nhà nước ta đã luôn nhận thức rõ tính nguy hiểm của tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ. Đảng, Nhà nước đã luôn có quyết tâm chính trị cao và kiên quyết phòng, chống, khắc phục tham nhũng, suy thoái, biến chất trong đảng viên và cán bộ Nhà nước. Đảng, Nhà nước ta luôn coi tham nhũng, tiêu cực là “giặc nội xâm”, một trong các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, phải kiên quyết đấu tranh loại ra khỏi đời sống xã hội. Đảng ta cũng xác định phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng. Kết hợp giữa xây và chống, phòng ngừa gắn liền với xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam.

Minh chứng rõ cho điều đó là các văn kiện của Đại hội Đảng, các chỉ thị, nghị quyết về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, việc xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” đã được thể hiện rõ kết quả trong báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 được Bộ Chính trị tổ chức vào ngày 30/6/2022 vừa qua. Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.

Vậy nên, những luận điệu cho rằng, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái của cán bộ trong Đảng, Nhà nước ta là phổ biến, là “căn bệnh kinh niên, nan y không thể chữa trị của chế độ độc đảng cầm quyền” hay đó là cuộc “đấu tranh, thanh trừng nội bộ giữa các phe phái”… là hoàn toàn sai trái. Đó là những quan điểm cố tình bôi đen, xuyên tạc nhằm làm sai lệch bản chất, ý nghĩa công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, cố tình lấy cớ để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính chiến đấu, tham gia đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái trên đây.

QUAN ĐIỂM VỀ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG BÀI VIẾT “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 Nhân kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2021), Tổng Bí thư đã có bài viết với tiêu đề “một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Trong khi tập trung trả lời 4 câu hỏi: chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?; Tổng Bí thư đã nhấn mạnh cách thức để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó Tổng Bí thư khẳng định: “nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của đảng cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa” . Nghiên cứu quan điểm về xây dựng, chỉnh đốn đảng của Tổng Bí thư trong bài viết, có thể nhận thức trên các vấn đề cơ bản sau: 

Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ then chốt, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN. Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có thể khẳng định: “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” . Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta. Vì thế, công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, tăng cường xây dựng đảng về chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng

Cùng với tăng cường xây dựng đảng về chính trị, đòi hỏi đảng phải đồng thời nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và năng lực cầm quyền của đảng. Nếu có bản lĩnh chính trị nhưng không có trình độ trí tuệ, không có năng lực lãnh đạo, cầm quyền, thiếu sức chiến đấu thì đảng không có sức mạnh thực lực. Tổng Bí thư chỉ rõ phải tiếp tục nâng cao bản lĩnh, trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, cầm quyền trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách, phù hợp với thực tiễn việt nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.

Thứ ba, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, nâng tầm tư duy lý luận, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, phục vụ hoạch định đường lối, chính sách xây dựng, phát triển đất nước

Xuất phát từ thực trạng và những yêu cầu của công tác tư tưởng, lý luận, tổng bí thư đã chỉ rõ: “không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước” . Tổng Bí thư nhấn mạnh, phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển; khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí, quyết tâm vươn lên của cả dân tộc.

Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng Đảng về đạo đức, xây dựng văn hóa Đảng, văn hóa chính trị

Tổng Bí thư chỉ rõ, phải tập trung xây dựng đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm “chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”.

Thứ năm, tiếp tục xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ, đảng viên, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Tổng Bí thư chỉ rõ, phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn luôn có ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, làm “đúng vai, thuộc bài”, thật sự có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, quý trọng.

Thứ sáu, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng

Tổng Bí thư khẳng định: “một Đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên” . Để củng cố niềm tin của nhân dân, Tổng Bí thư yêu cầu phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ của đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, suy thoái về phẩm chất, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố và xây dựng các tổ chức đảng thật trong sạch, vững mạnh, làm cho đảng thật sự là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân. 

Bảy là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng 

Tổng Bí thư chỉ rõ, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng toàn diện phải gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đặc biệt là cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc chính phủ, chính quyền các địa phương và giữa các cơ quan, đơn vị “bảo đảm cả hệ thống tổ chức bộ máy luôn luôn vận hành một cách đồng bộ, thống nhất”; “tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng”; “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “quyền anh, quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây” .

ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG VÀ BẢO ĐẢM CÁC QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CHO NGƯỜI DÂN

Ngày 7/9, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Đà Nẵng đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam Bùi Tuấn Lâm (trú tại phường Thanh Bình, quận Hải Châu) để điều tra, làm rõ hành vi “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN  Việt Nam”, quy định tại Điều 117, BLHS.

Ngày 8/9, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk cũng thông báo về việc đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với Đặng Đăng Phước (trú tại số nhà 19/6, đường Giải Phóng, phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột) để điều tra cùng về hành vi trên.

Tung hứng, đánh tráo sự thật

Ngay sau đó, nhiều thông tin, luận điệu sai trái liên quan đến việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt bị can để tạm giam đã được các đối tượng xấu tung ra. Liên quan đến bị can Bùi Tuấn Lâm, trang mạng của tổ chức Việt Tân rêu rao rằng: “Nhà hoạt động Bùi Tuấn Lâm thường xuyên lên tiếng trước những bất công, tình hình dân chủ, vi phạm nhân quyền và có đóng góp tích cực cho phong trào dân chủ tại Việt Nam”; “việc bắt giữ Bùi Tuấn Lâm là một bằng chứng tiếp theo về sự khủng bố trắng của chính quyền đối với những công dân yêu nước”… Với bị can Đặng Đăng Phước, họ tô vẽ, tạo dựng Phước thành hình tượng một “người yêu nước”, “nhà đấu tranh”, từ đó lên tiếng vu khống chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) kêu gọi Việt Nam cần bãi bỏ Điều 117, BLHS “về sự lạm quyền”, lên tiếng đòi “ngay lập tức trả tự do cho Bùi Tuấn Lâm và những người khác”. Một số báo, đài, các trang mạng xã hội hải ngoại đăng tải thông tin phụ họa dưới dạng “kẻ tung người hứng” để gây sức ép và can thiệp, yêu cầu thả tự do cho các đối tượng bị bắt.              

Những luận điệu rêu rao trên là sai sự thật. Chẳng có ai bị khởi tố, bắt tạm giam chỉ vì đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền. Chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật, núp danh dân chủ thực hiện hành vi chống phá đất nước, chống phá chính quyền nhân dân, bị CQĐT khởi tố, điều tra. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là những hoạt động tố tụng đầu tiên của quá trình điều tra. Để xác định tính chất, mức độ hành vi phạm pháp đối với Bùi Tuấn Lâm, Đặng Đăng Phước, các cơ quan tố tụng sẽ phải thu thập, củng cố tài liệu, chứng cứ và tiến hành các bước tiếp theo. Tuy nhiên, nếu ai theo dõi hoạt động của những kẻ tự xưng “giới dân chủ” thì cũng không xa lạ gì đối với hai bị can này.

Bị can Bùi Tuấn Lâm thường xuyên sử dụng tài khoản mạng Facebook “Peter Lam Bui” để đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, phát sóng trực tiếp (livestream) có thông tin, nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; cổ súy các hoạt động chống chính quyền; xúc phạm lãnh tụ, xúc phạm uy tín, danh dự của các tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật. Đồng thời, đối tượng này cũng công khai ủng hộ Phạm Đoan Trang, Lê Dũng Vova, Trịnh Bá Phương - những kẻ chống phá Nhà nước, đã bị cơ quan chức năng đưa ra xét xử. Ngoài ra, Bùi Tuấn Lâm còn có mối quan hệ với một số tổ chức, hội nhóm chống phá chính quyền như “Hội bầu bí tương thân”, “Con đường Việt Nam”...

Tài liệu xác minh ban đầu của cơ quan điều tra cho thấy, Bùi Tuấn Lâm từng tham gia khóa huấn luyện về “xã hội dân sự”, “đấu tranh bất bạo động”; thường xuyên tham gia các buổi thảo luận về học thuyết xã hội nhằm đào tạo lực lượng hình thành xã hội dân sự, chống phá đất nước; tham gia với các đối tượng chống đối chính trị viết bài xuyên tạc chính quyền, câu kết hoạt động kích động biểu tình, gây rối… Việc chống phá của Bùi Tuấn Lâm mang tính quyết liệt, thể hiện rõ mục đích thay đổi chế độ.

Liên quan đến bị can Đặng Đăng Phước, mặc dù là giáo viên, giảng dạy tại Trường CĐSP Đắk Lắk nhưng đối tượng này không giữ chuẩn mực nhà giáo, liên tục lợi dụng mạng xã hội để lan truyền các thông tin sai sự thật. Với lăng kính nhìn nhận của Phước, mọi vấn đề trong xã hội đều trở nên đen tối, tiêu cực. Thay cho việc truyền thụ kiến thức, nhân cách cho học sinh, đối tượng này lại núp danh dân chủ, nhân quyền, đưa ra những phát ngôn xuyên tạc và thường xuyên tụ tập, tiếp xúc với các phần tử bất mãn để tuyên truyền kích động, đả phá chính quyền. Khi Luật An ninh mạng được thông qua, đối tượng này cũng là một trong số các phần tử kêu gọi tẩy chay, phản đối. Các cơ quan chức năng nhiều lần nhắc nhở, giáo dục và yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật nhưng Đặng Đăng Phước không chấp hành, ngược lại còn tiếp tục hoạt động ngày càng quyết liệt, cực đoan hơn.

Do đó, việc khởi tố, bắt tạm giam đối với Bùi Tuấn Lâm và Đặng Đăng Phước để phục vụ điều tra là tất yếu. Hoạt động của hai đối tượng này rõ ràng không phải vì mục đích thúc đẩy dân chủ, nhân quyền như những gì họ rêu rao. Thực chất, những đối tượng này luôn tìm mọi cách để chống phá, làm thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Những luận điệu “tẩy trắng”, “khóc mướn” cho Bùi Tuấn Lâm và Đặng Đăng Phước suy cho cùng cũng chỉ là một chiêu trò để tạo dựng các “hình mẫu ngược”, làm nhiễu loạn tình hình, gây sức ép cho chính quyền và các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài tiến hành chống phá Đảng, Nhà nước. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ cho người dân. Những năm qua, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy quyền con người; thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chính sách đối với nhóm người yếu thế; giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân tộc… Cùng với đó, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia vào hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Dân chủ, nhân quyền phải gắn liền với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bảo đảm nhân quyền phải gắn chặt với phát triển bền vững kinh tế, văn hóa, xã hội. Không thể tự xưng hoạt động vì dân chủ, nhân quyền để chống phá đất nước, gây mất ổn định như những gì Bùi Tuấn Lâm, Đặng Đăng Phước và các đối tượng khoác áo “dân chủ” đang thực hiện.

CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN PHẢI LÀ MỘT CHIẾN SĨ TIÊN PHONG TRÊN MẶT TRẬN ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công vào những vấn đề tư tưởng, lý luận, đồng thời sử dụng không gian mạng là một mặt trận chính để chống phá ta, do đó công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng.

Thứ nhất, công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta cần được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, khó khăn, quyết liệt, nên tuyêt đối tránh tư tưởng xem nhẹ, lơ là, buông lỏng, mất cảnh giác. Cần lấy chính các phương tiện truyền thông mới và không gian mạng là phương tiện và nền tảng chủ đạo để khắc chế thủ đoạn dùng không gian mạng chống phá ta của các thế lực thù địch, theo phương châm “lấy độc trị độc”, tận dụng chính những ưu thế của các phương tiện truyền thông mới để phản tuyên truyền lại những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, thay vì phiến diện chỉ thấy các yếu tố tiêu cực, mặt trái của nó.

Thứ hai, làm loãng thông tin xấu, độc bằng xây dựng tuyến, luồng bài viết có thông tin tích cực hoặc trực diện phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch để liên tục phủ lên và tiến tới chiếm thế thượng phong trên không gian mạng, không gian các phương tiện truyền thông mới, truyền thông xã hội. Kết hợp hài hòa giữa lan tỏa phổ rộng thông tin với ngày càng coi trọng chiều sâu thông tin, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng hệ bài chuyên luận chuyên sâu bẻ gãy từ gốc những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch bằng lý luận, có hệ thống luận cứ, luận chứng chặt chẽ, tính thuyết phục cao, giúp độc giả hiểu sâu, thấy rõ bản chất vấn đề, từ đó có niềm tin khoa học vững chắc vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là phương thức đấu tranh có chiều sâu, căn cơ, kịp thời và chủ động ngăn chặn thủ đoạn chuyển hướng chống phá của các thế lực thù địch nhằm vào những vấn đề cốt lõi thuộc hệ tư tưởng và nền tảng lý luận của Đảng ta.

Thứ ba, giữ vững vai trò nòng cốt, chủ lực của hệ thống cơ quan chuyên trách đấu tranh tư tưởng, các cơ quan tuyên giáo, báo chí của Đảng, đồng thời mở rộng các kênh, lực lượng thông tin rộng khắp, làm chủ không gian thông tin trong nước và không gian mạng; xây dựng cơ chế chỉ đạo thông tin thống nhất, hiệp đồng thông tin đồng bộ, tác chiến thường trực, đa dạng, đa tuyến. Kết hợp thông tin phản bác của các cơ quan báo chí chính thống với các kênh truyền thông khác, theo phương thức lấy thông tin chủ đạo từ các cơ quan báo chí làm thông tin nguồn để lan tỏa trên không gian mạng từ tận dụng tính năng siêu kết nối xã hội của các phương tiện truyền thông mới, truyền thông xã hội; tích hợp tính năng chia sẻ thông tin của các báo, tạp chí điện tử đến một số ứng dụng truyền thông xã hội lớn; mở các kênh truyền thông xã hội riêng như “cánh tay” nối dài của các báo, tạp chí, nếu phù hợp. Coi trọng công tác dự báo khoa học về những xu hướng truyền thông mới, tác động trực tiếp tới sự thay đổi về thủ đoạn, cách thức, phương tiện chống phá kiểu mới của các thế lực thù địch, trưc tiếp phục vụ cho việc lãnh đạo, chỉ đạo sát trúng, có tầm nhìn dài hạn, chủ động trong mọi tình huống. Kết hợp các giải pháp về nội dung với các giải pháp kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ an ninh bao gồm việc chặn lọc, vô hiệu hóa, đấu tranh với các nhà cung cấp các phương tiện truyền thông xã hội nước ngoài gỡ bỏ thông tin xấu độc; ren đe; xử lý hình sự... để tạo hiệu quả đấu tranh tổng lực.

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn - nghiên cứu lý luận, xây dựng hệ thống luận cứ, luận chứng khoa học - thực tiễn nền tảng cho công tác đấu tranh phản bác các thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch; gắn chặt nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận, nhất là việc tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, 40 năm tiến hành cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH trong thời gian tới.

BÔI NHỌ LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG QUA CÁC THỜI KỲ LÀ HÀNH ĐỘNG CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 Như chúng ta đã biết, bên cạnh các thế lực phản động, thù địch luôn mang dã tâm phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, thì một số cá nhân, trong đó có người từng đứng trong hàng ngũ của Đảng, vì bất mãn cá nhân hoặc bị mua chuộc bởi lợi ích vật chất, kinh tế nên đã phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân, chà đạp lên lịch sử dân tộc. Phủ nhận công lao to lớn của các lãnh tụ của Đảng là một trong những thủ đoạn mà chúng sử dụng lâu nay nhằm gián tiếp hạ thấp uy tín, vai trò của Đảng. Các bậc tiền bối của Đảng như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn… là những tên tuổi mà các đối tượng thù địch, bất mãn thường xuyên tập trung xuyên tạc, bôi nhọ. Các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của chúng thường biểu hiện ở những khía cạnh sau: 1) Xuyên tạc đời tư cá nhân, “nghe hơi nồi chõ” - dựng chuyện để hùa theo rồi quy kết bịa đặt rằng “các lãnh tụ đều có nhiều vợ, nhiều con”, “có nhiều người tình” cả ở trong và ngoài nước (giọng điệu của các đối tượng Bùi Tín, Hoành Tranh, Sophie Quinn Judge…). 2) Xuyên tạc mối quan hệ giữa các lãnh tụ trong quá trình lãnh đạo cách mạng, bằng những giọng điệu phản động, bịa đặt.  3) Xuyên tạc và phủ nhận công lao, sự nghiệp cách mạng của các lãnh tụ. Chúng rêu rao rằng con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam là sự “chọn đại, sai lầm” của những người lãnh đạo, khiến gây ra chiến tranh, nghèo đói, “huynh đệ tương tàn, Bắc Nam chia rẽ” (giọng điệu của các đối tượng Bùi Tín, Việt Thường, Trương Gia Kiểng…). 4) “Thần thánh hóa” tung hô các lãnh tụ tiền bối nhằm đối lập với cán bộ đảng viên hiện nay. Đây là một dạng luận điệu không kém phần thâm độc, bởi chúng “lập lờ đánh lận con đen” muốn quy hiện tượng thành bản chất, cho rằng “một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước tha hóa, biến chất và vi phạm” là cái “phổ biến” và “tất yếu” của một Đảng duy nhất cầm quyền (giọng điệu của các đối tượng Tiến Hồng, Lê Kỳ Sơn…).

Thực chất những luận điệu nêu trên không chỉ nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín lãnh tụ của Đảng qua các thời kỳ, mà qua đó, âm mưu sâu xa, nham hiểm của chúng là từ chỗ làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với các lãnh tụ để dẫn đến nghi ngờ, dao động rồi mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Bóp méo sự thật lịch sử, bôi nhọ nhân phẩm các bậc lãnh đạo tiền bối để “mượn gió bẻ măng” hòng chống phá Đảng, Nhà nước; đánh phá nền tảng tư tưởng của Đảng; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc… là thủ đoạn mà các thế lực thù địch, thành phần bất mãn đã, đang và sẽ còn sử dụng. Những hành động đó luôn đi ngược lại với lợi ích của quốc gia - dân tộc và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Bằng cái nhìn khách quan, bằng các tư liệu lịch sử chính thống và bằng tiếng nói của lương tri, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động đó.

Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân cần tỉnh táo, nhạy bén, cảnh giác với những loại thông tin như thế này, nhận biết thông tin nào là đúng, chính xác, thông tin nào là giả, bịa đặt, xuyên tạc nhằm tránh bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị sử dụng để lôi kéo, kích động người dân hướng theo ý đồ xấu độc của chúng. Phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ Quân đội.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII. Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị

Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao cho rằng: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật; nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, có nhiều đóng góp tích cực vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Nổi bật là: Công tác tổng kết lý luận và thực tiễn được chú trọng, tăng cường, đã góp phần tích cực cho việc kế thừa, bổ sung, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng và hoàn thiện luật pháp, chính sách của Nhà nước. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội, ngày càng sát hợp, hiệu lực, hiệu quả hơn. Cơ chế họp Lãnh đạo chủ chốt hằng tháng đã trở thành nền nếp, rất có hiệu quả, góp phần làm cho sự lãnh đạo của Đảng tập trung, thống nhất, thông suốt hơn.

Việc lập lại Ban Kinh tế, Ban Nội chính, chuyển Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng về trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp làm Trưởng Ban; thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh; ban hành và sát sao chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và đổi mới xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện,... đã góp phần tích cực cho việc đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tựu quan trọng đã đạt được vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém; tình hình đất nước, khu vực và quốc tế đã, đang và sẽ có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, cao và phức tạp hơn. Do vậy, trên cơ sở tổng kết 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X, Hội nghị Trung ương lần này đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết mới về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Trong đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh: Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải bảo đảm giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao vai trò, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.

Thực tế vừa qua cho thấy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của các cấp uỷ, tổ chức đảng, gắn với thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ và các chủ trương, đường lối của Đảng, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm thực hiện đúng cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ".

Trong quá trình này, cần kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh phân công, phối hợp, phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm, mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, cơ chế, chính sách, nguyên tắc và kỷ luật của Đảng.

Để tiếp tục đổi mới thành công phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm; vấn đề đã rõ thì kiên quyết đổi mới, vấn đề cần thiết nhưng chưa rõ, còn ý kiến khác nhau thì phải nghiên cứu, thí điểm, không nóng vội nhưng cũng không bỏ qua hoặc để quá chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực phải vừa quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng lĩnh vực và của từng loại hình cơ quan nhà nước, từng tổ chức chính trị - xã hội.

Trên cơ sở thống nhất cao về nhận thức, cần phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc nhận thức về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ cả 5 phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII. Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận sôi nổi và thống nhất cao với những nhận định, đánh giá về kết quả, thành tựu đã đạt được; những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân; những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tế đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua; cũng như những quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trên cơ sở đó, đã quyết định ban hành Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Trung ương về vấn đề đặc biệt quan trọng này.

Trung ương nhất trí cao cho rằng, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra trong bối cảnh tình hình trong nước và trên thế giới đã, đang và sẽ có nhiều thay đổi trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn Đảng, toàn dân ta cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, đúng đắn, đồng bộ hơn trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Cần phải nhận thức rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội ngày càng dựa nhiều hơn vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; là phương thức quan trọng để Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tình hình mới; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước; là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị; lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể; bảo đảm sự hài hòa giữa mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với yêu cầu giữ gìn tiến bộ và công bằng xã hội, bồi đắp và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc, bảo vệ tài nguyên, môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động.

Cần phải khai thác và phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng, từng địa phương trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tận dụng và phát huy lợi thế của nước đi sau và đang trong thời kỳ "dân số vàng"; kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu, thúc đẩy chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang sáng tạo, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; chú trọng "dịch vụ hóa" các ngành công nghiệp. Coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực và có các cơ chế, chính sách đột phá, đặc thù để phát triển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên gắn với công nghệ thông minh, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng để tạo không gian phát triển mới; coi nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng.

Trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải chú ý bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh con người Việt Nam; vai trò xung kích, đi đầu của lực lượng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và đội ngũ trí thức, giai cấp công nhân hiện đại.

Trên cơ sở đó, quán triệt, tổ chức thực hiện thật tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Trung ương đã nhất trí cao đề ra tại Hội nghị lần này".

Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII. Về định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050

Ban Chấp hành Trung ương đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận, tạo sự thống nhất cao về sự cần thiết phải ban hành và tổ chức thực hiện thật tốt Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trung ương coi đây là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng là vấn đề rất rộng lớn, rất mới, rất khó, rất nhạy cảm và chưa có tiền lệ. Để xây dựng được một Quy hoạch tổng thể quốc gia có chất lượng và tính khả thi cao, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra thì cần phải nhận thức thật sâu sắc và quán triệt thật đầy đủ những nội dung của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kết luận của Hội nghị lần này về Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và thực tế phát triển, tổ chức không gian phát triển quốc gia thời gian qua, nhất là 10 năm gần đây, thấy rõ những kết quả, thành tựu đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm được tổng kết.

Việc xây dựng và từng bước hoàn thiện Quy hoạch tổng thể quốc gia cho từng thời kỳ phải dựa trên nguyên tắc: Không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên phạm vi cả nước, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng và khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nhiều tiềm năng lợi thế cho phát triển, nhất là về nguồn nhân lực chất lượng cao, để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. Sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản; bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tổ chức không gian phát triển quốc gia, các vùng lãnh thổ, các hành lang kinh tế và hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; gắn kết giữa hệ thống đô thị và nông thôn; khu vực đất liền với không gian biển; khai thác và sử dụng vùng trời; tham gia có hiệu quả vào các hành lang kinh tế quan trọng trong khu vực và quốc tế; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả.

Nội dung chủ yếu của Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là phải xác định rõ và đúng những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo; những mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu cần phấn đấu để đạt được; và các định hướng lớn về phát triển và phân bố không gian phát triển các ngành, lĩnh vực chủ yếu; định hướng tổ chức không gian phát triển theo vùng, lãnh thổ; định hướng phát triển hệ thống đô thị, nông thôn; định hướng phát triển hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền quốc gia... Trong việc quy hoạch lần này, cần tập trung ưu tiên cho việc hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia; tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng bảo vệ môi trường, thuỷ lợi, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới. Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các "đầu tàu" lôi cuốn sự phát triển của quốc gia. Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam và trục Đông - Tây; kết nối các cảng biển, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cao việc ban hành Nghị quyết về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới" với mục tiêu tổng quát là: "Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, phân cấp, phân quyền và kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045".

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nêu trên đây, Trung ương yêu cầu, trong quá trình thực hiện Nghị quyết, phải luôn luôn bám sát và nắm vững Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước ta theo các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo sau đây:

Một là, Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; phải đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hai là, Thực hiện nhất quán nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự giám sát của Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ba là, Bảo đảm yêu cầu: Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng. Con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Bốn là, Bám sát thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Năm là, Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình và bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ, chưa chín, còn nhiều ý kiến khác nhau thì khẩn trương nghiên cứu, thực hiện thí điểm, tổng kết thực tiễn để làm rõ, từng bước hoàn thiện, mở rộng; những chủ trương đã thực hiện, nhưng thực tiễn khẳng định là không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả.

Ban Chấp hành Trung ương cho rằng, xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước theo những phương hướng nói trên là một quá trình, với những bước đi tích cực, vững chắc, đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, gắn với đổi mới và xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trước mắt, cần tập trung sức thực hiện một số chủ trương và nhiệm vụ quan trọng:

1) Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác lập pháp;

2) Cải cách nền hành chính Nhà nước;

3) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án và các cơ quan Tư pháp;

4) Phát huy vai trò và quyền làm chủ của Nhân dân;

5) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong đó đặt trọng tâm vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật; cải cách nền hành chính Nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước được hiện đại hóa để thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; sự quản lý có hiệu lực và hiệu quả cao công việc của Nhà nước; phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; thúc đẩy tiến trình đổi mới, phát triển, thực hiện bằng được mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Sau 7 ngày (từ 3 đến 9-10-2022) làm việc khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra và bế mạc sáng 9-10.


Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng và các đại biểu tham dự Hội nghị đã phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc vào các tờ trình, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình đầy đủ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất cao thông qua các Nghị quyết và Kết luận của Hội nghị.

 Phát biểu bế mạc hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, dự báo thời gian tới, kinh tế thế giới nói riêng và tình hình quốc tế nói chung sẽ còn có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Vì vậy, những tháng còn lại của năm 2022 và năm 2023, phải tiếp tục nêu cao cảnh giác, chủ động kiểm soát có hiệu quả hơn nữa dịch Covid-19 và các dịch bệnh mới phát sinh, tuyệt đối không được chủ quan, để bị động, bất ngờ; bảo đảm năng lực khám, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh của hệ thống y tế. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đặc biệt là cân đối về tài chính - ngân sách nhà nước.

Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ, khả năng chống chịu và tính thích ứng của nền kinh tế; củng cố, phát huy và tạo lập các động lực tăng trưởng mới trong trung hạn và dài hạn. Nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp, tinh giản bộ máy, biên chế. Quyết liệt và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các đột phá chiến lược, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là các dự án quan trọng, trọng điểm quốc gia. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân. Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo sự đồng thuận xã hội. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại.

Ban Chấp hành Trung ương đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận, tạo sự thống nhất cao về sự cần thiết phải ban hành và tổ chức thực hiện thật tốt Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trung ương coi đây là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng là vấn đề rất rộng lớn, rất mới, rất khó, rất nhạy cảm và chưa có tiền lệ.

Để xây dựng được một Quy hoạch tổng thể quốc gia có chất lượng và tính khả thi cao, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cần phải nhận thức thật sâu sắc và quán triệt thật đầy đủ những nội dung của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kết luận của Hội nghị lần này về Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và thực tế phát triển, tổ chức không gian phát triển quốc gia thời gian qua, nhất là 10 năm gần đây, thấy rõ những kết quả, thành tựu đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm được tổng kết.

Trong việc quy hoạch lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, cần tập trung ưu tiên cho việc hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia; tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng bảo vệ môi trường, thuỷ lợi, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới. Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các "đầu tàu" lôi cuốn sự phát triển của quốc gia. Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam và trục Đông - Tây; kết nối các cảng biển, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng.

Trung ương nhất trí cao cho rằng, cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, đúng đắn, đồng bộ hơn trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cần phải khai thác và phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng, từng địa phương trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tận dụng và phát huy lợi thế của nước đi sau và đang trong thời kỳ "dân số vàng"; kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu, thúc đẩy chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang sáng tạo, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; chú trọng "dịch vụ hóa" các ngành công nghiệp. Coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực và có các cơ chế, chính sách đột phá, đặc thù; tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng. Coi nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định. Nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá. Doanh nghiệp trong nước là động lực chính, chủ đạo. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng.

Trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý: "Phải chú ý bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh con người Việt Nam; vai trò xung kích, đi đầu của lực lượng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và đội ngũ trí thức, giai cấp công nhân hiện đại”.

Với mục tiêu tổng quát là: "Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, phân cấp, phân quyền và kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trước mắt, cần tập trung thực hiện một số chủ trương và nhiệm vụ quan trọng: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác lập pháp; cải cách nền hành chính nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án và các cơ quan Tư pháp; phát huy vai trò và quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước...

Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao cho rằng: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do vậy, trên cơ sở tổng kết 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, Hội nghị Trung ương lần này đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết mới về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, cần kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh phân công, phối hợp, phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm, mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, cơ chế, chính sách, nguyên tắc và kỷ luật của Đảng.

Để tiếp tục đổi mới thành công phương thức lãnh đạo của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm; vấn đề đã rõ thì kiên quyết đổi mới, vấn đề cần thiết nhưng chưa rõ, còn ý kiến khác nhau thì phải nghiên cứu, thí điểm, không nóng vội nhưng cũng không bỏ qua hoặc để quá chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực phải vừa quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng lĩnh vực và của từng loại hình cơ quan nhà nước, từng tổ chức chính trị - xã hội.

Trên cơ sở thống nhất cao về nhận thức, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cần phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc nhận thức về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ cả 5 phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.

Một điểm mới tại Hội nghị lần này là, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành xem xét, quyết định để cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII theo chủ trương của Bộ Chính trị tại Quy định số 41-QĐ/TW, ngày 03-11-2021 về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ và Thông báo số 20-TB/TW, ngày 08-9-2022 về bố trí công tác đối với cán bộ sau khi bị kỷ luật, đối với các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng Nguyễn Thành Phong, Huỳnh Tấn Việt, Bùi Nhật Quang.

Ban Chấp hành Trung ương cũng đã xem xét Tờ trình của Bộ Chính trị và quyết định thi hành kỷ luật đồng chí Phạm Xuân Thăng, Ủy viên Trung ương Đảng; Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng do các vi phạm nghiêm trọng về nguyên tắc tập trung dân chủ, về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thiệt hại lớn đến tài sản, ngân sách nhà nước, gây dư luận xấu, làm giảm uy tín của Đảng, chính quyền địa phương và cá nhân đồng chí.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, đây là sự việc rất đau xót, nhưng vì sự nghiêm minh của kỷ luật đảng, để giáo dục, ngăn ngừa, cảnh tỉnh, răn đe các trường hợp khác và vì sự lớn mạnh của Đảng buộc chúng ta phải làm. Và đây cũng là bài học mỗi đồng chí chúng ta cần phải rút kinh nghiệm thật sự sâu sắc, điều này được cán bộ, đảng viên, nhân dân đánh giá cao.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng rằng, với thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí cao trong toàn Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng hộ, hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Nguồn: Báo QĐND

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ: Đẩy mạnh khởi nghiệp ở khu vực nông nghiệp, nông thôn Thái Nguyên

Chiều 9-10, tại Thái Nguyên, đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên.

Cùng dự cuộc làm việc có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành; Tổng thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường; Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh; Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng; Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh; Trung tướng Nguyễn Hồng Thái, Tư lệnh Quân khu 1; Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải…

Theo báo cáo do Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải trình bày, năm 2021 và 9 tháng đầu năm, trong bối cảnh chịu nhiều tác động bất lợi của dịch Covid-19, Thái Nguyên đã cơ bản thực hiện tốt mục tiêu kép. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2021 tăng 6,51% so với năm 2020, gấp đôi so với mức tăng trưởng bình quân của cả nước. GRDP bình quân đầu người đạt 95,1 triệu đồng (tương đương 4.121,8 USD/người/năm), bằng 97% kế hoạch, tăng 6,4 triệu đồng/người so với năm 2020. Tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm 2022 đạt 7,08% là mức tăng cao nhất trong 3 năm trở lại đây.

Thu ngân sách năm 2021 đạt 17.916 tỷ đồng, bằng 146,5% dự toán Bộ Tài chính giao, bằng 114,8% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn toàn tỉnh 9 tháng đầu năm 2022 đạt 13.345 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ, bằng 74,1% dự toán.

Với tiến độ thực hiện xây dựng huyện Định Hóa-nơi có Khu di tích lịch sử An toàn khu (ATK) là nơi ở, làm việc và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp-đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2023, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên cho biết, đây là vấn đề được Đảng, Nhà nước nói chung và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nói riêng rất quan tâm.

Ngày 16-11-2021, về dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại xóm Quyết Tâm, xã Trung Lương, huyện Định Hóa, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã có những chỉ đạo rất cụ thể về xây dựng Định Hóa thành huyện nông thôn mới. Ngay sau đó, với sự hỗ trợ của Văn phòng Quốc hội, địa phương đã tích cực vào cuộc, xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện cho từng năm 2022, 2023. Đến nay, Định Hóa đã đạt 19/39 chỉ tiêu và 2/9 tiêu chí huyện nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.

Việc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, nhất là nghị quyết về các chính sách hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và phòng, chống dịch Covid-19 bước đầu đạt được kết quả tích cực. Bên cạnh đó, hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp được thực hiện chủ động, chất lượng được nâng cao; Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã có nhiều đóng góp trong triển khai công tác lập pháp và giám sát, nhất là trong triển khai các chuyên đề giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2022.

Phát biểu tại cuộc làm việc, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chúc mừng, ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao thành tích mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thái Nguyên đã đạt được.

Đánh giá cao công tác lãnh đạo của Tỉnh ủy Thái Nguyên trong thời gian qua, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị Tỉnh ủy Thái Nguyên tiếp tục rà soát, cập nhật các nghị quyết, kết luận, đề án để công tác lãnh đạo của Đảng trên địa bàn đạt kết quả cao hơn. Trong đó cần lưu ý cập nhật Nghị quyết Trung ương 6. Nhấn mạnh rằng tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã được Bác Hồ viết tại ATK Định Hóa, Chủ tịch Quốc hội gợi ý Thái Nguyên xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng kết hợp với việc học tập, quán triệt thực hiện lời dạy của Bác Hồ.

Cùng với đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Thái Nguyên tập trung hoàn thiện quy hoạch của tỉnh. Trong quy hoạch của tỉnh cần cập nhật quy hoạch tổng thể quốc gia; Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10-2-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quy hoạch của tỉnh cần cập nhật được tình hình mới, tư duy mới, tầm nhìn mới, cách thức mới.

Nhắc tới mục tiêu của tỉnh đề ra đến năm 2030 trở thành trung tâm kinh tế công nghiệp và phát triển của khu vực trung du, miền núi phía Bắc, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn vẫn là trọng tâm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Theo báo cáo của tỉnh, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,8%GRDP, nếu lao động ở khu vực này không được chuyển dịch sang các lĩnh vực khác, vẫn chiểm tỷ trọng cao thì việc nâng cao thu nhập cho người dân sẽ rất chậm. Thái Nguyên cần đẩy mạnh hoạt động khởi nghiệp trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm), nhất là sản phẩm trà Thái Nguyên vốn là thương hiệu rất mạnh của tỉnh; xây dựng Đề án dịch chuyển lao động trong nông nghiệp để người dân “ly nông không ly hương”.

Cho rằng số lượng doanh nghiệp ở Thái Nguyên còn ít, Chủ tịch Quốc hội mong Thái Nguyên đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình gắn với các lĩnh vực là tiềm năng, thế mạnh của Thái Nguyên.

Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị Thái Nguyên tập trung toàn lực hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu kinh tế-xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; tiếp tục thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.

Về xây dựng Định Hóa thành huyện nông thôn mới, Chủ tịch Quốc hội bày tỏ vui mừng trước những tiến triển thuận lợi với sự hợp tác, hỗ trợ từ Văn phòng Quốc hội. Nhấn mạnh rằng xây dựng Định Hóa thành huyện nông thôn mới vừa là trách nhiệm, vừa là tình cảm của cả nước với Định Hóa, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các cơ quan hữu quan tiếp tục quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho Định Hóa nói riêng và Thái Nguyên nói chung trong thực hiện mục tiêu này.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ bày tỏ tin tưởng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên sẽ đoàn kết, chung sức, đồng lòng, xây dựng địa phương thành một trong những tỉnh giàu có và phồn thịnh nhất miền Bắc như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...