Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2018

Giá trị tư tưởng, lý luận và sức sống của chủ nghĩa Mác 

trong thời đại ngày nay

Cách đây 200 năm, ngày 5-5-1818, C.Mác - một nhân cách vĩ đại, nhà lý luận thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã chào đời tại Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ.
C.Mác nổi bật về trí thông minh và lòng vị tha, yêu thương con người; đức tính giản dị và tấm lòng nhiệt huyết; ý chí vươn lên và năng lực lao động phi thường; lòng can đảm và sự khoan dung, độ lượng. Cuộc đời và những di sản tư tưởng của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí kiệt xuất trong hàng ngũ những vĩ nhân. Đúng như Ph.Ăng-ghen khẳng định: “Tên tuổi Người, sự nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!”.
C.Mác đã để lại cho chúng ta một kho tàng tri thức đồ sộ và phong phú ở nhiều mặt, trên nhiều lĩnh vực như: triết học, xã hội học, kinh tế học, lịch sử, pháp lý, chính trị, v.v. Đó là kết quả của sự lao động quên mình, niềm say mê nghiên cứu khoa học, tiếp thu có phê phán, vượt qua cả những thiên tài xuất sắc trước Ông, kể từ thời cổ đại Hy Lạp cho đến thời đại Ông. Đó còn là kết quả của sự tổng kết thực tiễn và khái quát lý luận về phong trào công nhân châu Âu cực kỳ sôi động lúc bấy giờ. Nhưng trên hết và trước hết, đó là sự sáng tạo tuyệt vời của một bộ óc thiên tài, một bậc vĩ nhân, có ảnh hưởng to lớn nhất trong mọi thời đại của nhân loại.
1. Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, công lao to lớn và đầu tiên là ông đã xây dựng một thế giới quan và phương pháp luận mới, khoa học và cách mạng, đem lại cho nhân loại tiến bộ và nhất là cho giai cấp công nhân một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện, tích hợp và trình bày trong một hệ thống các quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, chứ không phải ngược lại; kinh tế, xét đến cùng, quyết định chính trị; sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nhờ vậy, lần đầu tiên nhân loại có một học thuyết phát triển tương đối hoàn chỉnh. C.Mác chỉ ra rằng, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội; phương thức sản xuất vật chất quyết định các lĩnh vực khác của đời sống xã hội và chính quần chúng nhân dân mới là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Chính thực tiễn của chủ nghĩa tư bản châu Âu đương thời đã được C.Mác mổ xẻ, phân tích, giải phẫu và minh chứng sâu sắc cho các quan điểm lý luận của mình.
2. Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã vạch ra những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, nhìn nhận chủ nghĩa tư bản trong cả quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của nó. Một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác là việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư được ví như “hòn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết của Mác. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật cơ bản, phổ biến của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính tư nhân tư bản chủ nghĩa của việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Để tồn tại và vượt qua các cuộc khủng hoảng, các cú sốc trong sự phát triển, chủ nghĩa tư bản luôn phải tự điều chỉnh để điều hòa mâu thuẫn này. Điều đó cho thấy, phát kiến vĩ đại của Mác luôn đúng, ngay cả khi chủ nghĩa tư bản hiện đại bước vào thời đại toàn cầu hóa và chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3. Với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã đặt nền móng vững chắc cho việc hiện thực hóa tư tưởng về chủ nghĩa xã hội khoa học - học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột và tha hóa. V.I.Lê-nin đã nhận định rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là soi sáng vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.
Nhờ có thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học, C.Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng thành công xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ cho giai cấp vô sản hiểu rõ rằng, trước hết họ phải tự mình vùng lên giải phóng khỏi ách thống trị của chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết xung quanh mình tất cả những người lao động. Đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới thì học thuyết của Mác là vũ khí lý luận, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột cũng như trong sự nghiệp xây dựng xã hội tương lai tươi đẹp.
Vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử cụ thể ở nước Nga trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, bước đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lê-nin đã bổ sung, phát triển, tạo nên giai đoạn Lê-nin trong sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và hình thành nên chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Với thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị - xã hội hiện thực; chủ nghĩa Mác từ một “bóng ma ám ảnh châu Âu” đã được hiện thực hóa trong phong trào công nhân, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của loài người, là chỗ dựa cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh tự giải phóng, xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Những thắng lợi to lớn của chủ nghĩa xã hội đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, học thuyết khoa học và cách mạng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành cách mạng thành công, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nỗ lực xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh đồng bộ công cuộc đổi mới, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc. Vị thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng cao. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, một lần nữa khẳng định sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tính đúng đắn của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của Mác cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã, đang và sẽ là ngọn đuốc dẫn đường cho cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Nhân Kỷ niệm 200 năm Ngày sinh của C.Mác, chúng ta bày tỏ tình cảm tri ân, sự kính trọng sâu sắc đối với C.Mác - nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại tiến bộ; đồng thời đây cũng là dịp để chúng ta đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, khẳng định giá trị lý luận trong di sản tư tưởng của C.Mác
Kể từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã trải qua hơn 170 năm. Thực tiễn đã có nhiều thay đổi; khoa học - kỹ thuật có những bước phát triển vượt bậc; phong trào công nhân trở nên rất đa dạng và có những thay đổi to lớn; chủ nghĩa tư bản với những thích nghi mới vẫn tồn tại, song những thách thức, khủng hoảng thuộc về bản chất nội tại của nó vẫn tiếp tục tiềm ẩn. Mặc dù các lực lượng thù địch dùng nhiều thủ đoạn chống phá, bôi nhọ, xuyên tạc, thậm chí tìm mọi cách phủ nhận, nhưng tư tưởng của Mác cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn phát triển, vẫn tràn đầy sức sống, vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hàng triệu người trên trái đất. Nhiều giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mang sức sống trường tồn vẫn tiếp tục tỏa sáng với chủ nghĩa nhân văn vì con người, với phương pháp biện chứng duy vật, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, học thuyết về chủ nghĩa xã hội v.v.
Với tinh thần khoa học và khách quan, chúng ta cần phải đặt mình trong bối cảnh lịch sử cụ thể thời Mác lúc bấy giờ để nhìn nhận, đánh giá đúng những luận điểm của học thuyết Mác. Trọng trách của chúng ta hiện nay là cần học tập tầm nhìn chiến lược, phương pháp tư duy và bản lĩnh của V.I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể, làm cơ sở để bổ sung, hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Chúng ta có sứ mạng tiếp tục lan tỏa học thuyết Mác trên tinh thần của một học thuyết phát triển, học thuyết cải tạo và thay đổi thế giới, học thuyết giải phóng con người, theo đó tư duy và định hình cho đường lối phát triển của chúng ta phù hợp với bối cảnh và điều kiện mới. Điều phải hết sức tránh là đánh giá học thuyết Mác một cách giáo điều, chung chung; đặc biệt, vững vàng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tiếp tục đấu tranh, bác bỏ những quan điểm sai trái, xuyên tạc học thuyết Mác - Lê-nin; vững tin vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng của C.Mác phù hợp thực tiễn Việt Nam
C.Mác là một thiên tài nhưng Ông vẫn bị quy định bởi chính những điều kiện lịch sử của thời đại mình. Chúng ta không thể đòi hỏi C.Mác suy nghĩ thay cho các thế hệ sau những vấn đề chưa đặt ra trong thời đại của Ông. Chính sự hình thành tư tưởng của C.Mác cũng là một quá trình phát triển từ tinh thần dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa; từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật biện chứng. Mỗi nguyên lý trong học thuyết của C.Mác cũng luôn được Ông bổ sung, phát triển bằng tổng kết thực tiễn phong trào công nhân và khái quát các thành tựu khoa học hiện đại. Sau này, V.I.Lê-nin, xuất phát từ những điều kiện thực tiễn cụ thể của thời đại mình đã bổ sung, phát triển lý luận của C.Mác. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những vận dụng hết sức sáng tạo và bổ sung nhiều luận điểm mới cho chủ nghĩa Mác phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn, để giải quyết một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giành độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiếp theo là cách mạng xã hội chủ nghĩa; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này nói lên rằng, nghiên cứu và vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng của C.Mác phải dựa trên tinh thần biện chứng chứ không được giáo điều, xơ cứng; phải linh hoạt, tùy từng điều kiện thực tiễn lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới đã chứng tỏ rằng: lúc nào, ở đâu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng đúng đắn, sáng tạo thì ở nơi đó, lúc đó cách mạng vượt qua được những thử thách để tiến lên. Ngược lại, ở đâu và lúc nào, các nguyên lý ấy bị hiểu sai, vận dụng máy móc giáo điều, xét lại, thì cách mạng gặp khó khăn, tổn thất, thậm chí thất bại.
Thứ ba, một số vấn đề do thực tiễn mới đặt ra cần được soi sáng bằng tư tưởng của C.Mác
Chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có tiến bộ hơn so với chính nó vào thời điểm mà C.Mác nghiên cứu nhưng vẫn có những khiếm khuyết nội tại không thể tự mình khắc phục. Bất bình đẳng xã hội vẫn tồn tại và ngày càng gay gắt ở ngay các nước tư bản giàu có; chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và đa số các nước đang phát triển ngày càng trầm trọng. Xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn xã hội vẫn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức lớn của nhân loại. Học giả Allen W. Wood thậm chí đã chỉ ra rằng: “Phần lớn mọi người đều cho rằng Mỹ là quốc gia giàu có nhất trên thế giới, nhưng đó cũng là quốc gia bất bình đẳng nhất trên thế giới: 400 người giàu nhất nước Mỹ sở hữu khối lượng tài sản cao hơn tổng số tài sản của 150 triệu người nghèo nhất. Những người giàu nhất chiếm 1% dân số nhưng lại sở hữu hơn 1/3 tổng lượng tài sản của toàn xã hội, vượt quá tổng lượng tài sản của những người có thu nhập thấp nhất nước Mỹ - đối tượng chiếm tới 95% dân số”(1)). Điều này càng chứng tỏ, lý luận của chủ nghĩa Mác về xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn luôn đúng và lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, thực tiễn.
Có ý kiến cho rằng, trong nền kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0, sứ mệnh lịch sử hiện nay không còn thuộc về giai cấp công nhân mà là thuộc về một số tầng lớp, giai cấp khác; thậm chí thuộc về người máy... Nhờ lý luận của C.Mác, chúng ta thấy rõ, dù nền sản xuất hiện đại được tự động hóa, nhưng xét về nội dung kinh tế thì giai cấp công nhân hiện đại vẫn là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội và là những người phải được hưởng thụ xứng đáng các thành quả phát triển. Xét về khía cạnh tư tưởng - chính trị thì chỉ có giai cấp công nhân mới tập hợp được các giai tầng lao động khác do Đảng cộng sản lãnh đạo để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do địa vị chính trị - xã hội của mình nên chỉ có giai cấp công nhân mới giải quyết được các vấn đề chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng xã hội mới. Xét về nội dung văn hóa - tư tưởng, chỉ có giai cấp công nhân mới là lực lượng xác lập được các hệ giá trị mới, như: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do... để thay thế cho hệ giá trị tư sản cũ. Do vậy, học thuyết của C.Mác và chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự.
Thực tế cho thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học - công nghệ đang đưa nhân loại tới những mô hình phát triển rất mới như Công nghiệp 4.0 hay Xã hội siêu thông minh 5.0 là phù hợp với học thuyết về sự thay thế, phát triển các hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác. Những mục tiêu mà các mô hình này đặt ra như: mang đến cho con người một cuộc sống tiện nghi, không phân biệt về tuổi tác, sức khỏe, giới tính, địa lý, ngôn ngữ; bảo đảm phát triển bao trùm và bền vững, không để một ai bị tụt lại phía sau; giải phóng và phát triển con người... cũng chính là luận điểm căn bản mà C.Mác đã tiên lượng trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” cách nay 170 năm, phù hợp với bản chất nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa thời đại của học thuyết Mác với những tiên lượng và giá trị trường tồn của nó, là luận cứ khoa học đầy sức thuyết phục, luôn thôi thúc chúng ta xây dựng khát vọng và tầm nhìn phát triển hướng tới một xã hội hiện đại, nhân văn, bao trùm và bền vững, vì con người, lấy con người làm trung tâm, do con người và giải phóng con người như một giá trị cốt lõi, phổ quát nhất của nhân loại.
C.Mác đã rời xa chúng ta và yên nghỉ tại nghĩa trang Hai-ghết, Luân Đôn (Anh) từ năm 1883, nhưng tư tưởng của Ông vẫn còn sống mãi với nhân loại, bởi bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của những di sản tư tưởng của Mác và chủ nghĩa Mác -Lê-nin vẫn hoàn toàn đúng đắn và hơn nữa, lại luôn được bổ sung, phát triển bởi những người mác-xít chân chính.
--------------
(1) Triết học và sự tham gia chính trị: Nhìn từ lĩnh vực công, do Allyn Fives và Keith Breen chủ biên, NXB Palgrave Macmillan, 2016 (theo nguồn phòng khai thác và phổ biến tin của Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
NGUYỄN XUÂN THẮNG Bí thư T.Ư Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn: http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/36301702-gia-tri-tu-tuong-ly-luan-va-suc-song-cua-chu-nghia-mac-trong-thoi-dai-ngay-nay.html

SỨC SỐNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Bất chấp mọi công kích, bôi nhọ, phê phán, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn vững vàng và phát huy vai trò trong thời đại mới. Càng trải qua khó khăn, chủ nghĩa Mác - Lênin  càng chứng tỏtính sáng tạo, tính thực tiễn cùng những giá trị tự thân. Lịch sử chứng kiến nhiều trào lưu tư tưởng trở nên lỗi thời cùng với sự thay đổi và phát triển của xã hội. Song,việc chủ nghĩa Mác không ngừng phát huy vai trò quan trọng của mình suốt từ thập niên 40 thế kỷ XIX cho đến ngày nay và tiếp tục khẳng định sức sống của mình lại là một điều rất đáng để nghiên cứu.
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin phải chăng đã lỗi thời?
Một số người cho rằng chủ nghĩa Mác -Lênin ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản giai đoạn đầu, vì vậy không còn phù hợp để lý giải chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao như ngày nay. Họ cho rằng tư tưởng của C.Mác do ra đời hơn 150 năm trước nên đã lỗi thời, lại càng không phù hợp với một nước phương Đông như Việt Nam. Song,điều mà những người cho rằng chủ nghĩa Mác đã lỗi thời chính là không thấy được C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ nêu lên các vấn đề của chủ nghĩa tư bản giai đoạn đầu, mà quan trọng hơn là tìm ra con đường xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ đi về đâu, từ đó phát hiện quy luật của xã hội tư bản cũng như quy luật của xã hội loài người nhằm mục đích giải phóng con người.
C.Mác và Ph.Ăngghen mang trong mình sứ mệnh giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, chính vì vậy mà tính khoa học là yêu cầu đầu tiên để thực hiện sứ mệnh này. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin không dừng lại ở biểu hiện của chủ nghĩa tư bản, mà thông qua các hiện tượng của chủ nghĩa tư bản để tìm ra bản chất và quy luật của xã hội tư bản. Chủ nghĩa tư bản giai đoạn đầu đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn xã hội, trong đó ẩn chứa quy luật và xu thế phát triển của chính chủ nghĩa tư bản.
Chúng ta có thể thấy được các giá trị đương đại của chủ nghĩa Mác - Lênin từ ba bộ phận cấu thành của nó. Ví dụ từ kinh tế chính trị học Mác - Lênin, lý luận về hàng hóa sức lao động, về giá trị thặng dư, về mẫu thuẫn giữa lao động và tư bản, mâu thuẫn giữa tính xã hội của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân,... không phải vì sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản mà mất đi tính khoa học và giá trị lý luận của chúng.
Từ góc độ chủ nghĩa xã hội khoa học, tinh thần nhân văn và tính hiện thực thể hiện rõ trong bước chuyển từ chủ nghĩa xã hội không tưởng sang khoa học. Bên cạnh đó là sự mô tả các đặc trưng của xã hội tương lai. Khi nêu các đặc trưng của xã hội tương lai, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh đến việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản, hình thành sở hữu công cộng, tuy nhiên, các ông cũng lưu ý rằng, không phải khi nào cũng xóa bỏ được chế độ tư hữu, nhất là lại xóa bỏ ngay lập tức. Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng,V.I.Lênin đã nêu lên 4 đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội: Tư liệu sản xuất không phải của riêng cá nhân, mà thuộc về toàn xã hội; Phân phối theo lao động; Không còn tình trạng người bóc lột người song còn chênh lệch về của cải; Nhà nước vẫn chưa tiêu vong hẳn. Tuy nhiên, sau khi thực sự bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã thận trọng hơn, ông viết: “Những viên gạch dùng để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chưa làm xong. Chúng ta không thể nói gì hơn và chúng ta cần phải hết sức thận trọng và chính xác... Hiện nay chúng ta không thể nêu lên đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, cho nên nêu lên nhiệm vụ đó là không đúng”(1). Về sau, V.I.Lênin đã thay đổi quan điểm của mình về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP).
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội cũng đã nhiều lần nhấn mạnh cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện xã hội. Người khẳng định: “Một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập”(2), “xây dựng chủ nghĩa xã hội là làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”(3), “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người... sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất”(4),v.v.. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của chủ nghĩa xã hội về phương diện kinh tế là làm cho cuộc sống ấm no, giàu có; về phương diện xã hội là làm cho người dân được sống trong công bằng, dân chủ, tự do.
Từ góc độ triết học thì triết học Mác-Lênin vẫn là một hệ thống đỉnh cao, bởi vì triết học Mác-Lênin đã nêu lên những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Một số người cho rằng triết học phản ánh tinh thần của một thời đại, là tinh tuý của tinh thần thời đại, vì vậy thời đại thay đổi thì cũng cần thay đổi triết học. Điều này mới nghe qua thì hợp lý, song thực tế lại có không ít sai lầm. Đúng là triết học là tinh tuý của tinh thần thời đại, song không có nghĩa thời đại thay đổi thì triết học được sinh ra trong thời đại đó mất đi giá trị của mình. Ví dụ như ở phương Tây là giá trị triết học Hy Lạp,La Mã cổ đại, truyền thống Ki Tô giáo, tinh thần Phục Hưng, phong trào Khai sáng Pháp, triết học cổ điển Đức,... hay ở phương Đông là tinh hoa của Phật, Lão, Nho,... Lịch sử biến thiên qua nhiều giai đoạn, song không vì thời đại thay đổi mà các học thuyết, hệ tư tưởng này mất đi tinh hoa, giá trị đối với nhân loại. Tương tự như vậy, so với thời của C.Mác hơn một thế kỷ trước, mặc dù đặc trưng thời đại, các vấn đề căn bản phải đối mặt của chúng ta ngày nay đã thay đổi, song điều đó hoàn toàn không làm lay chuyển sứ mệnh lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng ta dùng các cách thức khác nhau để thực hiện lý tưởng vĩ đại của loài người mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra. Thực tiễn xã hội ngày nay cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ không đưa ra được bất cứ bằng chứng xác thực nào để bác bỏ các nguyên lý căn bản của triết học Mác, vì vậy việc cho rằng thời đại thay đổi thì triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã lỗi thời là hoàn toàn sai lầm.
Có thể thấy rõ ràng là không phải học thuyết càng mới thì càng có giá trị. Một học thuyết trong lịch sử đối với đương thời có hay không có giá trị không phải chỗ học thuyết đó ra đời ở thời đại nào, mà căn bản nhất ở chỗ tự bản thân học thuyết đó có tính chân lý hay không?
Một điềukhông thể không nhắc đến là tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn khác với công nghệ, kỹ thuật hay công cụ sản xuất. Con người khi có công cụ sản xuất mới thì có thể không cần công cụ sản xuất cũ nữa, có kỹ thuật mới tiên tiến thì có thể thay thế kỹ thuật cũ lạc hậu. Song tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn thì lại khác: chỉ cần có tính chân lý hoặc mang lại trí tuệ cho con người thì những tri thức này có giá trị tồn tại. Tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn vì vậy mang đặc trưng tích lũy chứ không mang đặc trưng thay thế như kỹ thuật, công nghệ. Chính vì vậy mà có những học thuyết tồn tại hàng nghìn năm qua vẫn còn giá trị. Bản thân Ph.Ăngghen trong Biện chứng của tự nhiêncũng ca ngợi trí tuệ thiên tài của các nhà triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại cách thời của ông hơn 2000 năm. Các triết gia có thể chết, song tư tưởng của họ thì không chết. Chân lý thì không có cũ và mới, chỉ có sự đối lập giữa chân lý và sai lầm, có thể có những chân lý xưa cũ và có thể có những sai lầm mới nhất. Chính vì vậy mà giá trị của một học thuyết không thể đo bằng khoảng cách thời gian.
2. Giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới
Lý luận là màu xám, còn cây đời mãi xanh tươi. Linh hồn và sự sống của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là thế giới quan, phương pháp luận; là tinh thần phê phán, đổi mới và sáng tạo không ngừng; nguyên lý thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; mối quan hệ biện chứng giữa nền tảng kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng; chủ thể của lịch sử là quần chúng nhân dân; phản đối sự tha hóa của con người, chủ trương phát triển con người toàn diện, v.v.. Những nguyên lý này không chỉ đúng trong thế kỷ XIX hay thế kỷ XX mà còn đúng trong thế kỷ XXI và về sau nữa, vì đó là những quy luật khách quan trong xã hội có giai cấp. Chính vì vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải dựa trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác -Lênin, phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Thứ nhất, tính sáng tạo, bản chất phát triển liên tục của chủ nghĩa Mác - Lênin
Một số người phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ tập trung vào C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin mà tách rời hoặc đối lập các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin với những người phát triển về sau, muốn xóa bỏ toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong suốt hơn một thế kỷ qua để chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin là giáo điều, là xa rời thực tiễn. Sai lầm của quan điểm này là ở chỗ không nhận thức được tính sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà chính tính sáng tạo, khả năng phát triển liên tục này đã làm nên sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lênin là một chủ nghĩa phát triển và các thế hệ các nhà mácxít sau này đã kế thừa, phát triển. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ vận dụng tài tình chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, mà còn có cống hiến to lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do chủ nghĩa Mác - Lênin có bản chất sáng tạo, luôn phát triển nên nó không bị lỗi thời, lạc hậu.
Có một số người đặt vấn đề là nếu chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị, vậy phải liệt kê ra một danh mục các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin có tính phổ biến, tuyệt đối đúng trong mọi không gian, mọi thời gian, áp dụng được vào mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh, mà nếu không làm được như vậy thì rõ ràng chủ nghĩa Mác - Lênin không có giá trị. Quan điểm này rõ ràng sai lầm vì đã đi ngược lại chính tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh lý luận của mình không phải là một thứ giáo điều để tuyệt đối tuân thủ hoặc áp dụng một cách máy móc. Học thuyết mà các nhà kinh điển đưa ra không phải là một loại giáo lý tôn giáo, mà chính là phương pháp. Do đó, người mácxít chân chính bao giờ cũng gắn chặt lý luận với thực tiễn, dùng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là một công thức đơn giản để áp dụng trực tiếp, mà nó mang tinh thần phê phán, sáng tạo, thực tiễn, liên tục phát triển. Từ góc độ này thì chúng ta thấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý chính là nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Có một số người muốn biến lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thành một vài kết luận cụ thể để vận dụng, song cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh đến việc mỗi một vấn đề phải có các cách phân tích khác nhau, chứ không có một giáo điều lý luận để áp dụng cho mọi sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy mà việc một số người nhận thức thực tiễn không sâu sắc, áp dụng một cách cứng nhắc lý luận vào thực tiễn để rồi thấy không phù hợp, đòi vứt bỏ lý luận, vậy sự không phù hợp đó không phải là lỗi của lý luận, mà chính là do thiếu tính thực tiễn, tính khoa học của chủ thể hành động. Chính vì vậy mà việc dò từng câu, từng chữ trong kinh điển để mong tìm ra những viên ngọc làm bảo bối để giải quyết mọi vấn đề, không phải là phương pháp đúng đắn, cũng không phải là cách làm hiệu quả vì không xuất phát từ tính khoa học, tính thực tiễn, cũng như không phù hợp với thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ở đây có một điểm đáng lưu ý là cần phân biệt một vài luận điểm có thể đã lạc hậu trong các trước tác của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin với quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời. Chúng ta nhấn mạnh đến giá trị, vai trò và ý nghĩa hiện thời của chủ nghĩa Mác - Lênin, song không phủ nhận C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin rất có thể có một vài phân tích, phán đoán chưa đúng với thực tế hoặc không phù hợp với thời đại ngày nay. Chúng ta cần phân biệt rõ một vài phán đoán cụ thể của các nhà kinh điển với chỉnh thể hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin. Thêm nữa, bản thân trong các trước tác của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã không chỉ một lần dũng cảm phê phán một vài luận điểm trước đây của mình một cách thẳng thắn, chân thành. Sự phản tỉnh, tự phê của các nhà kinh điển đã thể hiện tinh thần khách quan, tính khoa học đáng quý, đồng thời cũng bảo vệ tính chân lý của chỉnh thể hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, con đường phát triển tất yếu lên chủ nghĩa xã hội
Trong lịch sử chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phê phán chủ nghĩa tư bản sâu sắc nhất, triệt để nhất. Sự vạch trần và phê phán đến tận cốt tủy này đã khiến chủ nghĩa tư bản sinh ra sự thù hận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng khiến chủ nghĩa tư bản không thể không tự sửa chữa những sai lầm của mình, mong muốn dùng các biện pháp cứu vãn như xây dựng nhà nước phúc lợi, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,... để điều hòa mâu thuẫn xã hội và mâu thuẫn giai cấp.
Có người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin không còn thích hợp trong thời đại toàn cầu hóa. Rõ ràng hiện nay chủ nghĩa tư bản chiếm địa vị chủ đạo trong quá trình toàn cầu hóa, song chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là công cụ lý luận để chúng ta nhận thức những biến động mới của chủ nghĩa tư bản. Sau khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở phương Tây, nhiều học giả trên thế giới đã phải tìm đọc lại bộ Tư bản. Mặc dù không có những dự báo cụ thể về những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, song C.Mác đã bàn đến vấn đề cốt lõi, đó chính là mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa lý luận sản xuất ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác -Lênin đã tạo ra sự phát triển mang tính bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Các phương diện triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học trong chủ nghĩa Mác - Lênin có những đóng góp vô cùng to lớn, thể hiện tập trung nhất ở tính khoa học của thế giới quan chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, của học thuyết về quy luật vận hành và mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản, của học thuyết về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội tư bản. Dù đã hơn 100 năm qua đi, song vẫn chưa có một hệ thống học thuyết nào có thể so sánh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì vậy, Jacques Derrida đã viết cuốn Những bóng ma của Mác(5), mô tả những con người trong xã hội hiện đại đều là những bóng ma đứng dưới cái bóng của C.Mác, ý nghĩa là chúng ta đều chịu ảnh hưởng của C.Mác, ngoài những người theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì bản thân những người phê phán C.Mác cũng gắn chặt với C.Mác, và ông cho rằng sẽ không thể có tương lai nếu không có các di sản của C.Mác.
Học giả người Anh Terry Eagleton trong cuốn sách Vì sao Mác đúng(6)đã nói, chủ nghĩa Mác giống như bác sĩ, khi mà cơ thể khỏe thì sẽ không để ý, song một khi chủ nghĩa tư bản gặp vấn đề nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác lại phát huy tác dụng phê phán vốn có của mình. Terry Eagleton nhấn mạnh,chủ nghĩa tư bản càng ổn định thì càng chứng minh những giá trị của chủ nghĩa Mác. Giá trị của chủ nghĩa Mác thể hiện ở bản chất sáng tạo, mỗi khi đối diện với thực tiễn mới, vấn đề mới thì lại có năng lực sáng tạo mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là một loại khoa học thực chứng, hay là một hệ thống tri thức cố định, mà là một hệ thống lý luận mang tính phê phán đối với các vấn đề trọng yếu của thời đại. Đây chính là nền tảng cho tính sáng tạo và tính thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những vấn đề đương thời của C.Mác có rất nhiều, trong đó nổi lên là vấn đề chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay, chính là phát huy sức mạnh động lực thị trường, đồng thời dùng giá trị ưu việt của chủ nghĩa xã hội để khống chế mặt trái của chính thị trường. Ở đây, chúng ta đã phát huy được những giá trị đương thời trong lập trường và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ ba, về vấn đề con người
Một số người mặc dù chưa bao giờ tiếp cận đến kho tàng tri thức đồ sộ của C.Mác, song vẫn mù quáng tuyên bố là C.Mác bỏ quên vấn đề quan trọng nhất của mọi vấn đề chính là con người. Song trên thực tế, con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục đích cao nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi các nhà kinh điển xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, về xã hội thì đã nghiên cứu, phân tích về con người hiện thực, về hoạt động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội. Trong tác phẩmHệ tư tưởng Đức,C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến điều này: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi, không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra”(7). Các ông cho rằng, lịch sử không phải lấy con người làm công cụ để đạt đến mục đích, mà con người sáng tạo ra lịch sử của mình, tạo ra hoàn cảnh hợp với bản chất của mình để phát triển, để hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân. Vì vậy,thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, đưa con người “từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”, thực sự giải phóng con người, phát triển con người một cách toàn diện. Có thể thấy rằng từ giai đoạn Phục Hưng, quan điểm lịch sử mang tính thần học đã bắt đầu chuyển sang quan điểm lịch sử mang tính nhân bản, tạo nên bước quá độ từ quan niệm thần thánh tạo ra lịch sử sang quan niệm con người tạo ra lịch sử. Song,C.Mác và Ph.Ăngghen không lấy quan điểm của chủ nghĩa nhân bản làm xuất phát điểm cho mình, hai ông đã không dừng lại ở việc trừu tượng hóa việc con người trở thành con người hiện thực, dừng lại ở tầng bậc ý chí, động cơ và hành vi cá nhân của con người, mà là thông qua hoạt động của con người, trong hoạt động của con người để tìm ra quy luật của lịch sử.
Những luận điểm khoa học mà C.Mác đưa ra là dựa trên nền tảng bình đẳng giữa người với người trong chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, với một xã hội mà nguyên tắc cơ bản là con người được tự do phát triển toàn diện bản thân mình. Những quan điểm này vẫn hoàn toàn phù hợp với xu hướng và trào lưu của thời đại ngày nay. Riêng đối với khoa học xã hội và nhân văn, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là hòn đá tảng, là nguồn lực vô tận cho quá trình nghiên cứu.
3. Yêu cầu kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin
Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng ta cần tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối tránh xu hướng xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất thiết phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làmnền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Những lý luận căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin như chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận giá trị lao động, học thuyết giá trị thặng dư, cách mạng xã hội chủ nghĩa, học thuyết chính đảng của giai cấp vô sản, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội,... đã phản ánh quy luật phát triển của xã hội loài người, quy luật của chủ nghĩa tư bản và quy luật cầm quyền của chính đảng của giai cấp vô sản. Chỉ cần không có thiên kiến, chỉ cần giữ thái độ khoa học, lập trường khách quan là có thể nhận thức được giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tuy nhiên, những năm vừa qua trong giới lý luận, khoa học và giáo dục ở nước ta, mặc dù chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được khẳng định là kim chỉ nam và nền tảng tư tưởng, song lại chưa được quan tâm đúng mức. Trong nghiên cứu lý luận, việc đi sâu, bổ sung và phát triển các nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa thực sự thỏa đáng. Việc giảng dạy các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường đại học, thậm chí ở một số trường đảng các địa phương nhìn chung vẫn còn hiện tượng đơn giản hóa, mới dừng lại ở một số khái niệm cơ bản chứ chưa động chạm nhiều đến cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong một số bộ ngành, một số người dường như còn cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, hiện nay chỉ cần tập trung vào vấn đề thực tiễn chứ không cần lý luận. Cách nhìn nhận này một mặt không đúng với những giá trị thực tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, mặt khác mang lại xu hướng hoài nghi đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên tâm lý lo lắng về tính chính đáng, tính hợp pháp, sự tất yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin. Không thể không đặt câu hỏi nếu như trong bản thân đội ngũ lý luận, các nhà khoa học, các nhà giáo dục mà có bộ phận còn không tuyệt đối tin tưởng ở chủ nghĩa Mác - Lênin thì làm thế nào để người dân tin theo, huống hồ là để phản bác, phê phán lại các quan điểm sai trái của thế lực thù địch, để làm rõ phải trái, đúng sai, lấy đó làm mực thước, tiêu chuẩn cho xã hội? Bản thân việc xem nhẹ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ dẫn đến việc biến chủ nghĩa Mác - Lênin từ một thế giới quan và phương pháp luận khoa học trở thành một số khái niệm khô cứng, nghĩa là giáo điều hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, gây ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam ngày nay.
Như vậy, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin không thể tách rời việc nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc chỉ dừng lại ở các khái niệm, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà không đi sâu nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo trong bối cảnh mới của đất nước thì vừa xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa không có tư tưởng chỉ đạo trong xây dựng và phát triển đất nước. Học giả Mỹ Douglas Kellner(8)đã chia chủ nghĩa Mác thành 3 tầng bậc khác nhau: đầu tiênlà phương pháp (ví dụ như phép biện chứng, phương pháp phân tích lịch sử, phương pháp phân tích giai cấp,...), những phương pháp này chiếm địa vị cao nhất, cũng là quan trọng nhất trong chủ nghĩa Mác; thứ hailà những nguyên lý và quan điểm cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác (ví dụ lý luận sản xuất vật chất, lý luận giá trị thặng dư,...), những lý luận này đặc biệt quan trọng, về mặt giá trị chỉ thua kém phương pháp; cuối cùng là một số lý luận và khái niệm cụ thể (ví dụ lý luận chủ thể cách mạng, khái niệm giai cấp vô sản, khái niệm cách mạng,...), những khái niệm này phát triển không ngừng tùy thuộc vào bối cảnh thời đại và những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Sự phân chia như thế này có giá trị tham khảo nhất định trong việc phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay. Chúng ta không nên chỉ dừng ở các khái niệm và nguyên lý cụ thể, mà càng cần hơn là nắm bắt, quán triệt các nguyên lý căn bản và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình mẫu tiêu biểu cho việc thông hiểu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp tình hình thực tiễn Việt Nam. Ngoài việc có nền tảng văn hóa Việt Nam, kế thừa các giá trị văn minh nhân loại thì việc Người học tập, vận dụng thành công chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những nguyên nhân chính để chỉ đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 
Chủ nghĩa Mác -Lênin là học thuyết khoa học, cách mạng và sáng tạo. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu mà sớm muộncác dân tộc trên thế giới sẽ đi tới. Mục tiêu ấy không thể ngày một, ngày hai hoàn thành được. Nó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, trong đó có sự tham gia tích cực của các nhà lý luận mácxít dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin. Chúng ta cần phải học tập, đi sâu phân tích, vận dụng sáng tạo và phát triển phương pháp, nguyên lý và những giá trị tinh túy của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
_____________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2017
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.82-83.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000, t.9, tr.476.
(3) Sđd, Hồ Chí Minh, t.9, tr.447.
(4) Sđd, Hồ Chí Minh, t.1, tr.461.
(5) Tham khảo Giắccơ Đêriđa, Những bóng ma của C.Mác(Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994.
(6) Terry Eagleton: Why Marx Was Right, Yale University Press, April, 2011.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.28-29.

GS, TS Nguyễn Quang Thuấn
Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2112-suc-song-cua-chu-nghia-mac-lenin-trong-thoi-dai-moi.html
DI SẢN TƯ TƯỞNG CỦA CÁC MÁC TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới đang long trọng kỷ niệm 200 năm Ngày sinh của C.Mác (5/5/1818 - 5/5/2018) - nhà tư tưởng vĩ đại, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. 
Sinh ngày 5/5/1818 ở Vương quốc Phổ, ngay từ nhỏ C.Mác đã nhận được sự giáo dục đầy tính nhân đạo của cha mình - ông Hen-rích Mác - một nhà luật học có tài, am hiểu sâu sắc tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp. Ảnh hưởng của gia đình, của các mối quan hệ tiến bộ trong xã hội đã sớm hình thành ở C.Mác hướng đi của cuộc đời.
Năm 17 tuổi, khi còn là học sinh trung học, trong luận văn tốt nghiệp về "Suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề", C.Mác đã viết: "Lịch sử gọi những con người tự làm cho mình trở nên cao quý bằng việc cống hiến cho sự nghiệp chung, là những con người vĩ đại; kinh nghiệm ca ngợi con người đem lại hạnh phúc cho hầu hết mọi người, là con người hạnh phúc nhất"(1). Ngay từ thời gian này, C.Mác đã bộc lộ khát vọng muốn phục vụ nhân loại, muốn có cuộc sống sao cho xứng đáng với cuộc sống của một con người chân chính nhất. Theo Ông, "Nếu một người chỉ lao động vì mình thôi, thì người đó có thể trở nên một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái lớn, một nhà thơ tuyệt vời, nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con người thật sự hoàn thiện..."(2); còn, "nếu chúng ta chọn được một nghề mà chúng ta có thể cống hiến nhiều nhất cho nhân loại, thì chúng ta sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy"(3); hạnh phúc của chúng ta sẽ được nhân lên gấp bội vì nó không chỉ là của chúng ta nữa mà nó thuộc về hàng triệu người...
Là người luôn quan tâm đến con cái, ông Hen-rích Mác sớm nhận thấy năng lực và hướng đi của con mình. Ông đã linh tính, C.Mác không chỉ sống một cuộc sống dài cho hạnh phúc của cá nhân và của gia đình, mà "còn cho hạnh phúc của nhân loại" (4).
Thực vậy, cuộc đời của C.Mác đầy gian khổ nhưng những phát minh của Ông đã đem lại bước phát triển nhảy vọt đối với nhận thức về lịch sử nhân loại, về xã hội và đã đem lại những thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giải phóng con người. Ðể rồi, sự ra đi của C.Mác "là một tổn thất không sao lường hết được đối với giai cấp vô sản..., đối với khoa học lịch sử" (5).
Sự nghiệp chân chính của C.Mác là đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân làm thuê khỏi xiềng xích của hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại. Từ trước tới nay chưa có một chiến sĩ nào đấu tranh tích cực hơn C.Mác. Nhờ những hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn của C.Mác mà chúng ta có được như ngày hôm nay, có được tất cả những gì giờ đây phong trào hiện đại đã đạt được(6).
Khái quát những thành tựu vĩ đại mà C.Mác cống hiến cho giai cấp vô sản và nhân loại, người suốt đời cộng tác với Ông, Ph.Ăng-ghen đánh giá: "Giống như Ðác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người... Nhưng không phải chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong bóng tối" (7). "Người nào mà có được một phát minh như vậy thì hẳn là đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng, Mác đã có những phát minh khác hẳn nhau trong mỗi lĩnh vực mà Ông đã nghiên cứu... Bằng cách này hay cách khác, tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà Ông là người đầu tiên đã đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện để giải phóng mình - đó thật sự là sứ mệnh thiết thân của Ông"(8).
Trọn đời vì lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng loài người thoát khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công và mọi sự tha hóa, C.Mác đã để lại cho nhân loại một di sản tư tưởng đồ sộ, sâu sắc. Song đúng như Ph.Ăng-ghen đánh giá, trong những thành tựu của C.Mác có ba thành tựu có thể coi là ba phát minh vĩ đại mà Ông để lại cho chúng ta và thế hệ mai sau là: Tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người; tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra - quy luật giá trị thặng dư; tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Thứ nhất, tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Ðây là một trong hai phát minh vạch thời đại của C.Mác như Ph.Ăng-ghen tổng kết.
Ðể đi tới phát minh vĩ đại này, C.Mác đã tiến hành phê phán và cải tạo căn bản phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoi-ơ-bắc; đồng thời kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại trước đó, xây dựng nên một triết học mới - triết học duy vật biện chứng, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ, đồng thời khẳng định triết học phải lấy sinh khí của mình từ thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà còn phải cải tạo thế giới.
Trên quan điểm đó, khi nghiên cứu lịch sử xã hội, C.Mác xuất phát từ con người hiện thực vì theo Ông, xã hội muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải có con người sống. Song, con người muốn sống phải có lương thực, thực phẩm và những tư liệu sinh hoạt khác. Những thứ đó giới tự nhiên không ban được cho con người mà con người phải lao động sản xuất để tạo ra nó. Sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người, của xã hội; là hành vi lịch sử đầu tiên, là điều kiện cơ bản của mọi lịch sử. Do đó để hiểu được con người, C.Mác đã đi sâu nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất của con người trong xã hội, nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất con người, trong tính hiện thực của nó, "bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội" (9). C.Mác khẳng định, lịch sử chính là lịch sử hoạt động của những con người hiện thực, nó không phải là thần bí, tự phát mà hoàn toàn có thể nhận thức được. Lịch sử vận động một cách có quy luật, dựa trên những tiền đề hiện thực, đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bằng cách đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng triệt để trong triết học, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người.
Với việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội đã được C.Mác tìm ra là: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở kinh tế xã hội quyết định kiến trúc thượng tầng của xã hội; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội; sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội như là một quá trình lịch sử - tự nhiên,…
V.I.Lê-nin đánh giá: "Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn" (10).
Thứ hai, tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra - quy luật giá trị thặng dư
Quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên nên khi nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng "quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng là một hình thái lịch sử nhất định của quá trình sản xuất xã hội" (11). Thực chất, đó là quá trình "sản xuất ra giá trị thặng dư đó - là mục đích trực tiếp và là động cơ quyết định của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa" (12); nó phản ánh quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê và nó cũng là cơ sở của sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính điều này, theo C.Mác đã dẫn đến sự tha hóa của lao động, tha hóa con người(13).
Với việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học. Ông không chỉ phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa – quy luật quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản, mà qua đó còn vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, bác bỏ những luận điệu về "tự nguyện", "công bằng" trong quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân; chỉ rõ những mâu thuẫn không thể giải quyết được của xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa tính xã hội ngày càng phát triển của lực lượng sản xuất với tính tư nhân trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giữa giai cấp công nhân với những nhà tư bản, giữa những nhà tư bản với nhau trong quá trình cạnh tranh để đạt giá trị thăng dư tối đa, v.v.
Ngày nay, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những hình thức biểu hiện mới khác với hồi cuối thế kỷ XIX, song quy luật giá trị thặng dư do C.Mác tìm ra vẫn là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nhận thức sâu sắc, toàn diện về những phương thức mà các nhà tư bản đã và đang sử dụng để bóc lột công nhân trong nền kinh tế tri thức với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
Trước C.Mác, nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến giai cấp vô sản, song, do điều kiện về lịch sử "những người đó lại không nhận thấy, ở phía giai cấp vô sản, một tính chủ động lịch sử nào, một cuộc vận động chính trị nào của bản thân giai cấp vô sản cả" (14), "họ càng không thấy những điều kiện vật chất cần cho sự giải phóng của giai cấp vô sản" (15). "Ðối với họ, giai cấp vô sản chỉ tồn tại với tư cách là giai cấp đau khổ nhất" (16).
Trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã tạo nên các quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản, C.Mác đã làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; giai cấp có đủ điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của mình, có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện sứ mệnh giải phóng chính bản thân mình tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu và hình thành luận thuyết của C.Mác, nó phản ánh một cách đầy đủ nhất nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mà Ông phát hiện ra.
V.I.Lê-nin đánh giá: "Ðiểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa" (17). Trải qua thử thách của thời gian và kiểm nghiệm của thực tiễn, cho đến nay, phát minh vĩ đại của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản gắn liền với vai trò của Ðảng Cộng sản còn nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng với chủ nghĩa tư bản, với những điều kiện xã hội hạ thấp, làm hư hỏng con người, là phương tiện mạnh mẽ để con người cải biến hiện thực vì lợi ích của con người.
Cùng với những thành tựu, phát minh vĩ đại, suốt cuộc đời nghiên cứu khoa học và hoạt động cách mạng, C.Mác cùng Ph.Ăng-ghen xây dựng nên chủ nghĩa Mác, một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, bao gồm triết học Mác-xít, kinh tế chính trị học Mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ðây là những cơ sở lý luận khoa học, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh tự giải phóng và giải phóng nhân loại của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Cho đến nay chưa có học thuyết nào thể hiện một cách khoa học, chặt chẽ, rõ ràng về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng con người như học thuyết Mác.
Học thuyết Mác, chủ nghĩa Mác được V.I.Lê-nin kế thừa, bổ sung và phát triển, trở thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác được V.I.Lê-nin vận dụng sáng tạo để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản thế giới trong tình hình mới đã đem lại sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và một hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của thế giới hiện đại và của xã hội loài người. Ðiều đó càng làm cho giá trị của học thuyết Mác, chủ nghĩa Mác cũng như công lao, phát kiến của C.Mác thêm tỏa sáng.
Thời gian càng lùi xa, nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của C.Mác chúng ta càng thấy rõ, Ông không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, đã giải đáp được các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên, mà còn là vị lãnh tụ thiên tài, một người bạn, một người đồng chí chân thành, chung thủy, một mẫu mực về đạo đức cách mạng hết sức cao đẹp, luôn lấy đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân loại làm lẽ sống, lý tưởng và sứ mệnh của cả cuộc đời.
Ðối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin có ý nghĩa rất sâu sắc.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa của thực dân Pháp. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, quyết không cam chịu nỗi tủi nhục của người dân mất nước, nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào yêu nước và nhiều xu hướng giải phóng dân tộc đã diễn ra, nhưng tất cả đều thất bại hoặc không thu được thắng lợi cuối cùng, bởi thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn để tập hợp, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Người đã tìm thấy ở đó những nội dung cơ bản của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc đã tồn tại trong nhiều thập kỷ.
Kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với chủ nghĩa yêu nước, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập nên Ðảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1930 đến nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại và đang vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi vĩ đại mà Ðảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam giành được trong 88 năm qua, đặc biệt là trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và hơn 30 năm đổi mới đất nước là minh chứng sinh động, khẳng định sự đúng đắn, giá trị, ý nghĩa to lớn và sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà C.Mác là một trong những lãnh tụ đầu tiên sáng lập.
Hơn một thế kỷ qua, từ khi hình thành, xác lập đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trải qua nhiều giai đoạn thử thách, nhiều lần bị các trào lưu tư tưởng đối lập phê phán, nhất là từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Ðông Âu sụp đổ, các hoạt động bài xích, xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa cũng như công lao, cống hiến của C.Mác càng gia tăng và được thực hiện dưới nhiều chiêu bài tinh vi, xảo quyệt. Nhưng với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn khẳng định được giá trị to lớn, sức sống bền vững và ý nghĩa thời đại. Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học luôn lôi cuốn hàng triệu triệu trái tim, khối óc của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Những nhân tố của chủ nghĩa xã hội vẫn đang nảy sinh và phát triển ngay trong lòng nhiều nước tư bản. Dù tình hình thế giới có xảy ra nhiều biến cố, thăng trầm, nhưng vẫn không đi ngoài những quy luật phổ biến đã được C.Mác tổng kết. Một khi xã hội còn giai cấp, đối kháng giai cấp thì chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là kim chỉ nam, định hướng cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Thấm nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau" (18), Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; "Ðảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,..."(19). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ðảng luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, với sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bị áp bức và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Song, từ bài học thành công, thất bại của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tích cực đổi mới tư duy lý luận, nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ thống mở, vì vậy cần phải chú trọng vận dụng sáng tạo và không ngừng bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại, như C.Mác và Ph.Ăng-ghen thường nhắc nhở: Bất cứ ở đâu, bất cứ vào lúc nào thì việc vận dụng tư tưởng trong học thuyết của các Ông cũng phải căn cứ vào bối cảnh cụ thể của xã hội đương thời(20). Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước (1986 - 2016), bài học đầu tiên trong 5 bài học mà Ðảng Cộng sản Việt Nam rút ra là: "Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam"(21). Nghị quyết Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Ðảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,... đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,... Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước"(22). Ðó chính là tinh thần cách mạng, khoa học của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Trân trọng giá trị và ý nghĩa lớn lao của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cùng với giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam, những người cộng sản Việt Nam tự hào và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với C.Mác, nhà tư tưởng vĩ đại, vị lãnh tụ thiên tài của mình - Người đã đặt nền móng và định hướng phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tư tưởng của C.Mác đã trở thành nội dung cốt lõi, là thế giới quan khoa học, phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo thế giới. Di sản của Ông đã và đang định hướng cho con người nhận thức và giải quyết những vấn đề hết sức phức tạp trong cuộc sống đa dạng, đầy biến động của thế giới hiện nay.
Kỷ niệm 200 năm Ngày sinh C.Mác là dịp để chúng ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn vinh và tri ân một con người đã cống hiến cả cuộc đời cho một xã hội mà ở đó "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Ðây cũng là dịp để một lần nữa chúng ta nhìn nhận lại giá trị những di sản tư tưởng của Ông, phương pháp vận dụng những di sản ấy vào hoạt động của mỗi đảng, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trong sự phân cực, đa phương, đa chiều, đầy biến động của thế giới hiện nay; đồng thời đấu tranh, phản bác những luận điệu, quan điểm sai trái, phủ định giá trị, sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và công lao, cống hiến vĩ đại của C.Mác đối với nhân loại, để cùng nhau xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp.
--------------------
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, bản tiếng Ðức, t.1 bổ sung, tr.594// Trích lại từ: H.Ghem-cốp: Cuộc đời của chúng tôi - Tiểu sử của C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.8.
(2) Viện Mác - Lê-nin thuộc Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô: Các Mác - Tiểu sử, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, t.1, tr.37.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, bản tiếng Ðức, t.1 bổ sung, tr.594// Trích lại từ: H.Ghem-cốp: Cuộc đời của chúng tôi - Tiểu sử của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.8.
(4) Viện Mác - Lê-nin thuộc Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô: Các Mác - Tiểu sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, t.1, tr.38.
(5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.499.
(6) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.497- 499; 1998, t.35, tr.606.
(7) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.499 - 500.
(8) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.500 - 501.
(9) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.3, tr.11.
(10) V.I.Lê-nin, Sđd, t. 23, tr.53.
(11) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.25, phần II, tr.542.
(12) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.25, phần I, tr.370.
(13) Xem: C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.131 - 132.
(14) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.640.
(15) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.640.
(16) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.640.
(17) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.23, tr.1.
(18) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.613.
(19) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.
(20) Xem: C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.18, tr.128.
(21) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Ðảng, Hà Nội 2016, tr.69.
(22) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Ðảng, Hà Nội 2016, tr.199 - 201.

VÕ VĂN THƯỞNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư.


Nguồn: http://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/di-san-tu-tuong-cua-cac-mac-trong-thoi-dai-ngay-nay-482478.html

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...