Thứ Ba, 13 tháng 10, 2020

Thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự trong tình hình mới


Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển tất yếu của dân tộc - bài học truyền thống quý báu của tổ tiên ta trong lịch sử. Tuân thủ quy luật và kế thừa bài học truyền thống đó, Đảng ta đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó bảo vệ Tổ quốc là điều kiện, tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước nhanh, bền vững. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, văn bản làm cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là một trong hai chiến lược cơ bản, quan trọng hàng đầu của đất nước, đồng thời là chiến lược quốc gia bao trùm, văn bản pháp lý nền tảng mang tính chỉ đạo chiến lược đối với việc xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược chuyên ngành1.

 Cụ thể hóa Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Bộ Chính trị (khóa XII) đã thông qua và ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 về Chiến lược quốc phòng Việt Nam; Kết luận số 31-KL/TW, ngày 16/4/2018 về Chiến lược quân sự Việt Nam. Việc ban hành nghị quyết, kết luận về Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự nhằm tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán về nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là bước phát triển mới về tư duy, nhận thức của Đảng đối với công cuộc bảo vệ đất nước.

Chiến lược quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược; mang tính chất hoà bình tự vệ, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; trong đó, đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội nhân dân; xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Chiến lược quân sự Việt Nam là nội dung nòng cốt, cụ thể hóa Chiến lược quốc phòng Việt Nam, là nghệ thuật sử dụng sức mạnh quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; bộ phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam; chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược hoạch định trên nền tảng của nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân...

Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành hệ thống chiến lược nhằm mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống và sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược. Trong đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là chiến lược tổng thể quốc gia mang tính bao trùm, giữ vai trò chỉ đạo toàn diện hai chiến lược còn lại; Chiến lược quốc phòng và Chiến lược quân sự là hai chiến lược quốc gia chuyên ngành, hiện thực hóa và phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

Triển khai thực hiện các chiến lược, thời gian qua, Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội đã tổ chức quán triệt, thực hiện đồng bộ, quyết liệt giải pháp đưa nội dung các chiến lược vào hoạt động thực tiễn, nâng cao ý thức, trách nhiệm của toàn dân trong bảo vệ Tổ quốc, tập trung xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng, nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự, triển khai chiến lược quốc phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng và đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ôn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo, chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn; cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp; đặc biệt, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc, toàn diện tới Việt Nam. Trong nước, thế, lực và sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện hơn. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả hơn nữa các chiến lược trên, trong đó, tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Trước hết, chúng ta phải thấy rằng, nhận thức đúng thì hành động sẽ khoa học, hiệu quả; trách nhiệm tốt thì kết quả bảo vệ Tổ quốc sẽ cao; đồng thời, tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã dạy: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”2. Các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cả hệ thống chính trị và toàn dân nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của đất nước, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải toàn diện, song cần tập trung cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm, phương thức, nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp của các chiến lược làm cơ sở để vận dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Trên cơ sở nhận thức đúng, làm cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và toàn dân nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây chính là thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy”. Đồng thời, nhận thức được mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhiệm vụ của cách mạng, đất nước, Quân đội; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,… từ đó, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, trách nhiệm đối với sự nghiệp giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ địa bàn và chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

Tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, phát huy sức mạnh của hệ thống cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình từ Trung ương tới cơ sở; đẩy mạnh tuyên truyền trong hệ thống học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội cùng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương; coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, làm cơ sở để đội ngũ này tuyên truyền, giáo dục cho toàn dân. Cùng với đó, cần tích cực đấu tranh với những tư tưởng, nhận thức lệch lạc, coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là tư tưởng cho rằng trong thời bình không cần xây dựng lực lượng vũ trang, Quân đội, nền quốc phòng toàn dân, gây tốn kém cho nền kinh tế đất nước,… dẫn đến mất cảnh giác, mắc mưu các thế lực thù địch, phản động.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong thực hiện các chiến lược.

Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của các chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cấp ủy, người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương và cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chiến lược, nhằm đạt được mục tiêu đề ra là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cần chú trọng quán triệt, vận dụng đúng đắn mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá và tư tưởng chỉ đạo, phương châm, nguyên tắc, phương thức tiến hành các chiến lược vào nghị quyết lãnh đạo nhiệm kỳ và hằng năm bảo đảm phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị mình làm cơ sở để tổ chức thực hiện. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị, Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22/02/2019 của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ; Luật quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng, Luật giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật nghĩa vụ quân sự... Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về quốc phòng, bảo đảm các hoạt động quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đúng phương hướng chính trị của đất nước, theo tư duy, nhận thức mới của Đảng, đúng pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế và đạt hiệu quả thiết thực. Tiếp tục hoàn thiện vả tổ chức thực hiện có chiều sâu các cơ chế, quy chế, thông tư, văn bản, hướng dẫn, quy định dưới luật, nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong thực tiễn, bảo đảm cho nội dung của các chiến lược đi vào cuộc sống, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn, Tổ quốc trong mọi tình huống.

Ba là, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội nhân dân trong tổ chức thực hiện các chiến lược.

Công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và Quân đội là lực lượng chủ yếu, trực tiếp. Trong bối cảnh tình hình an ninh chính trị thế giới, khu vực diễn biến phức tạp hiện nay, nhất là việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông, cùng sự chống phá quyết liệt của cả các thế lực thù địch, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là Quân đội nhân dân. Trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ, Quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc nội dung các chiến lược, phối hợp với các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, trong nước, dự báo chính xác xu hướng vận động, phát triển của tình hình, tham mưu cho Đảng, Nhà nước các đối sách, giải pháp chiến lược, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của các chiến lược đề ra; xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Trong đó, tập trung vào những khu vực, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh, nhất là khu vực biên giới, biển, đảo. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là cơ quan quân sự các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng khu vực phòng thủ, xác định các biện pháp giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn.

Trong giai đoạn hiện nay, các đảng bộ trực thuộc Trung ương đang tiến hành đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025, tiến tới Đại hội XIII của Đảng, toàn quân cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp sẵn sàng chiến đấu; tiếp tục rà soát quyết tâm, phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến chiến đấu, phòng, chống cháy nổ, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng xử lý thắng lợi các tình huống. Đặc biệt, cần tập trung xây dựng, tổ chức luyện tập chặt chẽ, nghiêm túc phương án, kế hoạch bảo vệ Đại hội Đảng các cấp, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an theo Nghị định 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ về phối hợp giữa Công an và Quân đội trong bảo vệ an ninh quốc gia,… quyết tâm bảo vệ an toàn tuyện đối đại hội đảng các cấp - nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong năm của Đảng, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang và toàn dân. Toàn quân đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phát hiện, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp tục tổ chức xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số lực lượng được đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, đảm bảo cho Quân đội ta có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, đúng chủ trương tinh, gọn bộ máy của Trung ương, phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Bốn là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, do vậy, chúng ta cần chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Thông qua tổng kết thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần bổ sung, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn, phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở đó quay trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả thiết thực. Đối với Chiến lược bảo vệ Tô quốc, Trung ương đã tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị Quyết Trung ương 8 (khóa IX) từ 2003 - 2013 và ban hành Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), tới đây, chúng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về vấn đề này. Đối với Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, đây là hai chiến lược mới nên các cơ quan tham mưu chiến lược của Bộ Quốc phòng, nhất là Viện Chiến lược Quốc phòng, Cục Tác chiến, Cục Dân quân tự vệ,... chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong toàn quân, cơ quan quân sự các cấp tham mưu cho các bộ, ngành, địa phương, tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng hằng năm và cả giai đoạn, làm cơ sở để Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước tổ chức tổng kết thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng về các chiến lược ở cấp Trung ương. Nội dung tổng kết toàn diện, trong đó tập trung vào nhận thức, tư duy về bảo vệ Tổ quốc; hoạt động quân sự, quốc phòng; xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân; nghệ thuật quân sự; đối tượng, đối tác, v.v. Trong quá trình thực hiện, chú ý tính toàn diện, sâu sắc, nghiêm túc; đánh giá trung thực, khách quan; chỉ rõ kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, làm cơ sở điều chỉnh mục tiêu, yêu cầu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá cho giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.

Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự là kế sách, mưu lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; là kết tinh truyền thống dân tộc với ý Đảng, lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chiến lược này là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang trước Tổ quốc; góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/thuc-hien-chien-luoc-bao-ve-to-quoc-chien-luoc-quoc-phong-chien-luoc-quan-su-trong-tinh-hinh-moi/16086.html

QUÂN ĐỘI ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN PHÒNG, CHỐNG ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHIA RẼ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

 


Công tác dân vận của Quân đội có vai trò rất quan trọng, đã và đang thực hiện có hiệu quả, tạo thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững “thế trận lòng dân”, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống; có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận, cấp đăng ký hoạt động; trong đó, có 06 tôn giáo lớn (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo). Tính đến tháng 9/2019, Việt Nam có 25,1 triệu tín đồ tôn giáo (55.710 chức sắc, 145.721 chức việc), chiếm 27% dân số. Nhìn chung, các tôn giáo, dân tộc sống đoàn kết, hòa thuận, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển.

Thế nhưng, với mưu đồ đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, gia tăng các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vu cáo chính quyền đàn áp, phân biệt, đối xử với người dân tộc thiểu số và người theo các tôn giáo. Chúng thường xuyên truyền bá tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, kích động tư tưởng ly khai, lôi kéo, tập hợp lực lượng tạo dựng ngọn cờ chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Gần đây, lợi dụng các vấn đề về lịch sử đất đai của tôn giáo và của người dân tộc thiểu số, cùng những sơ hở, thiếu sót của một số cán bộ, chính quyền cơ sở trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, họ kích động, xúi giục, lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo tập trung đông người, bạo loạn,... gây mất ổn định chính trị, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, hòng tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp, tiến tới đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã trung thành, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về công tác dân vận, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác dân vận một cách toàn diện, tích cực, với nhiều nội dung, hình thức sáng tạo, hiệu quả1. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc, tôn giáo hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tích cực, chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, tuyên truyền, vận động nhân dân nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quân đội đã chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo; chỉ đạo các đoàn kinh tế - quốc phòng chủ động phối hợp với địa phương bố trí, sắp xếp ổn định dân cư trên địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,… tạo ra “lá chắn thép” bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc. Các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, kịp thời phát hiện những cá nhân, tổ chức phản động người dân tộc thiểu số có liên quan đến hoạt động tôn giáo ở nước ngoài; cùng với Công an phát động phong trào quần chúng đấu tranh vạch mặt những đối tượng phản động, đội lốt tôn giáo để hoạt động chống phá và vận động nhân dân tố giác tội phạm truyền đạo trái pháp luật. Đồng thời, phát huy tốt vai trò của lực lượng nòng cốt trong đấu tranh phòng, chống, vạch trần âm mưu, thủ đoạn chia rẽ lương - giáo, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; phát hiện, ngăn chặn và xử lý kiên quyết, kịp thời các hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống đồng bào, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc, tôn giáo ở một số nơi chưa thường xuyên và chưa có nhiều cách làm sáng tạo. Hoạt động phối hợp, tham mưu của một số đơn vị với cấp ủy, chính quyền địa phương trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở hiệu quả chưa cao; kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp nắm, xử lý và đấu tranh ngăn chặn hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số cơ quan, đơn vị có lúc, có nơi chưa kịp thời.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi; trong đó, chúng triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta. Điều đó đặt ra công tác dân vận của Quân đội tiếp tục đổi mới, nâng cao và thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số nội dung, giải pháp cơ bản sau:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ đối với công tác dân vận của Quân đội, kịp thời đấu tranh trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn quân tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác dân tộc, tôn giáo, trọng tâm là: Kết luận số 44-KL/TW, ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới; Chỉ thị số 1006-CT/QUTW, ngày 27/9/2019 của Quân ủy Trung ương về tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội thực hiện công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị số 168-CT/QUTW, ngày 08/02/2020 của Quân ủy Trung ương về công tác dân vận của Quân đội trên địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; Chỉ thị số 472-CT/QUTW, ngày 21/5/2020 của Quân ủy Trung ương về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các đoàn kinh tế - quốc phòng trong tình hình mới, v.v. Đồng thời, bám sát đặc điểm địa bàn, tình hình chống phá của các thế lực thù địch, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đồng bào để xác định nội dung, biện pháp tiến hành công tác dân vận cho phù hợp. Các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên đổi mới, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục đáp ứng sự phát triển của thực tiễn; không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm, hành động của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ về thực hiện công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới không chỉ là trách nhiệm, mà còn là tình cảm gắn bó máu thịt của đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Từ đó, đưa nội dung công tác tuyên truyền, vận động thấm sâu vào suy nghĩ, hành động của đồng bào, làm cho họ luôn đề cao cảnh giác trước hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta, không để bị động, bất ngờ. Đồng thời, cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt chức năng đội quân công tác, về với đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào theo đạo, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ, góp phần củng cố niềm tin, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn chiến lược của Tổ quốc.

Hai là, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong tiến hành công tác dân vận của Quân đội trong phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vấn đề này chỉ đạt hiệu quả thiết thực khi tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phát huy tốt vai trò của các tổ chức, lực lượng. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp cần quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác dân vận đối với vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo; từ đó, xây dựng kế hoạch thực hiện bảo đảm chặt chẽ, tính khả thi cao. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung nội dung, phương pháp tiến hành công tác dân vận phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, nhất là cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và lực lượng chuyên trách trong tham mưu, chỉ đạo hướng dẫn tổ chức thực hiện. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng cách làm hay, mô hình sáng tạo và tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến. Kiên quyết chấn chỉnh, xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm trong thực hiện công tác dân vận nói chung và trong phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, chống phá cách mạng nước ta nói riêng.

Ba là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức công tác dân vận trong phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo. Trong thực hiện các cơ quan, đơn vị phải quán triệt tốt phương châm: “chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị và vững chắc” và phong tục, tập quán của nhân dân để tiến hành công tác tuyên truyền, vận động đồng bào cho phù hợp. Nội dung tuyên truyền tập trung vào làm rõ chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; truyền thống yêu nước, nghĩa đồng bào, lòng tự hào dân tộc. Tôn vinh “người tốt, việc tốt”, sống “tốt đời, đẹp đạo” và điển hình tiên tiến trong đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo, nhất là tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn việc ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, động viên đồng bào tích cực chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp, phòng, chống tệ nạn xã hội và loại bỏ dần các hủ tục, v.v. Quá trình thực hiện, cần gắn kết chặt chẽ với các phong trào, cuộc vận động cách mạng của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, địa phương phát động; sử dụng đa dạng, phong phú hình thức tuyên truyền, vận động sát với thực tiễn. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên giỏi, có tâm huyết, những cán bộ, người có uy tín, am hiểu ngôn ngữ, phong tục tập quán đồng bào để tổ chức các đội thông tin tuyên truyền lưu động về vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa kết hợp các hoạt động giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.

Cùng với đó, tiếp tục tham gia thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, trọng tâm là: Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008, Nghị quyết số 80/NQ-CP, ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; Nghị quyết số 12/NQ-CP, ngày 15/02/2020 của Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2011 - 2030. Trong đó, ưu tiên giúp dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, “xóa” hộ đói, giảm hộ nghèo, cải thiện đời sống; không để hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo bị tái nghèo, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, vùng có đông đồng bào tôn giáo.

Bốn là, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác tham mưu, phối hợp, tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo. Các cơ quan, đơn vị chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trên địa bàn nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương xử lý hiệu quả những vấn đề nảy sinh ngay từ cơ sở. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo; tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo. Thực hiện tốt công tác tạo nguồn, bồi dưỡng cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; phấn đấu “xóa” tình trạng thôn - bản “trắng” đảng viên. Tham gia củng cố, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, khắc phục những mặt yếu kém, tiêu cực trong lãnh đạo; nâng cao uy tín của tổ chức đảng đối với đồng bào. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phối hợp tham gia xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh. Phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng và chức sắc, chức việc tôn giáo. Tăng cường công tác đối thoại tôn giáo, phát huy vai trò của chức sắc, tín đồ tiến bộ, đề cao uy tín của họ trong các lĩnh vực đời sống cộng đồng và phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong mỗi bản, làng, phum, sóc; đấu tranh có hiệu quả mọi luận điệu xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Năm là, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phương pháp cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là lực lượng trực tiếp làm công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kỷ luật công tác dân vận cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là lực lượng trực tiếp làm công tác dân vận, tôn giáo. Nội dung phải toàn diện, chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc, tôn giáo và công tác dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; kiến thức về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm văn hóa và tâm lý tộc người, đặc điểm sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp vận động đồng bào dân tộc, tôn giáo; quan tâm bồi dưỡng, phát triển đảng viên, đoàn viên, tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số, tôn giáo làm nguồn cán bộ cho địa phương và làm nòng cốt trong tiến hành công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo.

Công tác dân vận của Quân đội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc xây dựng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải nhận thức đúng về yêu cầu nhiệm vụ chính trị nói chung, nhiệm vụ công tác dân vận nói riêng, tích cực, chủ động phối hợp thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nội dung, biện pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1 - Các nội dung, hình thức như: “Vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa hủ tục, ổn định cuộc sống, xây dựng nếp sống mới vùng dự án”, “Gắn kết yêu thương giữa lương và giáo”, “Xây dựng và huy động lực lượng chính trị nòng cốt tham gia xử lý các tình huống đình công, biểu tình, tụ tập gây rối”, “Giao ban già làng, trưởng thôn, đội”, “Gặp mặt chức sắc tôn giáo”, “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, mốc quốc giới và giữ gìn an ninh, trật tự ở khu vực biên giới”, “Xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ biên giới”, “Vận động quần chúng xây dựng khu dân cư vùng giáo tiên tiến, an toàn về an ninh chính trị”, v.v.

http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/quan-doi-day-manh-cong-tac-dan-van-gop-phan-phong-chong-am-muu-thu-doan-chia-re-khoi-dai-d/16119.html

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM MÃI XỨNG ĐÁNG LÀ ĐIỂM TỰA, NIỀM TIN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN

 


 Với mục tiêu vấy bẩn, hòng bôi nhọ hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ, thời gian gần đây các thế lực thù địch, chống phá cố tình lấy cớ một số sự vụ, sự việc vi phạm đơn lẻ (mà bất cứ tổ chức rộng lớn nào trên thế giới cũng không thể tránh khỏi) để thổi phồng và quy chụp rằng: Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đang dần bị biến chất, không còn kiên định mục tiêu tối thượng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân...

1. Thực chất, các chiêu trò nêu trên không nằm ngoài mưu đồ cố tình bóp méo, hạ bệ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ và bản chất tốt đẹp của QĐND Việt Nam. Đây cũng chính là một chiêu trò “tung hỏa mù”, hướng vào chống phá Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Thế nhưng, sự vụng về khi ngụy biện, cộng với chiêu thức chống phá cũ kỹ sẽ không khó để chúng ta nhận diện, lật tẩy thông qua việc nêu lên một vài ví dụ về đời sống thường nhật và hoạt động quân sự của bộ đội, để “ánh sáng sự thật” sẽ tự thân đẩy lùi “bóng tối bịa đặt xấu xa” theo đúng quy luật khách quan.

Còn nhớ, khi bắt đầu xuất hiện dịch Covid-19, xã hội Việt Nam xuất hiện “tâm trạng phản vệ” và có một bộ phận người dân hoang mang, lo sợ. Cũng vì đó, tình trạng qua lại biên giới, nhất là các đường mòn, lối mở diễn ra rất nhiều. Thực hiện mệnh lệnh “chống dịch như chống giặc” để bảo vệ nhân dân với lực lượng y tế làm nòng cốt, Quân đội ta đã chỉ đạo các đơn vị quân y tích cực tham gia phòng, chống dịch và đặc biệt là chỉ đạo Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tăng cường tuần tra, chốt chặn, kiểm soát chặt chẽ xuất nhập cảnh, nhằm ngăn chặn dịch xâm nhập vào nội địa qua đường biên giới... Theo chủ trương đó, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ BĐBP đã tình nguyện lên đường nhận nhiệm vụ; tham gia ứng trực 24/24 giờ tại các khu vực cửa khẩu, đường mòn, lối mở, bờ sông suối... nơi con người có thể qua lại trên khắp dải biên cương, kết thành “bức tường ngăn dịch” vững chắc, suốt từ đầu năm 2020 đến nay.

Làm nhiệm vụ tại miền biên viễn ấy, BĐBP không chỉ đối diện với nguy cơ dịch bệnh mà còn đương đầu với rất nhiều khó khăn, thiếu thốn; đối diện cả với những khoảng lặng tình cảm và sự hy sinh cao độ về mặt tinh thần mà chỉ những con người mang trong mình phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ mới đủ khả năng chịu đựng và mạnh mẽ vươn lên. Ấy là trong khoảng 300 ngày qua, khi đất nước có những thời điểm thực hiện trạng thái "bình thường mới" (sau hai đợt cao điểm bùng phát dịch), thì 100% cán bộ, chiến sĩ BĐBP trên các tuyến biên giới vẫn bám trụ, căng mình bám chốt làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát. Cũng trong quãng thời gian ấy, gần 20 đồng chí đã không thể nghỉ phép về quê để đưa tiễn người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng; hơn 50 đồng chí hoãn cưới vợ, hoãn cưới con; 50 đồng chí không thể ở nhà lúc vợ trở dạ, sinh con;...

Cũng bắt đầu từ khi xuất hiện dịch Covid-19 ở Việt Nam, hàng loạt đơn vị quân đội đã cơ động lực lượng, dồn dịch nơi ăn ở, nhường hệ thống doanh trại phục vụ công tác cách ly công dân có nguy cơ nhiễm dịch Covid-19. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ ở những đơn vị này lại trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Sau khi hoàn thành thời gian cách ly y tế ở các đơn vị quân đội, rất nhiều công dân đã bày tỏ lòng biết ơn, xúc động và thán phục về sự chịu đựng gian khó, mẫn cán, hết lòng phục vụ nhân dân của bộ đội. Người dân cảm kích, khâm phục, bởi công dân bị cách ly vốn mang nhiều nguy cơ dịch bệnh, nhưng cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn trực tiếp, tận tình phục vụ và hướng dẫn từng người thực hiện các biện pháp y tế theo đúng quy định; trực tiếp an ủi, động viên họ yên tâm cách ly, lạc quan vươn lên trong thời điểm khó khăn nhất. Đặc biệt, khi dịch Covid-19 xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bộ đội hóa học và các lực lượng chức năng đều có mặt sớm nhất, tiến hành phun khử trùng phục vụ dập dịch, bảo vệ người dân...

Tất cả những chi tiết ấy cho thấy sự hy sinh quên mình của Bộ đội Cụ Hồ. Họ lặng lẽ công tác, thầm lặng cống hiến vô điều kiện để bảo vệ, phục vụ nhân dân. Đó chính là sự kế tục truyền thống của QĐND Việt Nam anh hùng-đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”; minh chứng rõ rành về sự giác ngộ cao độ và tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân của Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.

2. Tất nhiên, phẩm chất vì nhân dân phục vụ của Bộ đội Cụ Hồ không chỉ thể hiện, minh chứng sinh động thông qua cuộc chiến phòng, chống dịch Covid-19 mà luôn được hiện hữu trong suốt gần 76 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành; trở thành giá trị truyền thống quý báu của QĐND Việt Nam. Đặc biệt trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của QUTƯ, Bộ Quốc phòng, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn hoàn thành tốt sứ mệnh bảo vệ, chăm lo và gắn bó máu thịt với nhân dân; viết thêm những giá trị mới trong hệ chuẩn mực nhân cách của quân nhân cách mạng. Đó là hình ảnh về những sĩ quan QĐND Việt Nam tự tin, trách nhiệm trong đội quân Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tham gia bảo vệ sự bình yên, hạnh phúc cho nhân loại tiến bộ và thực hiện nghĩa cử quốc tế cao đẹp. Đó là những quân nhân cách mạng giàu trí tuệ, làm chủ khoa học kỹ thuật tân tiến, điều khiển, sử dụng thuần thục phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại canh giữ vùng đất, vùng trời, vùng biển, đảo Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên và nền hòa bình bền vững cho nhân dân. Và còn nữa là những đoàn quân đến với vùng sâu, vùng xa, nơi gian khó... để giúp dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Đặc biệt, khi bất cứ nơi đâu xảy ra thiên tai, địch họa thì ở đó luôn có Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng xả thân bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân. Quân đội luôn là lực lượng có mặt trước tiên, gắn bó mật thiết và là "tấm chắn" bảo vệ nhân dân trước mọi hiểm nguy do thiên tai gây ra... Trong quá trình đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, trở thành biểu trưng sáng đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong điều kiện mới.

Nghĩ cho dân, lo cho dân, hướng dẫn và đồng hành cùng nhân dân, trong 5 năm qua, toàn quân đã sáng tạo và duy trì hoạt động hiệu quả hơn 7.000 tổ công tác dân vận, hơn 14.000 điển hình “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt” hoạt động hiệu quả. Ở tất cả các quân chủng, binh chủng, lực lượng trong quân đội đều có phong trào, cách thức giúp dân hiệu quả, thiết thực, được nhân rộng ra toàn quân và các cấp trong hệ thống chính trị.

Nói về những kết quả trong công tác giúp dân, bảo vệ dân, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ từng ghi nhận sâu sắc: QĐND Việt Nam đã, đang, sẽ và mãi xứng đáng là điểm tựa niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân! Bởi lẽ, thành quả lớn nhất của quân đội là làm cho dân tin, dân yêu, dân kính trọng và tự nguyện giúp đỡ quân đội, tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đắp bồi thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.

Trong nhiệm kỳ qua, trước nhiều tác động đa chiều của đời sống xã hội hiện tại, nhưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ ở cán bộ, chiến sĩ quân đội và truyền thống QĐND Việt Nam anh hùng luôn được giữ vững, phát huy, tỏa sáng. Trước mọi diễn biến tình hình, toàn quân luôn thống nhất ý chí và hành động, kiên định mục tiêu: Vì nhân dân phục vụ! Trước sự mời gọi của lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm do tác động, ảnh hưởng của mặt trái xã hội, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn mạnh mẽ đấu tranh, quyết liệt tẩy trừ các biểu hiện xuống cấp về đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật; giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân-tập thể, cống hiến hết mình cho đất nước, cơ quan, đơn vị... Đó là cơ sở tạo nên niềm tin vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với QĐND Việt Nam.

3. Có một câu hỏi đặt ra là: Tại sao cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam lại có thể nêu cao ý thức trách nhiệm, tự giác hành động vì dân mà không hề quản ngại gian khổ, hy sinh? Câu hỏi thật khó lý giải theo cách ngắn gọn, bởi nội hàm đặt ra khá rộng lớn. Thế nhưng, có một điều mà ai cũng nhận thấy, là mỗi sĩ quan, cán bộ quân đội cũng chính là một đảng viên và tất cả quân nhân trong QĐND Việt Nam đều thấm nhuần mục tiêu, lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế mà tuyệt đại đa số quân nhân đều tự giác cao độ, luôn trân quý nhân dân, yêu quý công việc và sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì nước, vì dân. Đó cũng chính là bản chất, truyền thống của Bộ đội Cụ Hồ.

Với đặc thù hoạt động quân sự, nhiều đơn vị đóng quân phân tán, hoạt động nhỏ lẻ, bởi thế vai trò của tổ chức đảng cơ sở, nhất là của chi bộ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chi bộ đảng được thành lập và “có mặt” ở tất cả các loại hình đơn vị, lĩnh vực công tác, địa bàn đóng quân. Chi bộ trực tiếp lãnh đạo hoạt động của bộ đội ở mọi điểm chốt biên cương, về từng điểm đảo, cụm đảo, nhà giàn DK; “đồng hành” và “dẫn dắt” những chiến hạm, con tàu vươn khơi trên biển, cáng đáng hải trình tuần tra, thực hiện nhiệm vụ hộ tống, cứu hộ, cứu nạn...; “chỉ dẫn” cho nhiệm vụ học tập, nghiên cứu khoa học, làm chủ công nghệ ở các môi trường học viện, nhà trường, viện nghiên cứu trong quân đội... Dù thực hiện chức năng lãnh đạo ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, thì nền nếp chế độ sinh hoạt Đảng của tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội cũng đều được duy trì chặt chẽ, hiệu quả, tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo và tinh thần tự phê bình, phê bình luôn được nêu cao. Bởi thế mà mạch chảy của công tác lãnh đạo luôn được thông suốt, kết nối một cách hệ thống, chặt chẽ, liên hoàn.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đến với mọi cấp trong quân đội chính là nguyên nhân mấu chốt, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân để đưa đến thành công trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, cũng như hoàn thành sứ mệnh “Vì nhân dân phục vụ” của cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Chính những quân nhân cách mạng, với tình yêu Tổ quốc mãnh liệt phấn đấu theo lý tưởng cao đẹp của Đảng, kiên định mục tiêu cao nhất của QĐND Việt Nam đã tạo nên những mạch ngầm nhiệt huyết không ngơi nghỉ cho những nỗ lực cống hiến, hy sinh quên mình vì Tổ quốc, vì nhân dân của cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam. Sự thật ấy, dẫu những kẻ xấu và các thể lực thù địch có trăm nghìn “mưu hèn, kế bẩn”, dẫu thủ đoạn chống phá có tinh vi, xảo quyệt đến đâu thì cũng không thể phủ nhận, không thể bôi xấu hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ!./.

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/quan-doi-nhan-dan-viet-nam-mai-xung-dang-la-diem-tua-niem-tin-cua-dang-nha-nuoc-va-nhan-dan-129956

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH


(TG) - Với nhận thức giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang triển khai nhiều hoạt động đấu tranh phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”  đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái.

CHÚ TRỌNG CÁC GIẢI PHÁP TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC

Trong những năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ đạo trong hoạt động đấu tranh phòng chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”, coi đó giải pháp trọng tâm nhằm khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng Đảng. Đồng thời, triển khai các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và các quy định, văn bản của Trung ương và Thành ủy; rà soát, ban hành, bổ sung quy chế về công tác cán bộ, coi trọng về tiêu chuẩn, phẩm chất đạo đức; chủ động rà soát, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đánh giá và sắp xếp lại vị trí công tác của cán bộ, công chức; xử lý một số cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm để xảy ra vi phạm.

Năm 2014, Ban Thường vụ Thành ủy đã ký ban hành Đề án số 02-ĐA/TU về “Phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ Thành phố và phản bác các quan điểm sai trái”. Ban Tuyên giáo Thành ủy chủ động duy trì chế độ giao ban định kỳ hằng quý với các đồng chí trưởng ban tuyên giáo các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp trên cơ sở trực thuộc thành ủy để kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII gắn với Đề án số 02-ĐA/TU. Song song với đó, tổ chức biên soạn, biên tập và phát hành hơn 50.000 tài liệu tham khảo trang bị cho cơ sở làm tài liệu tuyên truyền, sinh hoạt chi bộ. Tổ chức trao đổi, học tập kinh nghiệm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái với các địa phương, đơn vị; tổ chức 4 hội nghị tập huấn chuyên đề cho các đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt các sở, ban, ngành thành phố, thường trực và lãnh đạo Ban Tuyên giáo các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy; tiến hành 2 lần điều tra dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên đại diện các ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị thuộc hệ thống chính trị của Thành phố về kết quả triển khai các giải pháp phòng, chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng bộ Thành phố phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức Tọa đàm khoa học “Những giải pháp có tính chất đột phá nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” nhằm cung cấp những vấn đề thực tiễn, xác định những khó khăn, thách thức đặt ra và kinh nghiệm bước đầu trong thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại Đảng bộ Thành phố.

Qua triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền, đã góp phần  nâng cao nhận thức trong các cấp ủy, trong phần lớn cán bộ, đảng viên về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Đề án số 02-ĐA/TU trong toàn Đảng bộ Thành phố. Bên cạnh đó, ý thức cảnh giác, chủ động phòng, chống những biểu hiện suy thoái trong nội bộ được nâng lên; một số giải pháp trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng được quan tâm; việc học tập, triển khai, quán triệt các nghị quyết của Đảng tiếp tục được đổi mới, ngày càng nghiêm túc, hiệu quả hơn.

ĐẤU TRANH, PHÊ PHÁN NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG  CHÍNH TRỊ, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ

Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết liệt thực hiện nhiều biện pháp nhằm phát hiện, đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, đấu tranh với những phần tử suy thoái về tư tưởng chính trị ngay từ chi bộ, khu dân cư.

Thường trực Thành ủy thường xuyên chỉ đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy duy trì giao ban định kỳ với thường trực quận ủy, huyện ủy và lãnh đạo Ban Tuyên giáo các quận ủy, huyện ủy có các đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chỉ đạo, rút kinh nghiệm các hình thức và biện pháp đấu tranh qua từng thời điểm.

Bên cạnh việc đấu tranh, phản bác thông qua kênh báo chí, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy, thường trực cấp ủy và lãnh đạo Ban Tuyên giáo các quận ủy, huyện ủy, cấp ủy cơ sở duy trì gặp gỡ, tiếp xúc, để trực tiếp phản bác, đấu tranh trực diện với một số cá nhân. Phát huy vai trò của các đồng chí cán bộ lão thành, hưu trí, đồng chí, đồng đội có uy tín của các đối tượng để gặp gỡ, vận động, từng bước thuyết phục; hướng dẫn và chỉ đạo cấp ủy đấu tranh, phê phán trong sinh hoạt tại từng chi bộ.

Ban Tuyên giáo Thành ủy và một số cấp ủy duy trì liên hệ, tạo kênh gặp gỡ, đối thoại với một số đối tượng cụ thể; tổ chức tham quan thực tế một số địa điểm thành tựu kinh tế - xã hội trong xây dựng và phát triển Thành phố, góp phần hạn chế một bước những suy nghĩ và hành động lệch lạc của một số cá nhân.

Tại cơ sở, các cấp ủy quan tâm làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời nhắc nhở, uốn nắn, chấn chỉnh những phát ngôn, nhận thức lệch lạc, manh nha xuất hiện do những mâu thuẫn nội bộ hoặc bức xúc cá nhân, không để phát triển thành những quan điểm sai trái trong nội bộ.

Ngoài ra, Thường trực Thành ủy cũng thường xuyên chỉ đạo các lực lượng chức năng của Thành phố Hồ Chí Minh nắm tình hình diễn biến hoạt động trên Internet, mạng xã hội của các thế lực thù địch, chống đối chính trị trong và ngoài nước; tăng cường nắm bắt thông tin phản ánh liên quan đến tập thể, cá nhân suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để chủ động phối hợp xử lý và tham mưu Ban Thường vụ Thành ủy, Thường trực Thành ủy chỉ đạo xử lý, giải quyết.

TĂNG CƯỜNG LỰC LƯỢNG, PHƯƠNG TIỆN ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, những năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng của Thành phố luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân luôn kiên định và nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc trên hệ thống báo chí  của Thành phố tiếp tục được tăng cường; phát huy vai trò chủ động tham gia, hiến kế, xây dựng tổ chức các tuyến bài viết, khai thác từng vấn đề, khía cạnh phù hợp với nội dung mà các thế lực thù địch đang sử dụng để chống phá; theo hướng chuyển sự tham gia của báo chí, truyền hình Thành phố với tư cách “người trong cuộc”.

Đặc biệt, các cơ quan báo chí Thành phố đã vào cuộc khá tốt trong việc phối hợp tuyên truyền âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, chỉ rõ vai trò chủ mưu, giật dây của tổ chức phản động Việt Tân và một số cá nhân lợi dụng sự cố môi trường do Formosa gây ra ở các tỉnh miền Trung, kêu gọi tụ tập, xuống đường trái phép, âm mưu kích động bạo loạn, phá hoại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào tháng 5/2016; tham gia tuyên truyền xoay quanh việc cơ quan chức năng thi hành cưỡng chế cơ sở thờ tự Liên Trì, quận 2; khu đất công trình công cộng phường 6, quận Tân Bình...

Ban Tuyên giáo Thành ủy xây dựng trang mạng xã hội Cờ đỏ Thành phố Hồ Chí Minh  để triển khai công tác nắm bắt thông tin và tuyên truyền, chia sẻ thông tin chính thống, đấu tranh trực diện một số đối tượng và vụ việc cụ thể. Bước đầu, trang thông tin đã có tác dụng rất tích cực và xây dựng được uy tín rộng rãi của Thành phố trong phạm vi cả nước.

Ban Tuyên giáo Thành ủy cũng đã tổ chức hai hội nghị quán triệt, chỉ đạo ban tuyên giáo cơ sở tổ chức lực lượng, xây dựng các trang mạng xã hội để chia sẻ, kết nối các trang đấu tranh, tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái trên mạng internet bước đầu có kết quả tích cực. Một số cấp ủy sử dụng các bài viết trên hệ thống báo chí Trung ương và Thành phố để tuyên truyền trực tiếp. Một số đơn vị tiếp tục phối hợp, phát huy lực lượng các đồng chí cán bộ lão thành, hưu trí, giảng viên lý luận chính trị của cơ sở đào tạo trực thuộc hoặc đóng trên địa bàn để thực hiện các bài viết với nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng và chế độ, phản bác các quan điểm, thông tin sai trái, xuyên tạc để tuyên truyền nội bộ. Đồng thời, đăng tải trên các trang thông tin, mạng xã hội của cơ sở để tuyên truyền cho đông đảo quần chúng nhân dân. Có thể thấy rằng, công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái được triển khai mạnh mẽ, bước đầu có tác dụng tích cực; việc củng cố và tăng cường lực lượng, phương tiện đấu tranh trực diện được các cấp ủy, các cơ quan chức năng quan tâm.

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỜI GIAN TỚI

Từ thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ Thành phố và phản bác các quan điểm sai trái, đặt ra một số vấn đề cần rút kinh nghiệm để triển khai hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Một là, tăng cường tổ chức, định hướng hoạt động tuyên truyền, đấu tranh phản bác trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Thời gian qua, việc định hướng, chỉ đạo cơ quan báo chí tham gia đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các thông tin xuyên tạc, xấu độc, sai sự thật và phản bác các quan điểm sai trái có thời điểm còn chưa có sự tập trung cao, thiếu kiên quyết trong lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, chấn chỉnh, xử lý đến nơi đến chốn. Một số cơ quan báo chí có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, có biểu hiện chưa chấp hành sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Vai trò hạt nhân lãnh đạo của cấp ủy cơ quan chủ quản báo chí, cấp ủy và ban biên tập một số cơ quan báo chí Thành phố trước những biểu hiện lệch lạc của thông tin báo chí chưa được chấn chỉnh kịp thời.

Các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí chưa thật sâu sát, còn lúng túng trong chỉ đạo công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái dẫn đến hoạt động này chưa thực sự bao phủ trên các phương tiện báo chí Thành phố. Một số vấn đề nhạy cảm, bức xúc được các cơ quan báo chí phản ánh với mức độ, liều lượng quá dày, quá đậm đặc; thông tin chưa đầy đủ, chưa phản ánh đúng bản chất của vấn đề, suy diễn thiếu căn cứ, thậm chí sơ hở, gây phản cảm trong dư luận xã hội và bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, bóp méo, thổi phồng làm phức tạp thêm tình hình.

Hai là, cần xây dựng được các bộ quy chế phối hợp trong hoạt động đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái giữa các lực lượng, trong đó nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Trung ương và phân công, phân nhiệm rõ ràng.

Vấn đề phối hợp thông tin và lực lượng đấu tranh phản bác, chủ động trao đổi nội dung giữa các bên mặc dù đã thực hiện nhưng chưa thường xuyên, cơ chế phối hợp chưa mang tính định kỳ tạo thành nền nếp, còn nhiều nội dung chưa được cụ thể hóa đi vào thực tiễn. Công tác định hướng các hoạt động đấu tranh phản bác, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đến với hệ thống tuyên giáo cơ sở chưa kịp thời (hiện các đơn vị cơ sở vẫn còn lúng túng, thiếu kỹ năng cần thiết trong nội dung này). Công tác phối hợp lực lượng yếu do không có chỉ đạo chung, thống nhất từ Trung ương, từ cấp Thành phố đã bộc lộ rất nhiều hạn chế như việc không đồng bộ tạo ra sự chia rẽ trong thông tin, thậm chí đối lập trong thông tin trên không gian mạng làm hạn chế công tác tuyên truyền…

Ba là, tăng cường việc bồi dưỡng về trình độ lý luận và nhận thức đối với lực lượng nòng cốt, đấu tranh phản bác và các kỹ năng sử dụng mạng xã hội tham gia đấu tranh phản bác.

Một trong những khó khăn, hạn chế lớn nhất hiện nay là cả Trung ương và các tỉnh, thành phố còn chưa quan tâm đến việc xây dựng lực lượng nòng cốt đấu tranh trải rộng trong hệ thống cơ sở> Lực lượng nòng cốt thiếu kinh nghiệm, kỹ năng truyền thông mạng xã hội thấp, phương pháp viết tin, bài đấu tranh phản bác chưa khoa học, kịp thời. Bên cạnh đó, lực lượngtham gia chủ yếu là kiêm nhiệm nên chưa toàn tâm toàn ý cho công tác truyền thông, đấu tranh phản bác. Các đơn vị cơ sở chưa thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho lực lượng nòng cốt… Bốn là, cấp ủy cơ sở phải thực sự mạnh dạn, năng động, sáng tạo trong hoạt động tổ chức, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái.

Nhận thức của một số cấp ủy của các sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn Thành phố chưa cao; tính chủ động, mạnh dạn chỉ đạo hệ thống trực thuộc tham gia mặt trận đấu tranh, phản bác trên không gian mạng còn hạn chế,  có nhiều nơi lãnh đạo cấp ủy vẫn cótâm lý chờ đợi hướng dẫn của Thành phố; thậm chí, coi việc đấu tranh, phản bác này là của “cấp trên”.

Rút kinh nghiệm những hạn chế, phát huy những bài học quý trong những năm qua, tin tưởng rằng, với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân Thành phố, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ đạt được những kết quả cao nhất trong công tác đấu tranh phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”  tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/thanh-pho-ho-chi-minh-day-manh-cong-tac-tuyen-truyen-dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-130139

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “LẤY DÂN LÀM GỐC” SOI SÁNG CÔNG TÁC DÂN VẬN HIỆN NAY

 


(Sinh ra từ Nhân dân; sống và hoạt động cách mạng trong lòng dân; cuối đời lại muốn trở về với Nhân dân, Hồ Chí Minh khảm trong di sản của mình hạt ngọc lung linh tỏa sáng, đó là tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Tư tưởng đó mãi mãi soi sáng công việc của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là công tác dân vận.

Ở nước ta, chủ nghĩa yêu nước có trước chủ nghĩa cộng sản, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân, lòng dân có trước ý Đảng. Đúc kết của Hồ Chí Minh: sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 cho thấy chính Nhân dân là người sinh thành ra Đảng. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã mang trong mình yếu tố dân tộc, bám rễ sâu trong lòng dân tộc. Cứ thế, Nhân dân luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng, tạo nên ý Đảng - lòng dân suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng.

Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nhận thức và đánh giá đúng đắn vai trò, vị trí, sức mạnh của Nhân dân với một chất lượng khoa học và cách mạng cao. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên “chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt”(1). Dân rất tốt là một chân lý, vì tuy đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh, nhưng Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Người còn khẳng định dân chúng khôn khéo; trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận; “nhân dân trăm tai nghìn mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh, có thể giúp cho các chú tiến bộ hơn… Công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”(2).

Từ những hiểu biết đúng đắn, toàn diện về dân như vậy, Hồ Chí Minh khẳng định “dân là gốc”. Người nói: “Nước lấy dân làm gốc….Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(3). Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Gốc là tài dân, lực lượng dân, của dân, lòng dân, quyền dân, lòng tin của dân. Nói về tài trí dân, Người khẳng định “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(4). Nói về lực lượng Nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định “trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Người chỉ rõ: “Chúng ta biết rằng: lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong”(5). “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”(6). Người thường nhắc lại câu nói của Nhân dân Quảng Bình: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Nói về lòng dân, Hồ Chí Minh đúc kết: “Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”(7), “được lòng dân, thì việc gì cũng làm được. Trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”(8).

BoX: “Nước lấy dân làm gốc….Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” – Hồ Chí Minh

Xuất phát từ chỗ gắn bó mật thiết với Nhân dân, sống giữa lòng dân, Hồ Chí Minh thấu hiểu đời sống, tình hình, tâm lý, tâm tư, nguyện vọng Nhân dân. Người nói dân chúng nhiều tai mắt, cái gì cũng nghe cũng thấy; dân chúng so sánh đúng, giải quyết đúng, gọn gàng, hợp lý, công minh, “biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết”(9). Nước ta là một nước dân chủ, vì vậy, theo Hồ Chí Minh:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân(10);

“Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”(11).

Như vậy, tư tưởng “dân là gốc” cần được hiểu trên mấy lát cắt: Một là, dân chúng chứa đựng một xung lực mạnh mẽ vô cùng tận, cả tài, sức, quyền, trí, lòng dân; Hai là, Nhân dân được hưởng tất cả lợi ích vật chất và tinh thần; Ba là, dân chúng có trách nhiệm trong cách mạng, kháng chiến, đổi mới, xây dựng đất nước; Bốn là, không chỉ nước, mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc, do dân tổ chức nên.

Trong mọi công việc, Đảng, Nhà nước đã xác định “dân là gốc” thì “đừng có làm điều gì trái ý dân”, “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”(12). Dân là chủ, là gốc, thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên phải phục vụ Nhân dân, học hỏi Nhân dân, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”(13).

Khẳng định Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nhưng lãnh đạo không có nghĩa là “ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống các địa phương kiểm tra công tác”(14), mà “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”(15). Bằng cách cắt nghĩa đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đày tớ cho quần chúng… Xa quần chúng là hỏng, cần phải nhớ nhiệm vụ của Đảng là làm đầy tớ cho quần chúng”(16).

Làm “đầy tớ nhân dân” với ý nghĩa cao đẹp nhất là phục vụ Nhân dân, học hỏi Nhân dân, đem lại hạnh phúc cho Nhân dân, làm cho Nhân dân hài lòng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Không học hỏi nhân dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân(17).

Một cách tiếp cận khác mang tính nguyên tắc thể hiện chiều sâu và bề rộng của nội hàm “dân là gốc”, cho thấy Đảng và Nhà nước khi đã xác định “lấy dân làm gốc” thì phải hoàn thành trách nhiệm, bổn phận với dân không chỉ là vấn đề lợi ích mà sâu xa hơn là tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, bàn bạc với dân, học hỏi dân, gương mẫu và tự phê bình trước dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ để chữa bệnh quan liêu, xa dân, khinh thường dân, phụng sự nhân dân tốt, có một đơn thuốc - nguyên tắc là: “Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều là:

Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;

Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;

Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;

Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình;

Sẵn sàng học hỏi nhân dân;

Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”(18).

THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC DÂN VẬN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân(19) làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Điều đặc biệt là lần đầu tiên trong Hiến pháp, tại Điều 4, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, điểm 2 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Nội dung này ghi rõ trong Cương lĩnh 2011 là tất yếu, đương nhiên, bình thường vì đó là một trong những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng. Nhưng điều này thể hiện trong Hiến pháp với ý nghĩa là bộ luật căn bản của một nước thì hết sức đặc biệt. Điều đó tỏ rõ rằng Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của cả dân tộc; là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, mà còn thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân; có bổn phận, trách nhiệm với dân và chịu sự giám sát của Nhân dân.

Cùng với Hiến pháp, trong những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, văn bản mang tính chiến lược liên quan đến công tác dân vận, tin tưởng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở như Nghị quyết Trung ương khóa VIII về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh” (6/1997); Chỉ thị 30 về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cở sở” (18/2/1998); Kết luận 120 về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (7/1/2016); Hội nghị toàn quốc đánh giá kết quả thực hiện Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” (16/7/2018). Đó là những kết quả rất quan trọng, ít nhất là về mặt ban hành nghị quyết, văn bản quy định, rất đáng khích lệ. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác dân vận trong tình hình hiện nay, cần tập trung vào hai nhóm giải pháp sau đây:

Một là, hiểu thấu, quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa những nghị quyết, quy định, kết luận, văn bản liên quan đến chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận, thực hành dân chủ.

Xét đến cùng, khi bàn về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, có hai nhóm vấn đề quan trọng liên quan mật thiết với nhau, đó là hiểu thấu và làm đúng. Phải rà soát lại tất cả những văn bản bản đã được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp triển khai nghiên cứu, quán triệt, học tập như thế nào. Một Đảng chân chính cách mạng vì dân, vì nước thì trước hết phải đưa ra được nghị quyết, chỉ thị, văn bản, quy định đúng đắn. Nhưng đó mới chỉ là quan trọng hàng đầu. Điều quan trọng hơn, có ý nghĩa quyết định là văn bản, nghị quyết đó đi vào thực tiễn, thâm nhập vào đời sống nhân dân như thế nào.

Khi bàn về tư cách của một đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đúc kết 12 điều và Đảng không được quên điều nào, trong đó điều 12 là: “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”(20).

Thực tế cho thấy không phải mọi nghị quyết, chỉ thị đưa ra, đi vào cuộc sống đều đúng và có ý nghĩa soi sáng, dẫn dắt từ đầu đến cuối. Xét cho cùng, “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng(21). Nghị quyết, chỉ thị là tổng kết kinh nghiệm của quần chúng, từ thực tiễn mà ra, rồi trở lại soi sáng thực tiễn. Vì vậy, trong quá trình triển khai nghị quyết, chỉ thị, “ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước”(22).

Phải khẳng định rằng nhiều nội dung về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ đề ra trong các nghị quyết, chỉ thị rất đúng và hay, có tính khả thi. Nhưng do công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chưa tốt; có nơi làm hình thức, đối phó, thiếu công khai, minh bạch, Nhân dân thiếu thông tin hoặc tiếp nhận thông tin không đầy đủ, nên việc Nhân dân bàn, giám sát và quyết định những vấn đề của địa phương, phát huy thật sự quyền làm chủ trong góp ý xây dựng Đảng, chính quyền còn hạn chế. Thậm chí “lâu nay, nhiều nơi cứ nói là thực hiện dân chủ, nhưng thực chất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở đó vẫn mượn danh hoặc nhân danh tập thể để hợp thức hóa những quyết định, ý chí chủ quan của cá nhân mình. Một số người có chức, có quyền còn quan cách, gia trưởng, thậm chí có những cá nhân, tập thể trù dập, ức hiếp quần chúng”(23). Đây là điều đã được Bác Hồ cảnh báo từ thập kỷ 50 thế kỷ trước - khi người phê bình loại cán bộ “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”(24).

Những hạn chế, yếu kém như vậy phải được nghiêm túc xem xét, đánh giá, tổng kết, để chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, tổ chức hay cá nhân, tùy theo tính chất, mức độ, phạm vi để có các hình thức xử lý, kỷ luật đúng mức. Nếu không làm được như vậy, xem các nghị quyết đã thi hành thế nào, cái gì được, cái gì chưa được, lần sau lặp lại những khuyết điểm trước, thì nghị quyết chỉ là lời nói suông, làm mất lòng tin của Nhân dân.

Hai là, các tổ chức và cá nhân những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải làm đúng, làm tốt và khéo công tác dân vận, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tỏ rõ hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực thi nghiêm túc. Một dẫn chứng là vấn đề xuống với dân, bàn bạc với dân, tiếp công dân. Chúng ta đã có những quy định rất cụ thể. Theo đó, xuống với dân là để bàn bạc với dân, học hỏi dân; nghiêm túc tiếp công dân, đối thoại với dân là để thấu hiểu, thấu cảm, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, để quan tâm giải quyết những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân, chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ và thực hành dân vận. Những cách làm này, ngay sau khi nước nhà độc lập cách đây 75 năm, Hồ Chí Minh đã từng “đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình có đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi ở bàn giấy, theo kiểu “đạo nhân phòng thủ”(25). Tức là phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miêng nói, tay làm”, đem lại chất lượng tốt, “đúng” và “khéo” trong công tác dân vận. Người phê bình loại cán bộ “sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần.

Những năm qua, nhìn tổng thể xã hội có hai bức tranh tương phản. Chỗ nào người lãnh đạo đứng đầu sợ dân, ngại, không dám tiếp dân, tiếp một cách qua loa, đại khái, sẽ tạo ra một bức tranh tối. Nơi nào người đứng đầu cấp ủy, chính quyền nghiêm túc tiếp dân và xuống với dân thật sự, giải quyết thấu đáo những kiến nghị của dân, đứng về phía lợi ích chính đáng của người dân mà giải quyết những điểm nóng, phức tạp kéo dài, sẽ tạo ra bức tranh sáng. Tấm gương những cán bộ gần dân, sát dân là thể hiện một chính quyền thật sự thân thiện, trọng dân, vì dân.

 “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”(26).

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”(27).

Cùng với cơ quan hành chính là vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận, các cơ quan chức năng, Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ. Một trong những vai trò, trách nhiệm nổi bật của Mặt trận là tuyên truyền, giải thích, vận động các tầng lớp Nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cách làm là phải “đúng” và “khéo”, không gò ép áp đặt một cách thô bạo; phải tạo tính tự giác của mỗi người và nhân rộng các điển hình tiên tiến, lấy cái tốt dẹp cái xấu. Phải hiểu dân, tin tưởng dân, biết chờ đợi dân. Chúng ta phải ghi tạc vào đầu lời dặn của Bác: “Nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”(28). “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Dân vận kém thì việc gì cũng kém”.

Công tác dân vận cũng như mọi vấn đề khác, điều có ý nghĩa quyết định là con người, vì mọi việc đều do người làm ra, trong đó cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị giữ một vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Sự gương mẫu của người lãnh đạo trong xây và chống, nói đi đôi với làm, có bản lĩnh, dũng khí tự phê bình trước Nhân dân và hoan nghênh Nhân dân phê bình mình, sẽ truyền cảm hứng, tạo niềm tin cho Nhân dân. “Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”(29).

Gần đây, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng với tiêu đề “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”. Bài viết nêu lại những bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ năm khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của Nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với Nhân dân; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của Nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”.

Ý kiến của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đích thực trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay. Thực hiện tốt, có chất lượng, hiệu quả những điều đó chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp đổi mới hiện nay./.

PGS. TS. Bùi Đình Phong

_________________________

(1) (3) (4) (5) (11) (14) (20) (21) (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.5, tr.286, 501-502, 335, 335, 81, 89, 290, 330, 330-331.

(2) (7) (9) (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668, 142, 526, 292.

(6) (18) (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.270, 177, 176.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.163.

(10) (16) (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232, 367, 432.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.63.

(13) (28) (29) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.83-84, 421, 421.

(19) Chữ “N” trong “Nhân dân” viết hoa lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp 2013. Từ đó đến nay chưa có văn bản nào giải thích vì sao danh từ chung “nhân dân” lại viết hoa chữ “N”, nhưng có thể hiểu đó là sự đề cao vai trò, vị trí, sứ mệnh của nhân dân.

(23) “Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, ngày 16/7/2018, Báo Nhân Dân, ngày 17/7/2018.

(25) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, t.10, tr.131.

(26) (27) Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2019, tr.80, 116-117.

http://www.tuyengiao.vn/theo-guong-bac/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-lay-dan-lam-goc-soi-sang-cong-tac-dan-van-hien-nay-130080

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...