Xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận tư tưởng
Hồ Chí Minh là một trong những luận điệu mà các thế lực thù địch đang đẩy mạnh,
nhằm phá hoại và làm thay đổi nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến
tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do
đó, nhận diện, đấu tranh kiên quyết với những luận điệu phản động ấy là vấn đề
cấp thiết hiện nay.
Thời gian qua, các thế lực thù địch
liên tục đưa ra những lý lẽ vô căn cứ, như: “Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng
ngoại lai vào Việt Nam”, “Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin”,... cho rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều”. Những
luận điệu đó là sự xuyên tạc trắng trợn; bởi chúng đã cố tình bỏ qua phương
pháp luận khoa học trong xem xét, đánh giá tư tưởng của một con người, hệ tư tưởng
của một giai cấp. Chúng ta đều biết, một tư tưởng, hệ tư tưởng được đánh giá là
cách mạng, khoa học khi và chỉ khi xuất phát và phản ánh đúng thực tiễn, soi đường
cho hoạt động thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
như vậy.
Trước hết, trên phương diện lý luận,
tư tưởng của Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc
những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn
hoàn cảnh lịch sử nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đồng thời, tiếp thu
và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây,
mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Với thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và một trí tuệ sắc
sảo, khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chuyển
hóa được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân
loại để hình thành nên hệ thống tư tưởng của mình. Đó là hệ thống những quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tiêu biểu
là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, v.v.
Tư tưởng ấy không chỉ giải quyết vấn đề về tư duy lý luận mà cao hơn là tư duy hành
động, giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử, từ khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm của nhân dân Việt
Nam đã liên tục nổ ra, với nhiều hệ tư tưởng khác nhau, như: giai cấp phong kiến
(phong trào Cần Vương), dân chủ tiểu tư sản (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh),
giai cấp nông dân (Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực),... nhưng đều bị thất bại.
Chỉ đến khi tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh được
xác lập trên lập trường giai cấp công nhân và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1 với nội
dung cốt lõi của tư tưởng đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”,
đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước và mở ra trang mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, cách mạng Việt Nam đã liên tục
giành những thắng lợi to lớn, từ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
của thực dân, đế quốc, đến thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, để nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như ngày hôm nay. Vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh đâu phải là sự “vay mượn”, “du nhập những tư tưởng ngoại lai”, hoặc là
“Người đi trên cỗ xe Nho giáo”; và rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết,
giáo điều”. Thực chất những luận điệu đó chỉ là sự bịa đặt, nhằm phủ nhận, xóa
nhòa bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Điểm nữa là, hệ thống tư tưởng của Hồ
Chí Minh và cách mạng Việt Nam luôn thống nhất, hòa quyện với nhau trong suốt
tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đường lối của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng luôn soi sáng
đường lối, quan điểm của Đảng ta. Điều đó được thể hiện rất rõ qua việc chuẩn bị
thành lập và xây dựng Cương lĩnh hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã trực tiếp soạn thảo “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt
của Đảng”, “Chương trình tóm tắt của Đảng”, “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam”, v.v. Những văn kiện đó đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta.
Trong đó, “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”2 và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là những
luận điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là mục tiêu của cách mạng Việt
Nam. Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền - Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, Hồ
Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi đó vấn đề có
tính quy luật, quyết định sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thực sự là “con nòi”
của dân tộc, là đạo đức, là văn minh; phải thường xuyên đổi mới, xây dựng Đảng
vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó vừa mang tính thực
tiễn, vừa có dự báo tương lai.
Không chỉ nêu những quan điểm về xây dựng
Đảng cách mệnh chân chính, mà hệ thống quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục
tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng
xã hội mới ở nước ta đã là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng. Trong đó,
“giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản” là quan điểm có tính quyết
định đến vận mệnh dân tộc, là con đường duy nhất đúng của dân tộc ta và được Hồ
Chí Minh vận dụng một cách khoa học trên cơ sở lý luận, thực tiễn cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới. Về tập hợp lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định
“Công, nông là gốc của cách mạng, còn học trò, nhà buôn điền chủ nhỏ là bầu bạn
của cách mạng”; và để có lực lượng cách mạng, phải đoàn kết dân tộc kết hợp với
đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh xác định rõ, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và bọn
phong kiến tay sai ôm chân đế quốc là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của nhân dân.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam lúc bấy
giờ. Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đã nêu phương
hướng, quyết tâm chiến lược của cách mạng Việt Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Ngụy nhào” và thực tiễn đã diễn ra đúng như vậy.
Mặt khác, thực tiễn đã và đang chứng
minh hùng hồn “tư tưởng Hồ Chí Minh không bao giờ là tư biện, lý thuyết, giáo
điều”. Hay nói theo cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự đúc kết từ
thực tiễn và được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm hoàn toàn đúng đắn
và phù hợp. Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh được thừa hưởng một nền giáo dục “yêu
nước, thương dân” từ gia đình, quê hương, đất nước. Hành trình tìm đường cứu nước,
cứu dân gần 30 năm, đi đến khoảng 40 nước trên khắp các châu lục, Hồ Chí Minh
luôn “tự làm giàu tri thức” của mình bằng phương pháp tự học và đúc kết thực tiễn
cách mạng thế giới để “về giúp đồng bào mình” thực hiện sự nghiệp giải phóng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân
ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ giá trị, tầm ảnh hưởng
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị (khóa XII)
ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”. Điều đó chứng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh không thể là “lý
thuyết suông” mà là lý thuyết được bắt nguồn từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm
nghiệm và trở lại phục vụ thực tiễn.
Từ lý luận, thực tiễn trên, một lần nữa
chúng ta khẳng định luận điệu cho rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo
điều” chỉ là sự xuyên tạc trắng trợn của các thế lực thù địch, phản động, hòng
phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, với ý đồ đen tối
xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, hạ bệ thần tượng Hồ Chí
Minh trong lòng nhân dân ta và bạn bè quốc tế; làm cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân thiếu tin tưởng vào tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vì thế, hơn lúc nào hết,
chúng ta phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu rác rưởi,
phản động, phản khoa học này, góp phần bảo vệ giá trị trường tồn và tính khoa học,
cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện
nay. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của mọi tổ chức, mọi lực lượng.
Thực hiện điều đó, vấn đề nhất quán,
xuyên suốt của chúng ta là phải tiếp tục khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống quan điểm sâu sắc, toàn diện, khoa học, cách mạng, là một bộ phận không
tách rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác – Lê-nin; “là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và của dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”3. Do đó, phải tăng cường
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ
Chí Minh, tích cực làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu, trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân và toàn xã hội. Hành động
thiết thực nhất là mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; việc
làm đó phải thường xuyên, trở thành một nhu cầu văn hóa sâu sắc, bền bỉ và rộng
khắp trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đó cũng là cách thiết thực nhất,
hiệu quả nhất để đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng ta.