DI SẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỘI NHẬP
VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
1. Nhu cầu tất yếu khách
quan hội nhập và hợp tác quốc tế
Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời đại mới cho các dân tộc, hướng đến
mục tiêu chung của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Hồ Chí Minh với tư duy và tầm nhìn chiến lược, nhận diện chính xác thời
đại mới, trên cơ sở thấm nhuần sâu sắc và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, ngay từ sớm, đã nhận thức
được ý nghĩa và tầm quan trọng của hội nhập quốc tế để góp phần vào công cuộc
giải phóng dân tộc và phát triển, chấn hưng đất nước. Hội nhập quốc tế thể hiện
sự tham gia của quốc gia, dân tộc vào quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa với
tính cách là một xu thế lịch sử của thế giới hiện đại. Quan sát sự biến động
của thế giới, Hồ Chí Minh đã có một nhận xét mang hàm nghĩa triết lý: “Xét về
nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và
văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”(1) và
“Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới”(2).
Đối với Việt Nam, theo Hồ
Chí Minh, hội nhập, trước hết, là để tranh thủ mọi nguồn lực từ bên
ngoài giúp đỡ dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trên hành trình
tìm đường cứu nước, Người đã sớm nhận thức, chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống
thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô
dịch các dân tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của mình, cho nên để đánh
thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải liên kết các dân tộc thuộc địa, các đảng cách
mệnh trên thế giới: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu,
tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công
nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”(3).
Trong mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, Người nhìn
nhận đó là mối quan hệ biện chứng, hai chiều tương tác với nhau: Việt Nam không
chỉ tiếp nhận sự ủng hộ, giúp đỡ của cách mạng thế giới mà Việt Nam cũng có
nghĩa vụ quốc tế - giúp bạn là tự giúp mình: “Nhân dân ta chiến đấu hy sinh
chẳng những vì tự do, độc lập riêng của mình, mà còn vì tự do, độc lập chung
của các dân tộc và hòa bình trên thế giới”(4).
Thứ hai, hội nhập là để tiếp thu
những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới nhất của các nước để phục vụ cho công
cuộc chấn hưng đất nước và xây dựng CNXH: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận
thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả
các ngành kỹ nghệ của mình”(5). Việc đầu tiên Hồ Chí Minh xúc tiến
để hội nhập cho nền khoa học Việt Nam đó là cử một nhóm thanh niên Việt Nam
sang Mỹ học tập khoa học - kỹ thuật. Trong Thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao
Hoa Kỳ, ngày 1-11-1945, Người đề nghị Hoa Kỳ tiếp nhận 50 thanh niên Việt
Nam sang Mỹ với mong muốn một mặt, thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân
thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác, xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ
thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác: “và tha thiết mong
muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý
đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành
tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt
Nam”(6).
2. Về nội dung hội nhập
quốc tế theo quan điểm Hồ Chí Minh
Chính sách hội nhập và
hợp tác quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ trong bức thư gửi Liên Hợp quốc năm 1946: “Đối với các nước dân chủ,
nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh
vực:
a) Nước Việt Nam dành sự
tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài
trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng
mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh
quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp
nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp
quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng
ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc
những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng
một vài căn cứ hải quân và không quân”(7).
Hội nhập quốc tế theo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một số nội dung chính sau đây:
- Hội nhập quốc tế để giữ
vững nền độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh lựa chọn
con đường cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn cách mạng
Việt Nam vào cùng quỹ đạo với cách mạng thế giới nhằm hướng đến giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Trả lời câu hỏi của phóng
viên hãng thông tấn Nam Dương Antara, ngày 14-5-1954: “Mục đích chiến đấu của
nhân dân Việt Nam là gì?”, Hồ Chí Minh trả lời: “Nhân dân Việt Nam anh dũng
chiến đấu mục đích là thực hiện một nước hòa bình, độc lập, thống nhất, dân
chủ, tự do”(8); với câu hỏi: “Điều kiện gì là điều kiện căn bản
thương thuyết với Pháp?”, Người trả lời: “Lập trường của chúng tôi để thương
thuyết với Pháp đặng ngừng bắn, đình chiến và lập lại hòa bình ở Đông Dương là:
thật sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do”(9). Theo Hồ Chí Minh,
Việt Nam hội nhập với thế giới là thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế, hợp
tác kinh tế quốc tế là trọng tâm, mang lại lợi ích cho đất nước, không phân
biệt chế độ chính trị “các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức
khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”(10). Năm 1959,
khi trả lời báo chí về quan hệ của Việt Nam với các nước tư bản, trong đó có
Nhật Bản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cần mở rộng công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp để nâng cao sức sản xuất và cải thiện đời sống của nhân dân.
Chúng tôi cần nhiều dụng cụ, máy móc và hàng hóa của các nước, trong đó tất
nhiên kể cả nước Nhật Bản. Và chúng tôi có thể cung cấp cho những nước ấy lương
thực, cây công nghiệp và khoáng sản. Quan hệ buôn bán giữa nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Nhật Bản, nếu được cải thiện, có nhiều triển vọng tốt đẹp, có
lợi cho nhân dân cả hai nước”(11).
Ở Hồ Chí Minh, mở cửa,
hội nhập không chỉ để phát triển về phương diện kinh tế, mà còn để ngăn ngừa
chiến tranh, tránh hy sinh đổ máu cho nhân dân Việt Nam cũng như cho nhân dân
Pháp, nhân dân Mỹ, để giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc.
- Hội nhập quốc tế trên
cơ sở phát huy tối đa sức mạnh dân tộc kết hợp với việc phát huy sức mạnh quốc
tế, sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, sức mạnh dân tộc là
nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định; còn sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời
đại là nguồn lực bên ngoài, nó sẽ làm cho sức mạnh dân tộc được tăng lên và nó
cũng chỉ phát huy tác dụng thông qua nhân tố bên trong, đó là sức mạnh dân tộc.
Người nhấn mạnh quan điểm tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, “một dân
tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập”(12), phải kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho
độc lập dân tộc mình với các mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và CNXH.
- Hội nhập kinh tế quốc
tế để thu hút ngoại lực, mang ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển và thịnh
vượng của quốc gia, dân tộc. Mục tiêu nhất quán về hợp tác kinh tế quốc
tế theo Hồ Chí Minh là để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.
Quan điểm này rất gần gũi với khái niệm tăng trưởng bao trùm của quốc tế hiện
nay, khi Người hướng mục tiêu phát triển và hợp tác kinh tế quốc tế cuối cùng
là để mang lại lợi ích cho tất cả mọi người dân trong xã hội. Mấy tháng sau khi
giành độc lập, Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo về vấn đề mở cửa hợp tác kinh tế
của nước Việt Nam mới: “Có thể rằng: chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn
đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác. Có
thể rằng: chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu,
đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”(13).
Năm 1955, sau chuyến thăm Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ, trong những điều kiện
mới, Hồ Chí Minh lại nói rõ thêm: “Các nước bạn giúp ta để hàn gắn mau chóng
những vết thương chiến tranh; để tăng gia sản xuất về nông nghiệp, công nghiệp
và để phát triển thương nghiệp; để khôi phục và phát triển kinh tế và văn hóa;
để ta dần dần nâng cao đời sống của nhân dân ta”(14).
Quan điểm cơ bản, nhất
quán của Hồ Chí Minh trong hội nhập kinh tế quốc tế là để có điều kiện phát huy
những tiềm năng của Việt Nam, thu hút ngoại lực để phát huy nội lực; nội lực là
cái quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng và phải trên cơ sở tôn trọng độc
lập chủ quyền dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng
và cùng có lợi.
- Hội nhập văn
hóa quốc tế để làm giàu cho văn hóa dân tộc, phát huy sức mạnh mềm của đất nước
trong giao lưu quốc tế. Ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài cùng với nhiều
chuyến thăm chính thức các nước trên thế giới với cương vị nguyên thủ quốc gia(15),
đã tạo cơ hội cho Hồ Chí Minh có tầm nhìn thực tiễn về giao lưu và hội nhập
quốc tế về văn hóa. Người cho rằng: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của
văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại”(16). Cho nên, “Tây
phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt
Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho
văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân
chủ”(17). Quan điểm của Người là tiếp thu toàn diện tất cả cái hay,
cái tốt của văn hóa nhân loại trên nền tảng văn hóa dân tộc, cốt cách văn hóa
dân tộc, thông qua “màng lọc” chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Hồ Chí Minh được UNESCO
tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, vì những đóng góp to lớn của Người vào kho
tàng văn hóa nhân loại: “Sự nghiệp văn hóa của Hồ Chí Minh đã để lại dấu ấn
trong quá trình phát triển của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự đóng
góp quan trọng về nhiều mặt văn hóa, giáo dục, nghệ thuật kết tinh truyền thống
hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam và tư tưởng của Người là hiện thân cho khát
vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc mình và
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”(18). Chính Người
cũng là tấm gương sáng cho tình đoàn kết và hội nhập quốc tế, kết tinh thành:
“một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương
lai”(19).
- Sẵn sàng làm bạn với
tất cả các nước với tinh thần trách nhiệm cao. Tháng 1-1950, trong Tuyên
bố khi đi thăm nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ
nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của
nước Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”(20).
Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã sớm gia nhập Liên Hợp
quốc và đóng góp tích cực vào việc giữ gìn hòa bình quốc tế.
3. Nguyên tắc, phương
pháp hội nhập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Một là, luôn đặt lợi ích của
quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; tranh thủ các điều kiện thuận lợi để
gia tăng nguồn lực phục vụ cho sự phát triển của đất nước và làm giàu bản sắc
dân tộc. Đảng ta khẳng định rõ hơn mục tiêu của hội nhập và hợp tác là “Bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”(21).
Hai là, hội nhập trên cơ sở tự
nguyện và tôn trọng lẫn nhau. Phải luôn chủ động, không trông chờ ỷ lại, không
phụ thuộc, phải căn cứ vào tình hình trong nước và quốc tế để quyết định mức
độ, lộ trình hội nhập. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh, ngoại lực là quan trọng,
nhưng nội lực mang tính quyết định. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu
“phát huy vai trò quyết định của nội lực”(22); nội lực ở đây bao gồm
thực lực kinh tế và quốc phòng, về kinh tế là tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới
một cách cơ bản thể chế kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giải quyết mối
quan hệ giữa kinh tế trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước
ngoài; phát triển nhanh đi đôi với việc nâng cao hiệu quả, chất lượng và tính
bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Ba là, các nước trên thế giới
tăng cường trao đổi, cùng theo đuổi chính sách chung sống hòa bình, giải quyết
các vấn đề mâu thuẫn, tranh chấp thông qua đối thoại, đàm phán, không dùng vũ
lực. Đại hội XII của Đảng xác định, trong bối cảnh cục diện khu vực và quốc tế
diễn biến hết sức phức tạp, công cuộc hội nhập cần được tiến hành trên cơ sở
bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền và điều kiện hòa bình để phát triển, giữa yêu cầu giữ vững độc lập,
tự chủ với chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Bốn là, thiết lập mối quan hệ
hữu nghị bền chặt với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, các
nước trong khu vực Đông Nam Á và châu Á. Quan điểm của Hồ Chí Minh là đoàn kết
và tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau: “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu
là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”(23).
Năm là, phải xây dựng chính
sách mềm dẻo, linh hoạt, đặc biệt là với các nước lớn. Đồng thời phải kiên trì
đấu tranh, không để các nước lớn thỏa hiệp về lợi ích của quốc gia - dân tộc
mình, luôn giữ vững lập trường, nguyên tắc theo mục tiêu chiến lược của cách
mạng, giữ vững độc lập, tự chủ, không dao động trước bất cứ thế lực nào với
phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
4. Giá trị và ý nghĩa của
tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập quốc tế trong công cuộc đổi mới của Việt Nam
hiện nay
Di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh về hội nhập quốc tế có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự kế thừa
và phát triển truyền thống văn hóa Việt Nam về hội nhập quốc tế; kế thừa, vận
dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về hội nhập cho phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; là cơ sở nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động
đối ngoại, hợp tác quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn cách
mạng. Nhờ vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã tranh thủ
được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế; góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ
vang của dân tộc trong thế kỷ XX; góp phần hoạch định đường lối đối ngoại, hội
nhập quốc tế có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đại hội VI của Đảng mở ra
con đường đổi mới và phát triển, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế đã giúp Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng vào các tổ chức, các diễn đàn đa phương, tham gia hội nhập
quốc tế và liên kết kinh tế ngày càng sâu sắc. Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá
đúng đắn tình hình trong nước và xu thế phát triển của thế giới, điều chỉnh
chính sách, tập trung vào giải quyết những vấn đề trọng yếu trong hợp tác quốc
tế của Việt Nam bằng việc đổi mới tư duy, nhận thức nhằm tạo thế ổn định và tận
dụng điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ quá trình đổi mới, hội nhập và phát
triển của Việt Nam.
Từ tổng kết thực tiễn,
Đại hội XI (2011) của Đảng đã sửa đổi, bổ sung Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rút ra những bài học kinh
nghiệm lớn, trong đó có bài học: “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát
huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống
với yếu tố hiện đại”(24). Đại hội XII nhấn mạnh nhiệm vụ: “Thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(25). Năm 2016, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030, đây là bước cụ thể hóa Nghị quyết số 22-NQ/TW
ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
Đây cũng chính là sự vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập và hợp tác quốc tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang lại cuộc sống hạnh phúc về vật chất và tinh
thần cho nhân dân và hội nhập để đất nước sánh vai cùng với các cường quốc năm
châu.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý
luận chính trị số 1-2017
(1) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.14.
(2), (3) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.329, 287.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.14, Sđd, tr.533.
(5), (6), (7), (13) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.523, 91-92, 523, 86.
(8), (9) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.474, 475.
(10), (14) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.12, 56.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.12, Sđd, tr.293.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.7, Sđd, tr.445.
(15) Theo thống kê của
Bảo tàng Hồ Chí Minh, trong cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã đến 56 nước trên thế
giới.
(16), (17) Hồ Chí
Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1971,
tr.71, 71.
(18) Nghị quyết của
UNESCO kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam. Xem: unesdoc.unesco.org.
(19) Lời của nhà thơ Liên
Xô Ôxíp Manđenxtam trong bài báo nhan đề: “Thăm một chiến sĩ quốc tế
cộng sản - Nguyễn Ái Quốc”, đăng trên báo Ngọn lửa nhỏ (Liên
Xô) số 39, ngày 23-12-1924, Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd,
tr.462.
(20) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.6, Sđd, tr.8.
(21), (22), (25)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.153, 87, 79.
(23) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.5, Sđd, tr.163.
(24) ĐCSVN: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.66.
PGS, TS Phạm Ngọc Anh
Viện Hồ Chí Minh và các
lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2505-di-san-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-hoi-nhap-va-hop-tac-quoc-te.html