Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2018


VỀ ÔNG BÙI TÍN

Hai hôm nay, tôi đọc trên fb của một số nhà báo, trong đó có những người mà tôi quen biết, biết tin ông Bùi Tín, tức Thành Tín, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân, đào tẩu sang Pháp năm 1990 sau khi đi dự hội báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp tại Paris, đã mất.
Tôi quen biết ông Bùi Tín từ những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ trước, khi còn là Trưởng tiểu ban Nội chính thuộc Ban biên tập tin Trong nước của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), phóng viên đặc biệt đưa tin về hoạt động của Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Còn ông Bùi Tín khi ấy là Đại tá ở báo Quân đội Nhân dân sau đó được bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân. Tôi thường gặp ông trong các sự kiện chính trị quan trọng và trong một số cuộc làm việc, gặp gỡ của Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với quân đội và với giới trí thức, văn nghệ sĩ và báo chí. Tôi biết ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong tư cách là phóng viên chiến trường, ông đã có mặt tại Dinh Độc Lập và chứng kiến sự đầu hàng của Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh, kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài giành độc lập và thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Một trong những cuộc gặp và trò chuyện với ông, một nhà báo đàn anh, mà tôi còn nhớ rõ là khi cùng tham gia sự kiện về cuộc họp báo quốc tế của Võ Đại Tôn, viên Trung tá Quân đội Sài Gòn, Chỉ huy trưởng Chí nguyện đoàn phục quốc Việt Nam, từ Thái Lan qua Lào, được tướng phỉ Vàng Pao đích thân cho người dẫn đường và bảo vệ thâm nhập vào Việt Nam và bị bắt tại vùng biên giới Việt –Lào vào đầu tháng 11-1981. Khi bị bắt, Võ Đại Tôn tỏ ra thành khẩn khai báo và muốn lập công chuộc tội nên được ông Phạm Hùng, khi đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Bộ Công an sau này) quyết định tổ chức một cuộc họp báo quốc tế ở Hà Nội để đưa Võ Đại Tôn ra trước cuộc họp báo đó. Trước khi cuộc họp báo chính thức được tổ chức, Bộ Nội vụ đã tổ chức cho Võ Đại Tôn gặp các nhà báo, coi như đây là cuộc họp báo nội bộ để nghe Võ Đại Tôn bày tổ ý kiến, hết lời ca ngợi Bác Hồ và tỏ ra rất ăn năn hối lỗi về hành động xâm nhập về Việt Nam để “phục quốc” của mình. Nhưng thật bất ngờ, khi cuộc họp báo được tổ chức chính thức vào ngày 13-7-1982, trước các nhà báo quốc tế, trong đó có nhiều nhà báo từ Thái Lan, Hồng Kông sang, Võ Đại Tôn quay ngoắt 180 độ so với thái độ ăn năn, hối cải, muốn lập công chuộc tội trước đó, lên tiếng khẳng định việc làm “phục quốc” chống lại nhà nước và nhân dân ta. Sau cuộc họp báo này, báo Nhân Dân đưa tin: “Họp báo về vụ tên gián điệp tay sai của Cục tình báo Mỹ hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam”, cùng với bài của ông Bùi Tín, lấy bút danh Thành Tín, nhan đề: “Tên gián điệp đầu sỏ với mật kế Z.” Bài báo khá dài, đăng 3 kỳ trên báo Nhân Dân với những lời lẽ gay gắt lên án tội phản quốc của Võ Đại Tôn!
Từ ngày ông Bùi Tín chạy sang Pháp tôi không còn gặp ông, tuy tôi cũng có ba lần sang đây. Song tin tức về ông tôi vẫn biết qua báo chí và thông tin trên mạng xã hội, nhưng biết không tường tận. Ông đã qua đời lúc 1 giờ 25 phút sáng ngày 11 tháng Tám, tại bệnh viện André Grégoire, Montreuil, ngoại ô Paris, Pháp, thọ 91 tuổi.
Dưới đây tôi xin đưa lại bài viết của anh Nguyễn Đăng An, một người bạn đồng nghiệp, từng là phóng viên TTXVN tại Paris, nay cũng đã nghỉ hưu, về ông Bùi Tín để biết thêm về ông trong những năm ông sống tại Pháp.
“Tôi biết Bùi Tín từ những ngày Bùi Tín còn đương chức Phó Tổng biên tập Báo Nhân Dân phụ trách tờ Nhân Dân Chủ nhật. Thời đó, Bùi Tín đang nổi danh là một trong những cây viết có hạng của làng báo Việt Nam. Thông qua một người bạn, tôi đến gặp Bùi Tín và được Bùi Tín truyền cho một vài chiêu tác nghiệp. Tôi nhớ mãi bài học mà Bùi Tín hướng dẫn: “Đối với một nhà báo cách mạng, kiến thức thông tuệ và sự nhạy cảm là hai yếu tố đặc biệt quan trọng”.
Bùi Tín đưa dẫn chứng: Ngày giải phóng miền Nam, một nhà báo phương Tây hỏi tôi tại sân bay Tân Sơn Nhất: “Xin ông so sánh tướng Napoléon với tướng Võ Nguyên Giáp”. Tôi trả lời: “Napoléon còn có trận bại Aoxtéclích, còn Tướng Giáp không có trận bại nào, mà chỉ toàn thắng”. Đúng là một bài học có giá trị và rất đáng học tập.
Thế rồi, tháng 9/1990, Bùi Tín đi dự hội báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp rồi đào nhiệm luôn. Mới đầu Bùi Tín tung tin xin ở lại thêm một thời gian để chữa bệnh… Nhưng trên thực tế, Bùi Tín đã bí mật hợp tác với 13 hãng thông tấn, báo chí quốc tế và gần chục tờ báo phản động của người Việt ở hải ngoại để đăng tải những bài viết, tham luận chống lại dân tộc Việt Nam như: Kiến nghị của một công dân, Hoa xuyên tuyết, phỏng vấn đài BBC… Với tôi đó là thông tin bất ngờ ngoài dự kiến. Vì thế tôi đã mất khá nhiều thời gian để tìm hiểu.
Tháng 1/1997, tôi được Nhà nước cử sang làm phóng viên TTXVN tại Pari. Một trong những mong muốn của tôi là gặp Bùi Tín để trực tiếp nghe ông ta nói về lý do bỏ Tổ quốc ra đi. Đúng là trái đất tuy mênh mông nhưng vẫn còn chật lắm. Chỉ 10 tháng sau, tôi tình cờ gặp Bùi Tín. Hôm đó ngày 26/10, tôi cùng anh Hà Minh Huệ, lúc đó là Phó tổng biên tập TTXVN đi dự hội nghị các chủ bút Á – Âu lần thứ nhất ở Luých Xămbua trở về Paris.
Đến bến tàu đỗ đón khách, tôi không rõ ở ga nào, anh Hà Minh Huệ bỗng đập vào vai tôi hỏi nhỏ: “Này anh An, kia có phải là Bùi Tín không?”. Tôi ngước nhìn theo tay anh Huệ chỉ. Phía đối diện, một người đàn ông trán hói, thấp lùn đang vác một hộp các tông trên vai đi về phía chúng tôi. “Đúng là Bùi Tín rồi”, tôi trả lời anh Huệ và đứng lên: “Chào ông Bùi Tín”.
Vừa chào, tôi vừa giúp Bùi Tín để hộp các tông xuống và hỏi: “Ông có nhận ra chúng tôi không?”. Bùi Tín nhìn chúng tôi ngơ ngác: “Mình thấy quen quen nhưng thú thực không nhận ra ai cả”. Hà Minh Huệ tự giới thiệu mình, rồi giới thiệu tôi.
Bùi Tín à lên một tiếng: “Mình nhớ ra rồi”.
Sau những câu xã giao bình thường, anh Huệ mở đầu một cuộc nói chuyện thẳng thắn: “ở nhà chúng tôi đã đọc những bài viết và nghe những lời trả lời phỏng vấn đài BBC của ông. Chúng tôi thấy ông chửi tuốt, kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh, người mà chúng tôi biết ông cũng vô cùng kính yêu. Ông có thể giải thích vì sao không?”.
Bùi Tín lúng túng trả lời: “Mình cũng kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh chứ”. Vừa nói, Bùi Tín vừa loay hoay lục túi, lôi ra một tờ tạp chí tiếng Anh và khoe: “Tờ tạp chí vừa mới đăng bài mình viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh đây”. Anh Huệ cầm đọc một lúc rồi nhìn thẳng vào Bùi Tín nghiêm giọng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn của nhân dân thế giới nữa. Những ai viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với giọng điệu bôi đen như kiểu bài này của ông đều bị lên án, vì đó là sự vu khống và bịa đặt xấu xa”. Bùi Tín không phản ứng gì.
Sau khi phân tích và chứng minh những tình tiết sai trái nhằm ý đồ xấu trong bài báo, anh Huệ nói: “Đụng đến Chủ tịch Hồ Chí Minh là đụng đến niềm linh thiêng của cả dân tộc Việt Nam. ông biết rõ điều đó nhưng vẫn làm. Tại sao vậy?”. Lại im lặng. Tôi hỏi: “Bài viết này, tờ tạp chí trả nhuận bút cho ông được bao nhiêu?”. Bùi Tín hồ hởi trả lời: “Họ trả mình những 2.000 USD đấy”. Anh Huệ ơi, tôi thầm nghĩ, câu trả lời của ông ta chính là ở đây rồi.
Nhìn vẻ mặt vui như bắt được vàng của Bùi Tín, tôi thấy đau nhói trong lòng. Tôi biết ông ta đã bán hết những vốn liếng mà ông ta có. Bây giờ không còn gì nữa, ông ta bán nốt cái linh thiêng cuối cùng còn lại. Giận quá, tôi nói liền một mạch: “Hồi nghe tin ông đào nhiệm, tôi không thể lý giải nổi tại sao một nhà báo nổi danh và mang ơn cách mạng như ông lại ra đi. Có người giải thích vì ông mâu thuẫn nội bộ, tham nhũng, bồ bịch với gái cùng cơ quan… Tôi nghĩ những lý do này chưa đủ để ông chọn con đường quay lưng lại với dân tộc”.
Chỉ đến khi trò chuyện với dượng tôi, nhà thơ Phan Xuân Hạt, tôi mới hiểu rõ. Dượng tôi nói: “Ai chứ Bùi Tín thì dượng biết tận chân tơ kẽ tóc. Bùi Tín là người có tham vọng chính trị cực lớn. Với óc nhạy cảm thái quá, Bùi Tín cho là phe XHCN tan rã, Liên bang Xô viết sụp đổ, nước CHND Trung Hoa rối loạn, Bùi Tín tin là Việt Nam cũng sẽ nằm trong quỹ đạo đó. Và Bùi Tín đã nhanh chóng nhảy sang phía đối lập giương cờ để chờ cơ hội quay lại làm người số 1 của Việt Nam”. Tôi thấy dượng tôi phân tích đúng quá. Có lẽ những lời nói của tôi đã điểm đúng huyệt nên Bùi Tín im lặng. Ông ta ngồi yên, mắt đờ đẫn như đang trôi đi trong dòng ký ức buồn.
Lần thứ hai tôi gặp Bùi Tín tại cuộc triển lãm Mùa xuân Việt Nam do Thị trưởng Paris, Jean Tiberi, phối hợp với cộng đồng Pháp ngữ tổ chức tại Forrum des Halles – Trung tâm văn hóa Pari từ 20/3 đến 20/5/2008. Đây là hoạt động mang tính quốc gia giữa hai nhà nước. Sự xuất hiện của Bùi Tín tại cuộc triển lãm này làm tôi và các đại diện của sứ quán Việt Nam hết sức bất bình. Tôi hỏi Thị trưởng Jean Tibveri: “Thưa ngài, hình như phía Pháp có mời ông Bùi Tín đến dự cuộc triển lãm Mùa xuân Việt Nam?”.
Thị trưởng Tiberi trả lời: “Không, phía Pháp không mời. Có thể thông qua quảng cáo, giới báo chí và công chúng biết nên tự do đến tham dự thôi”. Đại diện sứ quán Việt Nam nói ngay: “ông Bùi Tín là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Chúng tôi không chấp nhận sự có mặt của ông ta ở tất cả các hoạt động mang tính quốc gia giữa Pháp và Việt Nam”. Ngay lập tức, Thị trưởng Tiberi cho người đến mời Bùi Tín rút khỏi cuộc triển lãm. Nhìn Bùi Tín thất thểu ra về, tôi tiến đến: “Ông nên biết, nhân dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận sự có mặt của ông ở những lễ hội như thế này”.
Lần thứ ba, tình cờ tôi gặp Bùi Tín trên đường phố. Tôi mời Bùi Tín vào quán cà phê. Bùi Tín kể cho tôi nghe câu chuyện ông ta mang ơn nước Pháp vì đã mổ thành công chứng đau dạ dày cho mình. Sau khi chỉ cho tôi xem vết mổ dài như chiếc đũa còn hằn rõ trên bụng, Bùi Tín nói: “Vết mổ mất nhiều nghìn USD đấy. Nếu ở nhà mình lấy đâu ra tiền để chữa”. Tôi nói: “ông nghĩ vậy là không đúng. Để tôi kể cho ông nghe câu chuyện này: ông có biết Mai Văn Hạnh chứ?”. “Biết”, Bùi Tín trả lời – “Đó là người Việt có quốc tịch Pháp bị Việt Nam tuyên bố tử hình nhưng được Pháp cứu”.
Biết Bùi Tín nói chưa đủ về Mai Văn Hạnh – một trong những tên cầm đầu nhóm phản động từ nước ngoài đột nhập vào trong nước nhằm lật đổ nhà nước Việt Nam, tôi bỏ qua để đi vào điểm chính: Có một lần tôi gặp Mai Văn Hạnh tại nhà một Việt kiều ở ngoại ô Paris. Trong cuộc gặp đó, tôi và Mai Văn Hạnh tranh luận với nhau rất quyết liệt về nhân tình thế thái. Bí thế, Mai Văn Hạnh nói: “Tôi theo chân lí được làm vua thua làm giặc. Nếu trong cuộc đấu ấy tôi thắng tôi sẽ làm vua. Nhưng kết cục tôi đã thua thì tôi phải làm giặc”.
Về điểm này, tôi khen Mai Văn Hạnh đã thẳng thắn nói rõ ý đồ “làm vua, làm giặc” của mình. Nhưng tôi còn khen Mai Văn Hạnh thêm một điểm khác nữa. Đó là khi Mai Văn Hạnh trung thực thừa nhận: “Dù sao thì tôi cũng cảm ơn Nhà nước Việt Nam đã cứu sống tôi khi tôi bị đau ruột thừa cấp tính. Bác sĩ Việt Nam giỏi lắm. Họ mổ miễn phí cho tôi nhẹ tênh mà không để lại tì vết nào trên cơ thể”.
Khỏi cần bình luận gì thêm, tôi biết Bùi Tín đã hiểu được nội dung giống và khác nhau trong 2 ca mổ này. Nhân thể tôi nói luôn cho Bùi Tín biết nỗi đau mà Bùi Tín phải gánh chịu khi chọn con đường chống lại nhân dân mình. Tôi hỏi: “ông có biết về 3 nỗi đau mà ông đang phải chịu đựng không?”. Bùi Tín trả lời: “Tôi không biết?”. “ông có muốn nghe không?”. “Có”.
“Nỗi đau thứ nhất, ông bị nhân dân Việt Nam coi như một Trần ích Tắc phản nước hại dân. ở Việt Nam ai cũng căm ghét Bùi Tín. Ai cũng cho rằng Bùi Tín là kẻ vô ơn bạc nghĩa.
Nỗi đau thứ hai, giới trí thức ở hải ngoại cho rằng Bùi Tín được ăn rất nhiều lộc của Việt Nam mà trở cờ như vậy là “thất đức, khó tin”. Trong một lần cùng tiến sĩ Trần Ngọc Vương đến thăm họa sĩ Lê Bá Đảng, Đặng Tiến, nhà phê bình nổi tiếng ở hải ngoại, đã nhận xét: “Bùi Tín thuộc loại ăn cháo đái bát không đáng chơi”. Ngay đến Võ Văn Ái, tờ Quê mẹ và Nguyễn Gia Kiểng tờ Thông luận rất phản động cũng viết bài miệt thị coi Bùi Tín là “phần tử bất hảo không đáng tin”.
Nỗi đau thứ ba, nhiều Việt kiều yêu nước không thể tin được hành động chạy trốn của Bùi Tín nên đoán già đoán non rằng Bùi Tín giả danh đào nhiệm để hoạt động gián điệp. Chính vì lẽ đó có người đã cho Bùi Tín vay khá nhiều tiền mà mãi đến nay vẫn không dám đòi”.
Nghe tôi nói, Bùi Tín ngồi bất động trên chiếc ghế bọc vải trắng của nhà hàng tầm bậc trung ở thủ đô Paris hoa lệ. Trong ánh đèn nhập nhòa, mặt Bùi Tín trắng bệch không còn một giọt máu. Đúng là Bùi Tín đang ngấm vị đắng chát của ba nỗi đau cay đắng này. Tôi tiếp tục: “Bùi Tín nên biết rằng, Bùi Tín giống như quả chanh có ít nước đã bị người ta vắt sạch. Nay quả chanh vô giá trị, Bùi Tín đã bị người ta vứt vào sọt rác rồi. Bùi Tín có nhận ra điều ấy không?”. Biết trả lời thế nào được. Đúng là tôi đã hỏi khó Bùi Tín. Tôi sẽ không hỏi gì nữa. Tôi ngồi yên để Bùi Tín nhấp nháp ly cà phê gần như vẫn còn nguyên trên bàn.
Lần thứ tư, trước khi về nước, tôi gọi điện mời Bùi Tín ăn bữa cơm chia tay. Lần này tôi hỏi: “ông Bùi Tín có nhớ nước không?”. Như chạm đúng vào mạch cảm xúc thiêng liêng, đang ăn, Bùi Tín bỗng buông đũa, chống tay lên bàn, rơm rớm nước mắt: “Có, mình nhớ nước lắm. Có đêm mình mơ được về nước. Sướng quá mình vất dép đi chân trần chạy dọc theo bờ Hồ, thỉnh thoảng dừng lại đưa tay với những rặng liễu đang rủ bóng xuống mặt hồ xanh biếc. Có lần mình mơ được chạy mấy vòng quanh Hồ Tây lộng gió. ôi những giấc mơ đó sao mà hạnh phúc…”. Tôi hỏi: “Thế ông Bùi Tín có muốn về nước không?”. Bùi Tín nhìn tôi: “An nói đùa đấy chứ”. Tôi khẳng định: “Tôi nói thật 100%”. Bùi Tín thở dài: “Tôi không tin. Tôi nghĩ là họ sẽ không cho tôi về”. Tôi quả quyết: “Với tư cách là một công dân của nước Việt Nam, tôi xin bảo lãnh cho ông về nước”. Bùi Tín hoang mang: “An nói cụ thể hơn xem nào”. “Tất nhiên là phải có điều kiện”, tôi tiếp tục: “Bùi Tín ra đi như thế nào thì hãy trở về như thế”. “Nghĩa là làm sao?”. Bùi Tín hỏi. Tôi trả lời: “Nghĩa là khi đi Bùi Tín lên đài báo chửi bới dân tộc, thì bây giờ Bùi Tín lại lên đài báo tạ lỗi xin đồng bào tha cho những lỗi lầm nghiêm trọng mà Bùi Tín đã mắc phải trong nhiều năm qua. Với bản chất nhân ái cao cả, tôi tin nhân dân Việt Nam sẽ cho Bùi Tín cơ hội được trở về”. Nghe tôi nói, Bùi Tín ngồi lặng im một lát rồi mới tự thú: “Mình không làm được nữa”.
Bùi Tín sinh năm 1927, tính đến nay đã 85 tuổi. Bùi Tín luôn đau ốm, sống đơn độc không bằng hữu và đã sạch vốn bán chữ kiếm tiền. Với đồng lương thất nghiệp nhà nước Pháp cho, Bùi Tín chỉ đủ trả tiền thuê nhà. Bùi Tín phải chạy vạy kiếm tiền nuôi thân và nuôi cả cô Hà, một thợ cắt tóc Hà Nội được Bùi Tín đưa sang cưu mang che chở. Bùi Tín phải sống như thế nào đây ở những năm tháng cuối đời? Tôi biết Bùi Tín đã hiểu rất rõ cái giá cay đắng mà Bùi Tín phải trả cho tham vọng chính trị thái quá một thời của mình.
Biết là sẽ khó làm nhưng còn cách nào tốt hơn con đường trở về với cội nguồn – nơi có truyền thống chỉ “đánh kẻ chạy đi chứ không bao giờ đánh người quay lại”. Chính vì lẽ đó tôi vẫn muốn Bùi Tín hãy dũng cảm hối cải, lên lại đài báo thú tội trước nhân dân, ít ra cũng là để “lập công chuộc tội”
Nguyễn Đăng An
Nguồn: https://ngheanthoibao.com/ve-ong-bui-tin/


ƯỚC NGUYỆN CUỐI ĐỜI CỦA ÔNG BÙI TÍN

KHÔNG THÀNH

Ông Bùi Tín đã qua đời lúc khoảng 1 giờ sáng ngày 11/8/2018 tại Paris – Pháp, hưởng thọ 91 tuổi.
Từng là đại tá quân đội nhân dân Việt Nam, phó Tổng biên tập báo Nhân dân. Lẽ ra Bùi Tín đã có thể sống và cống hiến cho xã hội như một người anh hùng, một người có công với đất nước. Thế nhưng Bùi Tín lại chọn con đường quay đầu với dân tộc, liên kết với các thế lực phản động xuyên tạc lịch sử chống phá đất nước. Cuối cùng số phận là phải chết lưu vong không kèn không trống ở xứ người.
Khi còn sống ông cầu nguyện được trở về và nhắm mắt xuôi tay tại quê nhà sau nhiều năm lưu lạc đất khách quê người. Ông mong muốn chế độ cộng sản sớm sụp đổ để ông hiên ngang trở về Việt Nam để không mang tai mang tiếng, ông đã chờ đợi gần 30 năm qua. Thế nhưng giờ này cuộc đời ông đã khép lại, với bao dở dang toan tính của riêng mình. Mong muốn của của ông mãi mãi không thành. Ông trở về hư vô, hư không. Và nhiều người nói rằng cái kết cho những kẻ phản bội là sự lãng quên.
Những kẻ già đầu đang còn hão huyền mộng tưởng thì nhìn vào gương này để mà soi nhé.
Chỉ một ước nguyện được trở về đất mẹ trước khi nhắm mắt mà không thành.
in chia buồn với đại gia đình ông- một kẻ từng quay lưng lại với Dân tộc Việt Nam!
Chúng ta hãy điểm qua về đoạn sau cuộc đời kẻ bạc nhược Bùi Tín.
Bùi Tín sinh năm 1927, Tín có tài làm báo và đã từng giữ chức vụ Đại tá, Phó Tổng biên tập báo Nhân dân.
Là người có tham vọng lớn và mắc bệnh thèm địa vị, trước biến cố của các nước trong hệ thống XHCN vào cuối thập niên 90, vốn có tiếng là “nhanh nhạy” nên vị đại tá này cho rằng chỉ vài tháng nữa, nước Việt Nam XHCN rồi cũng sẽ bị sụp đổ và nhanh chóng lên kế hoạch “chiêu hồi” với những mong sẽ quay trở lại với vị thế cao hơn.
Tháng 9 năm 1990 Bùi Tín được cử sang Pháp dự hội nghị hàng năm của báo L’Humanites (Nhân Đạo, báo của Đảng Cộng sản Pháp), do đã cấu kết với các tổ chức chống cộng từ trước, Tín trốn ở lại, rồi xin tỵ nạn chính trị tại Pháp, với lý do là để “đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền”.
Và điều tiếp theo có lẽ không cần phải nói chắc mọi người cũng hiểu. Đã chót tay nhúng chàm, đâm lao thì phải theo lao, Bùi Tín không thể làm theo điều mình nghĩ. Y phải nói, phải viết, phải điên cuồng chống cộng, bởi đó là cái duy nhất mà phía bên kia cần ở Tín. Nếu không phải vậy, người ta nuôi báo cô Tín làm gì. Chỉ tội cho người thân, gia đình Bùi Tín. Thà Tín lâm bệnh mà chết hay đơn giản lao vào cái xe đang chạy trên đường nào đó mà đi thì có lẽ hình ảnh Tín trong vai người chồng, người cha mẫu mực sẽ còn mãi trong ký ức họ, để rồi họ có thể đem ra khoe, kể về những kỷ niệm hạnh phúc ngọt ngào khi gia đình còn đoàn tụ bên nhau với bạn bè và cả thế hệ mai sau của dòng tộc với cả sự tự hào. Nhưng thực tế thật trớ trêu, Bùi Tín không chết theo cách ấy, hắn sống và âm thầm giết từng thành viên trong cái gia đình đã từng hết mực kính trọng yêu thương hắn. Tín giết họ bằng những hành vi đê hèn của mình. Y trả lời phỏng vấn các đài quốc tế, viết bài, viết sách, nói chuyện… thôi thì đủ kiểu miễn là để chứng minh được với các quan thày hải ngoại là y là một tên vong nô số 1. Y lớn tiếng xuyên tạc tình hình trong nước, đả phá cái chế độ mà mới ngày hôm qua đây thôi còn trọng dụng và nuôi dưỡng y. Láo hỗn hơn, hắn còn xuyên tạc và bôi nhọ Hồ Chủ Tịch, người đã hy sinh suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Cũng chính Bác là người đã tạo điều kiện để Bùi Tín được phát triển.
Và mới đây thôi khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần, Bùi Tín cũng lại trả lời phỏng vấn RFI bôi nhọ vị Tướng kính yêu của cả dân tộc chúng ta.
Thật nhục nhã cho một kiếp trâu, ngựa như Bùi Tín. Song nói cho cùng Tín cũng thật đáng thương. 88 tuổi, có lẽ ở tuổi này,giống như bao người khác, Bùi Tín cũng đã nghĩ đến hậu sự của mình. Nếu như những người Việt bình thường khác, ai cũng mong muốn có một mái nhà bình yên, con cháu vui vầy khi về già và nhất là khi ốm đau được người thân chăm sóc, khi ra đi, linh hồn mình được thấy người thân đưa tiễn thương tiếc, khóc than và hơn hết được nằm ở đâu đó gần gũi và được con cháu thỉnh thoảng đến viếng thăm. Tất cả những điều giản dị tưởng như tất yếu với những người bình thường thì với Bùi Tín đó chỉ là những giấc mơ không có thật. Bởi ngay khi còn sống, người thân, gia đình, đồng đội, bè bạn đã chôn chặt ông ta với tấm bia miệng ghi rõ “sống nhục, chết càng nhục”.
Bùi Tín sống như chết trên căn gác xép chật chội cùng một người phụ nữ. Tín bị người Việt hải ngoại nghi kỵ, dò xét. Ngay đến Võ Văn Ái, chủ biên tờ Quê mẹ và Nguyễn Gia Kiểng tờ Thông luận rất phản động cũng viết bài miệt thị coi Bùi Tín là “phần tử bất hảo không đáng tin”. Mới đây thôi ngày 23/6/2012, trong cuộc nói chuyện tại San Joses – Mỹ, chính Bùi Tín đã bị cộng đồng người Việt tẩy chay, chửi rủa, đuổi khỏi diễn đàn. Nhìn cảnh Bùi Tín già nua, dúm dó, bị nhóm cờ vàng la hét, chửi bới, bắt phải quỳ xin lỗi vì đã làm bộ đội giải phóng miền Nam mới thấy hết sự nhục nhã của Tín. Còn đâu Đại tá Bùi Tín, Phó Tổng biên tập báo Nhân dân, vua biết mặt, chúa biết tên, còn đâu nữa bóng dáng hiên ngang của một viên sỹ quan cấp cao của quân giải phóng Việt Nam có mặt tại dinh Độc lập vào đúng ngày giải phóng đất nước 30/4/1975???. Bùi Tín luôn đau ốm, sống đơn độc không bằng hữu. Với đồng lương thất nghiệp nhà nước Pháp cho, Bùi Tín chỉ đủ trả tiền thuê nhà. Không biết buôn, biết bán, Tín cố sống bằng nghề chửi lại đất nước đã sinh ra và nuôi nấng hắn, dẫu cái vốn này đến giờ cũng cạn. Tất cả chỉ mong có miếng mà bỏ vào mồm. Tín đâu còn có thể nghĩ khi Tín chết người ta sẽ tổ chức hậu sự cho hắn thế nào bởi đến miếng ăn hàng ngày y còn chẳng lo nổi. Thật tội cho Bùi Tín song nghĩ cho cùng đó là cái kết cục tất yếu của những kẻ phản bội, bán nước cầu vinh.
Than ôi! Chết là chấm hết cuộc đời một con người, nhưng sống phải làm sao để khi nhắm mắt người đời đừng ghẻ lạnh. Bùi Tín nhưng không có tín, Tín mất từ lâu rồi!
Âu là: Trâu chết để da- người chết để tiếng! Tiếng của ông để lại như là lời cảnh tỉnh đến khổ nhục cho nhiều thế hệ người, đặc biệt là những ai đã và đang “dấn thân” phản dân hại nước. Ông đã trở thành người thiên cổ ở xứ người, từ nay cát bụi hư vô sẽ xoá nhoà đi đôi mắt đậm buồn hối hận của ông – một người có tài mà không có đức.
Điền Mạch
Nguồn: https://ngheanthoibao.com/uoc-nguyen-cuoi-doi-cua-ong-bui-tin-khong-thanh/


Đặng Xương Hùng – một Bùi Tín thứ hai

Sau bài viết về Bùi Tín,nhiều người nhắn tin hỏi tôi liệu rằng hiện nay còn bao nhiêu những kẻ như Bùi Tín đang tồn tại. Xin trả lời là không phải ít, nhưng cái tên được nhắc đến nhiều nhất phải kể đến là Đặng Xương Hùng.
Về gốc gác tên này, tôi xin đưa ra một vài thông tin sau: Đặng Xương Hùng sinh ngày 13/9/1961, tại số nhà 172 Bà Triệu- Hà Nội.Sinh ra và lớn lên trong một gia đình căn bản, Đặng Xương Hùng đã được nhà nước cho hưởng quá nhiều đặc ân với 2 nhiệm kỳ công tác ở Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia, được Bộ Ngoại Giao cho đi học ở Đại học Victoria University, Wellington, Newzealand. Năm 2008, Xương Hùng được nhà nước tin cậy bổ nhiệm làm lãnh sự Ngoại giao tại Thụy Sĩ, một địa bàn được coi là có nhiều thuận lợi cho những người đi sứ. Cùng với Hùng, vợ và 2 đứa con Đặng Hùng Linh và Đặng Khánh Linh đều đã được nhà nước tạo điều kiện sang Thụy Sĩ theo chế độ ngoại giao, được nuôi và ăn học tại Thụy Sĩ bằng tiền thuế của nhân dân.
Thấy cuộc sống sung túc nơi xứ người, Hùng đã toan tính cho mình một cuộc sống riêng tại Thụy Sĩ. Có điều cái cách mà Hùng đánh đổi thì thật quá đau lòng với y và với các thành viên gia đình. Năm 2012, hết nhiệm kỳ Đại sứ tại Thụy sĩ, Hùng về nước và được bổ nhiệm làm vụ phó – Bộ Ngoại giao. Tuy nhiên Hùng vẫn thuê nhà tại Thụy Sĩ để vợ của mình ở lại chăm sóc hai con đang theo học tại Thụy Sĩ. Hùng bí mật bán nhà riêng tại số 6, ngách 4, Ngõ 295 Thụy Khuê, Hà Nội để mua căn nhà riêng tại Thụy Sĩ. Rồi sau đó y nói dối cơ quan là xin nghỉ phép rồi trốn sang Thụy Sĩ. Hết phép vẫn không thấy y đi làm, nhiều ngày sau đó cơ quan chủ quản là Bộ Ngoại giao mới biết rằng Hùng đã trốn sang Thụy Sĩ.
Căm phẫn nhất phải kể đến đoạn Hùng xin ở lại tị nạn. Để chứng minh mình là nạn nhân của chính quyền, Đặng Xương Hùng đã tìm cách xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm tìm kiếm cơ hội được tỵ nạn chính trị. Thậm chí, để thực hiện mục tiêu của mình, Đặng Xương Hùng còn bôi xấu chủ tịch Hồ Chí Minh: “Gần đây những bí mật của ông Hồ Chí Minh đã bị phơi bày. Ông Hồ Chí Minh đã bị nghi ngờ là một người Trung quốc, có tên là Hồ Tập Chương, do Quốc tế cộng sản dựng lên, thay thế cho Nguyễn Ái Quốc, người đã chết năm 1932.Mọi niềm tin đã bị đánh cắp. Tôi tuyên bố ra khỏi đảng.” Kể từ đó đến nay, Đặng Xương Hùng thường xuyên có những bài viết, lời nói xúc phạm, phỉ báng dân tộc, đất nước, vu cáo Việt Nam.
Bán anh em, bán bạn bè, bán cả lý tưởng của mình, chẳng biết còn lại gì cho Đặng Xương Hùng nơi đất khách quê người. Chỉ biết cũng giống như Bùi Tín, đến tận ngày hôm nay, Hùng vẫn phải mài lưng ra viết bài chống Cộng để hòng kiếm được vài đồng tiền nơi đất khách quê người.
Đối với y, một cái kết như của Bùi Tín chắc không xa!
Lê Dung Anh
Nguồn: http://ngheanthoibao.com/dang-xuong-hung-mot-bui-tin-thu-hai/


PHONG CÁCH TÔN ĐỨC THẮNG
Phong cách Tôn Đức Thắng được hình thành và hoàn thiện từ tinh hoa dân tộc mà cốt lõi là văn hóa Nam Bộ với quá trình tu dưỡng, hoạt động trong phong trào công nhân, đặc biệt là chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, lý tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Phong cách Tôn Đức Thắng là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng.
1. Chất Nam Bộ  với phong cách Tôn Đức Thắng
Truyền thống văn hóa, lịch sử của Long Xuyên nói riêng, Nam Bộ nói chung đã hun đúc lòng yêu nước và tinh thần cộng sản cho người thanh niên Tôn Đức Thắng. Nam Bộ là vùng đất mới, vùng cửa sông giáp biển tạo nên những đặc thù. Trong quá trình khai phá vùng đất mới hoang vu hiểm trở, con người đồng bằng sông Cửu Long rũ bỏ được tư tưởng bảo thủ để sống thực tế hơn, rộng lượng hơn trong sinh hoạt và giao tiếp xã hội. Lấy hiệu quả làm thước đo, họ ít lý thuyết kiểu giáo điều mà kiên cường, khí phách hiên ngang, dũng cảm, tự lập; linh hoạt ứng phó, dám thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, thích nghi nhanh, dám nghĩ dám làm. Tinh thần anh dũng “trọng nghĩa khinh tài”, nghĩa khí trở thành tập tục, nếp sống, triết lý sống: “Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi”(1) (việc nghĩa phải làm không kể thành bại). Một trong những đặc điểm nổi trội của chất người Nam Bộ là vì nghĩa. Nghĩa là lẽ phải, điều phải, điều phải làm, không kể điều ấy lợi hay hại cho ta. Nghĩa là đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng, vì đại nghĩa mà dám hy sinh cá nhân cho đất nước(2). Tinh thần quật khởi mang hào khí, dấu ấn Nam Bộ biểu lộ một thái độ hiên ngang, có ý thức xả thân vì nghĩa khí. Nhờ đó mà nhân dân đồng bằng sông Cửu Long giữ được tinh thần quật khởi mang dấu ấn Nam Bộ. Những địa danh Cao Lãnh, Mười tám thôn Vườn Trầu, Đồng Tháp, U Minh, Củ Chi, Hòn Đất, v.v.. là những thành đồng, vách sắt, vừa ghi lại những sự tích oai hùng của dân tộc, vừa qua đó toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của con người đồng bằng sông Cửu Long. Lòng yêu nước, tinh thần anh dũng, bất khuất “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ” kiểu Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân cùng hàng trăm cuộc khởi nghĩa đã đắp bồi lòng yêu nước thương dân, một cơ sở hình thành phong cách Tôn Đức Thắng.
Tuổi học trò, Tôn Đức Thắng (thường gọi Hai Thắng) là một thiếu niên thông minh, thích nghe thơ văn và chuyện lịch sử. Thầy Năm Khách (Nguyễn Thượng Khách) thường kể cho Hai Thắng nghe những câu chuyện về tấm gương yêu nước, như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Đốc Bình Kiều, Thiên Hộ Dương… Thầy còn đọc thơ của các chiến sĩ trong nhóm Đông kinh Nghĩa thục cho Thắng nghe. Một trong những đức tính quý của trò Hai Thắng trong những giờ học là nêu nhiều câu hỏi liên quan đến người Pháp có mặt ở Việt Nam, việc người Pháp giết người, thu thuế, bắt dân mình đi xâu. Có những câu hỏi chung, như: nước Pháp ở tận đâu? Họ có bị nước khác đến cai trị như nước mình không? Họ có làm ruộng, làm thợ như nước mình không? Qua những câu hỏi, thầy Năm Khách nhận xét Hai Thắng là một học trò không chỉ hiếu học mà còn thông minh. Cách hỏi cho thấy trò Thắng bước đầu có suy nghĩ độc lập về thời cuộc, về cái đúng, cái sai. Từ đó, thầy Năm Khách tiếp tục bồi dưỡng Hai Thắng bằng cách cho mượn và hướng dẫn những sách cần đọc. Lòng say mê học tập, ham hiểu biết của Hai Thắng mỗi ngày được nung nấu thêm, bộc lộ dần tính cách riêng.
Sau khi học xong bậc tiểu học ở Long Xuyên, vừa không có điều kiện học tiếp bậc trung học, vừa do ngọn lửa yêu nước thôi thúc, Hai Thắng đã quyết định đi tìm con đường mới theo tiếng gọi của trái tim mình, mà sau này lịch sử đã chứng minh đó là “phương hướng tốt, hợp thời đại”(3). Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng nhận xét “Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn không phải hoàn toàn chỉ với hành trang của một nông dân giống như một nông dân Nọc Nạn hay Càng Long. Đã có một cái gì đó chớm nở trong đầu Tôn Đức Thắng”(4).
“Cái gì đó” mà Trần Bạch Đằng nói tới là khi Tôn Đức Thắng chào đời nước ta bắt đầu nô lệ nước ngoài. Còn riêng An Giang, cảnh tượng đau lòng diễn ra sớm hơn, từ 1867, tức 21 năm trước khi Cù lao Ông Hổ sản sinh ra nhân vật sau này trở thành tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt Nam.
“Cái gì đó” là chuyện khởi nghĩa Bãi Thưa ngay trên quê hương An Giang, chuyện Mười tám thôn Vườn Trầu, chuyện Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám.
“Cái gì đó” là ta hiểu Tôn Đức Thắng từ góc độ một người dân miền châu thổ sông Cửu Long tuổi thành niên trùng khớp với những năm đầu thế kỷ XX - nhiệt tâm yêu nước trước bao ngã rẽ và là nhiệt tâm yêu nước của một con người không xuất thân từ vọng tộc thế gia hay từ sĩ phu, một thanh niên con nhà không giàu mà không phải thuộc tầng lớp bần cố nông. “Tôn Đức Thắng, trên ý nghĩa ấy, đại diện được cho số đông nhân dân Nam Bộ, những tầng lớp mà hành động xuất phát từ nhận định của bản thân qua quan sát và tự hòa lẫn vào cuộc sống khi chủ nghĩa thực dân đã đứng vững và khi văn minh công nghiệp lần hồi chiếm lĩnh các điểm mấu chốt trên mặt bằng chính trị, kinh tế, xã hội ở Nam Bộ Việt Nam”(5).
“Cái gì đó” chính là Cù lao Ông Hổ sát thành phố Long Xuyên, không xa Chợ Mới, không xa Cù lao Giêng. Cù lao Ông Hổ nơi Tôn Đức Thắng sinh ra được thiên nhiêu ban cho nhiều ưu đãi nhưng cũng không ít khắc nghiệt, thử thách. Vì vậy, người dân cù lao chịu thương, chịu khó, hiền lành nhưng cũng rất táo bạo, dũng cảm, đoàn kết với một lối sống nhân ái, phóng khoáng. Tức là những yếu tố tác động từ bên ngoài vào nhân dân một vùng sớm khai phá nhờ phù sa đắp bồi và các cù lao phì nhiêu, thuận lợi giao thông, là địa bàn sớm sản xuất hàng hóa từ những sản vật nông nghiệp; là nơi văn hóa phương Tây, qua đạo Thiên Chúa - thâm nhập vào.
Tư chất thông minh, ham học, cứng cỏi, thích bênh vực kẻ yếu ngày càng bộc lộ rõ nét trong con người Hai Thắng khi học ở Trường tiểu học Long Xuyên và trong “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Hình ảnh hiên ngang, bất khuất của người tù khổ sai Tôn Đức Thắng trong Hầm xay lúa ở ngục tù Côn Đảo thể hiện phong cách sống, phong cách chiến đấu. Đó mãi mãi là bản anh hùng ca của người cộng sản trước quân thù. Nguyễn Duy Trinh, người bạn tù với Tôn Đức Thắng kể: “Tôi mến phục tinh thần bình đẳng, dân chủ thực sự, tính thật thà cầu chân lý của người đồng chí lớn tuổi. Được gần gũi anh Thắng ở Khám Lớn (Sài Gòn) cũng như sau này ở Hầm xay lúa Côn Đảo, tôi cũng như tất cả anh em bao giờ cũng quý yêu ở đồng chí đức khiêm tốn rất cao, tấm lòng ngay thẳng, độ lượng, ý thức tập thể vững chắc”(6).
2. Phong cách lãnh đạo không tỏ ra là người có quyền lực, ham quyền lực
Anh em, bạn bè, đồng chí phát hiện ra nhiều điều đặc biệt trong phong cách Tôn Đức Thắng. Giáo sư Trần Văn Giàu kể: “Trong nhà Bác ở Hà Nội bao giờ cũng có một chỗ để sửa xe, hình như Cụ “ghiền” máy móc thì phải, xe đạp của con cháu hư hỏng thì Cụ Tôn tự sửa. Là Phó Chủ tịch nước mà Cụ thật bình dị. Cụ thường mặc chiếc áo nâu và việc ăn uống của Cụ cũng bình thường. Khi tôi đến thăm thì vào cửa sau, mà khi ra về bao giờ Cụ Tôn cũng đưa ra tận cửa cái. Cụ Tôn khi là Phó Chủ tịch mà tôi thấy vẫn cưỡi xe đạp. Cụ thường mặc áo nâu, sống hết sức giản dị”(7).
Phong cách Tôn Đức Thắng được nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau, như: phong cách làm việc dân chủ, tập thể, quần chúng, nêu gương, chu đáo, cẩn thận, ngăn nắp, có mục đích, kế hoạch rõ ràng; phong cách lãnh đạo không bao giờ tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ.
 Tôn Đức Thắng là người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người hoạt động không mệt mỏi trong thực tiễn và rất ít nói về mình. Cuộc đời và sự nghiệp Tôn Đức Thắng tỏ rõ phong cách “mỗi đảng viên và cán bộ phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”(8). Phong cách Tôn Đức Thắng là phong cách “một con người bình thường - vĩ đại”(9). Theo Trần Bạch Đằng, Tôn Đức Thắng không phải là nhà lý luận, nhà tư tưởng hay nhà sáng tác. Tôn Đức Thắng là con người hành động, hành động tiên phong. “Bác Tôn luôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại. Không phải dễ thành bất tử như Bác Tôn - Ủy viên Trung ương Đảng nhiều năm, đứng đầu Mặt trận  đoàn kết dân tộc hàng mấy thập kỷ liền, thay Bác Hồ giữ cương vị Chủ tịch nước - nhưng chưa một lần Bác tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ. Bác thích vị trí một đảng viên cộng sản như mọi đảng viên, thích vị trí công dân trung thực, lương thiện, cố mang điều tốt, cố mang niềm vui, cố giảm nỗi đau cho đồng bào. Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người, coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay. Kính chào Tôn Đức Thắng tức kính chào nền luân lý vĩ đại trong cái bình thường, bình thường một cách vĩ đại”(10).
Trên sáu mươi năm đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng giai cấp công nhân, Tôn Đức Thắng đã tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “con người bên trong của Bác Tôn, ở tuổi 90 mà phẩm chất cách mạng kiên cường ở Bác vẫn trong sáng, hồn nhiên. Năm tháng và bão tố có làm thay đổi nhiều về dáng vẻ bên ngoài, nhưng tâm hồn và ý chí cách mạng, tình cảm với đồng bào, đồng chí, sự khiêm tốn giản dị, lòng vị tha quên mình thì không hề thay đổi. Đó vẫn luôn luôn là đức tính của người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng”.
Từ năm 1946, Bác Tôn có nhiều năm hoạt động và sống gần gũi với Bác Hồ, Giữa hai Bác đã hình thành một tình thân ái, gắn bó sâu sắc. “Cũng như Bác Hồ, Bác Tôn là một con người đẹp từ việc lớn đến việc nhỏ, lúc ở Côn Đảo cũng như lúc ở Phủ Chủ tịch. Và cũng như Bác Hồ, Bác Tôn rất vui tính, thích bông đùa, nói ít, làm nhiều, suốt đời hiến dâng nghị lực, tài năng và tâm huyết cho sự nghiệp lớn của nước, của dân”(11).
GS Trần Văn Giàu cho rằng “Cụ Tôn không phải là một nhà lý luận mà là người tiên phong cách mạng, người mà cả cuộc đời dành cho giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng dân tộc. Cụ Tôn là người không viết sách. Trên đời lắm người, lắm nhân vật không viết một quyển sách nào mà người đời vẫn nhắc nhở luôn về con người ấy, nhân vật ấy. Cụ Tôn khác với những nhân vật khác ở chỗ, Cụ không có một tác phẩm nào cả, có chăng là chúng ta ghi lại những điều Cụ nói thôi. Tuy nhiên, theo tôi, tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một người hành động, một người có lẽ không có ý gì muốn để lại cho đời sau bằng các tác phẩm của mình. Nhưng thực tế Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều “tác phẩm” bằng hành động, bằng việc làm và những lời nói. Đó là những tác phẩm hay hơn nhiều những bài viết”(12).
Được gặp Cụ Tôn nhiều lần ở An toàn khu, một lần duy nhất được chụp ảnh với Cụ, Giáo sư Trần Văn Giàu chia sẻ “đời của Tôn giản dị đến thế thì cần phải có những bài viết hay để nêu lên được tấm gương giản dị của Cụ, làm nhiều, nói ít, không đòi hỏi gì về vật chất, thương anh em, nhất là đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc, đó là những tấm gương sáng của Cụ Tôn”.
Đồng chí Hà Đăng, khi còn là trợ lý Tổng Bí thư, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương viết về Tôn Đức Thắng-người bạn lớn của Bác Hồ, kể lại nhiều câu chuyện thú vị về phong cách của Bác Tôn: “Dù là Chủ tịch nước, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận, Bác Tôn luôn luôn sống một cuộc sống khiêm tốn và giản dị, nhân từ và đức độ, trung thực và nghĩa tình, khiến cho mọi lớp tuổi đều nhìn thấy ở Bác một người anh cả, một người cha, một người ông trong gia đình. Chúng ta đã nghe nói nhiều về những chuyện sinh hoạt bình thường của Bác mà cứ như nghe những câu chuyện huyền thoại. Bác được tin có người bạn tù cũ đang công tác ở nông trường Lương Sơn (Hòa Bình), đã tự mình đến thăm mà không chờ bạn đến với mình, bởi Bác nghĩ “có thể bạn bè thấy tôi làm Chủ tịch nước họ ngại nên tôi phải đến gặp trước”. Bác dành một phần tiền lương hàng tháng của mình để nuôi con một cán bộ không may qua đời. Bác tự mình sửa chữa chiếc xe đạp hay chiếc rađiô riêng của mình khi bị hỏng hóc. Bác tự tay chăm sóc người vợ hiền bị bệnh nặng trước lúc lâm chung. Thì giờ ngoài công việc, Bác thường dành cho công nhân, nông dân, cho những bạn bè thân hữu, cho những đồng bào bị hoạn nạn trong chiến tranh. Năm 1957, Bác về thăm nông trang Nam Bộ ở Quý Cao (Hải Phòng), Bác đến từng gia đình hỏi han việc làm ăn, sinh sống”(13).
Những đồng chí đã cùng hoạt động với Bác Tôn thời kỳ bí mật cũng như cùng làm việc với Bác những năm sau này khi Bác là Chủ tịch nước, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, hay Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều thấy ở Bác một phong cách không hề thay đổi. Đó là đức tính, phong cách công nhân khiêm tốn, giản dị, chân thành, hòa mình trong quần chúng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nêu cao tính tổ chức, tính nguyên tắc, việc lớn việc nhỏ, nhất thiết tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể. Bác thường nhắc nhở, sức mạnh của Đảng là ở tổ chức, toàn Đảng chỉ có một ý chí, một sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối chính trị và những nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Phong cách Tôn Đức Thắng không phải tự nhiên mà có, không phải bẩm sinh. Trần Bạch Đằng nhận xét: “Tinh hoa dân tộc, cốt lõi miền đất phóng khoáng và mộc mạc An Giang, tính cách thợ mà thành phố Sài Gòn và cả phong trào công nhân Pháp hun đúc, chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cộng sản, trí tuệ và đức độ của Hồ Chí Minh - tất cả tổng hợp nên một Tôn Đức Thắng, gia tài cả nước, của Nam Bộ và An Giang, sản phẩm của phong trào công nhân thế giới, tiếng vọng đầy kiêu hãnh của Cách mạng Tháng Mười Nga”(14).
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh đồng chí Tôn Đức Thắng là dịp để mỗi chúng ta tự soi lại mình mà hành động, nói đi đôi với làm, làm nhiều, nói ít, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
______________________
(1) Câu nói của Hồ Huân Nghiệp trước khi bị giặc đem ra hành hình.
(2) Đại nghĩa - cứu nước là cái nghĩa lớn nhất theo nhận xét của dân tộc Việt Nam. Chữ Nghĩa, cùng với “đại nghĩa” còn có “tụ nghĩa”, “xướng nghĩa”, tức là tập hợp nhân dân nổi lên chống ngoại xâm; “Ứng nghĩa” tức là những người tòng quân thành nghĩa quân để cứu nước; “khởi nghĩa” là nổi dậy cầm vũ khí giết giặc giành lại chủ quyền như khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Bắc Sơn, tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Cách mạng, kháng chiến chống xâm lược là chính nghĩa. Chúng ta có nghĩa vụ tồng quân, nghĩa vụ lao động.
(3) Trần Văn Giàu: “Bảy ngọn núi An Giang trong cuộc đời gần trăm năm của cụ Tôn Đức Thắng”, Chủ tịch Tôn Đức Thắng(1888-1980), An Giang, 1988, tr.75.
(4), (5), (8), (9), (10) (14) Trần Bạch Đằng: “Một con người bình thường - vĩ đại”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.211, 210-211, 210, 215, 215
(6) Con đường cách mạng (Hồi ký nhiều tác giả), NxbThanh niên, Hà Nội, 1970, tr.52-53.
(7) Xem Trần Văn Giàu: “Cụ Tôn đã để lại cho chúng ta “tác phẩm cuộc đời”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.180-181.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.292.
(11) Phạm Văn Đồng: “Bác Tôn-nhà cách mạng bất tử”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.26.
(12) Trần Văn Giàu: “Cụ Tôn đã để lại cho chúng ta “tác phẩm cuộc đời”, trongTôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.181.
(13) Hà Đăng: “Người bạn lớn của Bác Hồ”, Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.152-153.

PGS, TS Bùi Đình Phong
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/2617-phong-cach-ton-duc-thang.html


PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG KHÔNG CÓ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở VIỆT NAM
Đại Nguyễn
Trong thời gian qua có nhiều quan điểm chống phá cho rằng không có tư tưởng Hồ Chí Minh, phải chăng có tư tưởng Hồ Chí Minh thì cũng chỉ là sự giả dối, ngụy tạo, thậm chí đó là ý muốn chủ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam muốn xây dựng nên một hình tượng, một học thuyết, tư tưởng kiểu mẫu mà thôi. Từ đó, họ lập luận và đưa ra một số luận cứ trái ngược nhằm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng như bản chất, tính khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Xung quanh vấn đề này có rất nhiều quan điểm đòi xét lại và nghi ngờ về giá trị cũng như tầm vóc vĩ đại tư tưởng của Người. Dưới đây là một trong số đó:
1.     Một số quan điểm chống phá đòi xét lại tư tưởng Hồ Chí Minh
Có quan điểm cho rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin muốn áp dụng đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản để xoá bỏ các giai cấp bóc lột; còn tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì chấp nhận sự tồn tại của các giai cấp, tầng lớp khác nhau và khuyến khích việc làm giàu chân chính. Có quan điểm cho rằng: Hồ Chí Minh là người đạo văn thông quan việc Người thường trích dẫn ca dao, tục ngữ, thường nhắc lại những câu nói của người xưa, nhưng Người không trích dẫn, cho rằng đó là của mình sáng tạo ra. Họ còn thẳng thắn dẫn chứng: Quản Trọng bên Trung Quốc thì viết: Vì lợi ích một năm trồng lúa - Vì lợi ích mười năm trồng cây - Vì lợi ích trăm năm trồng Người. Thậm chí họ còn cho rằng, khẩu hiệu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cũng không phải là tư tưởng của Hồ Chí Minh mà trích từ trong học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Hay chuẩn mực: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những tiêu chuẩn đạo đức hết sức cơ bản của Nho giáo đã đưa ra cách đây hàng ngàn năm, chứ không phải của Hồ Chí Minh. Tất cả những lập luận đó, những dẫn chứng đó đều là áp đặt và vô căn cứ, không có cơ sở khoa học, không đủ sức thuyết phục. Mục đích của họ là nhằm hạ bệ thần tượng, bôi nhọ thanh danh, danh dự, uy tín, phẩm giá, nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh, tiến tới xóa bỏ tư tưởng của Người, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng như mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo họ, trên thế giới, các triết gia và người trí thức thường chỉ đề cập đến Mác - Angghen, Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông nhưng chưa ai nghe đến tư tưởng Hồ Chí Minh bao giờ. Họ cho rằng: Hồ Chí Minh là một con người hành động chứ không phải là một lý thuyết gia, một nhà tư tưởng như Đảng Cộng sản rêu rao, tuyên truyền, giáo dục. Theo họ, một hệ tư tưởng phải nằm trong một hệ thống triết học đồ sộ như Mác, Ăngghen…hoặc có một hệ thống tư duy, công trình đồ sộ, xác lập thành một hệ thống. Còn đối với Hồ Chí Minh thì không đưa ra được một hệ thống mới nào; còn nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh ở đây theo họ như là như một tảng băng trôi, nó giống một thứ môn tâm lý học chứ không phải môn khoa học thực sự có tính chất định hướng tư tưởng. Hơn nữa, họ còn cho rằng chính Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: Tôi không có tư tưởng nào ngoài tư tưởng Mác - Lênin. Vì vậy, xét trên nhiều phương diện, những quan điểm của Hồ Chí Minh là hoàn toàn trái ngược với Mác - Lênin, cho nên, càng áp dụng nó thì đất nước càng thất bại. Rõ ràng với cách lập luận như vậy là hoàn toàn sai trái, không đúng với bản chất, sự thật và thực tiễn những gì diễn ra, không đúng với những đóng góp to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới; làm ảnh hưởng to lớn đến tên tuổi, sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh cũng như của Đảng ta.
2.     Nhận thức đúng cơ sở khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất, về nhận thức chúng ta khẳng định rằng rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Người. Nội dung đó được thể hiện không chỉ ở tư tưởng của Người về dân tộc, về quan hệ dân tộc – giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; về đại đoàn kết dân tộc; về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về Đảng Cộng sản và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà còn ở tư tưởng đạo đức và văn hoá Hồ Chí Minh. Điều này đã minh chứng rằng: Hồ Chí Minh có tiếp thu những giá trị cốt lõi, bản chất cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó có sự phát triển sáng tạo lớn làm phong phú và có bước phát triển mới; chứ không phải là sự bê nguyên, sự cộng lại của chủ nghĩa Mác – Lênin là thành.
Hơn nữa, tư tưởng của Người còn được toàn Đảng, toàn thể dân tộc ghi nhận, thừa nhận, bảo vệ và phát triển. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã trịnh trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[1]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 - 2001), một lần nữa, điều đó lại được Đảng ta khẳng định. Sự khẳng định này đã thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận, tư duy chính trị của Đảng ta. Chúng ta có thể coi đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng, đáp ứng được những nhiệm vụ của thực tiễn đổi mới đất nước đang đặt ra, cũng như tình cảm, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Và trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của xã hội ta, trở thành một bộ môn khoa học được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức, trước hết là trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Vì thế, việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách một khoa học, có hệ thống để vận dụng và phát triển sáng tạo vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay là rất cần thiết và cấp bách đối với Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là xuất phát từ chủ nghĩa Mác  Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Không có chủ nghĩa Mác - Lênin thì cũng không có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Do đó, không thể nói, càng không thể đánh đồng quan điểm: Chủ nghĩa Mác – Lênin chính là tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam, từ đó đi đến kết luận là không có tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn sai trái và không đúng sự thật.
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ chủ nghĩa yêu nước được hình thành với một vốn học vấn uyên thâm, một năng lực trí tuệ sắc sảo nhờ phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; với khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo mà nhờ đó, trong suốt thời gian bôn ba tìm tòi, khảo nghiệm, Người đã hoàn thiện trí tuệ của mình bằng vốn hiểu biết văn hoá, chính trị và thực tiễn cuộc sống phong phú của nhân loại. Khác với các trí thức tư sản phương Tây khác đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu như đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc mình và giải phóng tất cả các dân tộc khác. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít và theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nghĩa là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái cốt yếu, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh. Thêm vào đó Hồ Chí Minh là một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán quan điểm của các trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ kim, đông, tây; tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập, tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng... để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến các giá trị tư tưởng nhân loại trở thành tư tưởng của mình một cách sáng tạo, hợp qui luật và mang giá trị thực tiễn to lớn. Đặc biệt, Người đã kế thừa, phát triển các giá trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa Tam dân và văn hóa tư sản...
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác lập, hình thành qua các giai đoạn đoạn cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải tự nhiên mà có, đó chính là quá trình gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, đó không phải là sự lắp ghép hay bê nguyên của các học thuyết trước đó, cũng như không phải đã hình thành ngay một lúc, mà trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện gắn với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Người, gồm 5 giai đoạn: Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ năm 1890 - 1911); Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911 - 1920); Giai đoạn hình thành cơ bản về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930); Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách mạng Việt Nam (1930 - 1941); Giai đoạn phát triển và hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 - 1969). Đây chính là nội dung, cơ sở quan trọng khẳng định giá trị, nguồn gốc tư tưởng của Người trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam, phù hợp với lí luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy, chúng ta phải khẳng định một điều chắc chắn rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ta đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động là hoàn toàn đúng đắn và hợp với qui luật phát triển./.




[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.


ĐẰNG SAU VIỆC ĐẤU TRANH ĐÒI DÂN CHỦ
 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đại Nguyễn
Trong thời gian vừa qua, trên địa bàn trong cả nước xuất hiện một số đối tượng phản động, chống đối, lấy danh nghĩa là “nhà dân chủ yêu nước” đã có những hành động điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nếu nghe qua rất nhiều người dễ nhầm tưởng đó là những nhà yêu nước, đấu tranh cho lẽ phải, nhưng thực chất chúng chỉ là những tên dân chủ giả hiệu, lấy vấn đề dân chủ để làm tấm lá chắn; từ đó chuyên đi bới móc, xuyên tạc, tô vẽ, dựng chuyện, nói xấu chế độ và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, nhằm gây hoang mang dư luận, kích động, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin tham gia vào các hoạt động chống đối trái pháp luật, gây chia rẽ, đoàn kết nội bộ, làm cho nhân dân hoang mang, dao động, mơ hồ.
Thực chất của vấn đề đấu tranh đòi dân chủ chính là chiêu bài thâm độc của chúng được các đối tượng xấu thường xuyên lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo, vu khống quan điếm, đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời kêu gọi sự ủng hộ từ nước ngoài để phục vụ các mưu đồ chính trị đen tối của chúng. Những tên dân chủ giả hiệu thực chất chỉ là những con bài chính trị tiếp tay cho các thế lực thù địch thực hiện cuộc Cách mạng màu ở Việt Nam mà thôi, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lái Việt Nam đi theo quỹ đạo của các nước tư bản chủ nghĩa.
Qua các kỳ Đại hội của Đảng, Đảng ta nhất quán và đã khẳng định: Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện rộng rãi với mọi người dân, trong mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương. Đặc biệt, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm, dân chủ luôn đi đôi và gắn liền với pháp luật. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo bảo đảm và bảo vệ quyền con người; những thành tựu đạt được là rất to lớn, được nhân dân trong nước cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng kiên quyết xử lý với mọi hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do, dân chủ của công dân để xâm phạm, làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc. Mọi công dân đều có quyền bày tỏ chính kiến của mình, có quyền tự do dân chủ nhưng không có nghĩa là “dân chủ quá trớn”, mà các quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật cho phép thực hiện.
Từ cách tiếp cận như trên, chúng ra không khó để nhìn ra bản chất của những người gọi là đấu tranh cho dân chủ, không phải đấu tranh để đòi quyền lợi, lợi ích hợp pháp cho nhân dân như trước kia mà cha ông ta đã từng làm. Còn nhìn vào thực tế hoạt động của những người tự nhận mình là đấu tranh cho dân chủ, cho cái gọi là lẽ phải ở Việt Nam, thực chất đó là những chiêu bài để kích động, gây rối nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị đen tối. Về thực chất đằng sau những phong trào đó không hề xác định hay hướng tới một giá trị dân chủ đích thực, không hướng tới quyền lợi của quần chúng nhân dân. Để trở thành những  nhà dân chủ theo họ chỉ cần viết một, hai đơn từ kiện cáo hoặc nói xấu cán bộ lãnh đạo hay một cơ quan Ðảng và Nhà nước là trở thành nhà đấu tranh dân chủ. Ðặc biệt, đối với họ, đấu tranh dân chủ không phải là mục đích mà là chiêu bài, là nghề để kiếm sống, nuôi sống bản thân, là hưởng lợi từ tiền hỗ trợ của các hội, đoàn, nhóm chống phá ở nước ngoài: như tổ chức khủng bố Việt tân, khối 8406, quỹ người thương, ủy ban cứu người vượt biển,...Như vậy, về bản chất, họ đang đi ngược lại quá trình dân chủ, vì dân chủ thật sự phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của mọi người dân, chứ không buộc người dân đi theo quan niệm mà thực chất chỉ là một phong trào phản dân chủ mà thôi.
Lợi dụng vào một số thiếu sót trong quá trình lãnh đạo và quản lý đất nước, một số người tự coi mình là nhà dân chủ, xem đây là cơ hội để vu cáo chính quyền, đưa ra các luận điệu vô căn cứ để tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta. Do đó, hơn ai hết mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta phải có thế giới quan khoa học, đánh giá, phân tích, nhận diện, phân biệt đâu là người yêu nước chân chính, đâu là nhà hoạt động xã hội có ý thức trách nhiệm và đâu là người đang mượn danh nghĩa dân chủ để cản trở sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta; từ đó để có biện pháp đấu tranh loại bỏ. Và đối với chúng ta, một nền dân chủ thật sự chỉ đến từ các công dân có tinh thần tự chủ, yêu chuộng hòa bình, gắn bó với cộng đồng dân tộc bằng tinh thần nhân văn, luôn biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chính mình với lợi ích mọi người và lợi ích của toàn dân tộc – đó mới là điều cốt lõi./.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...