Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ CAO CẢ CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM CỦA TỔ QUỐC VÀ CÙNG QUÂN DÂN CAMPUCHIA CHIẾN THẮNG CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG


KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ CAO CẢ CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM CỦA TỔ QUỐC VÀ CÙNG QUÂN DÂN CAMPUCHIA CHIẾN THẮNG CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG
Có những sự kiện lịch sử khi thời gian trôi về quá khứ càng xa thì ý nghĩa, giá trị của nó càng lớn lao. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc (1975-1979) và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng của dân tộc Việt Nam là một trong những sự kiện như vậy.
Việt Nam-Lào và Campuchia là ba nước nước láng giềng, trên cùng bán đảo Đông Dương có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung. Đặc biệt, 3 dân tộc đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Tuy nhiên, từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1970-1975) cho đến năm 1979, tập đoàn Pol Pot đã phản bội nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam-Campuchia. Trong nước, Pol Pot thực hiện chính sách diệt chủng; đồng thời chúng thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối hợp với lực lượng vũ trang (LLVT) Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ đô Phnom Penh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia (17-1-1979).
Vừa qua, trong khi hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vui mừng, phấn khởi kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam Việt Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng, thì đây đó trên internet và mạng xã hội vẫn có những tiếng nói lạc lõng xuyên tạc cuộc chiến tranh này. Họ tán phát luận điệu cũ rích: “Cuộc tấn công của quân đội Việt Nam (giải phóng Campuchia) là cuộc chiến tranh xâm lược”; Việt Nam đã “lấn chiếm Campuchia cả trên đất liền và biển, đảo”... 
Vậy đâu là nguyên nhân cuộc chiến tranh này? Bản chất và ý nghĩa cao cả của cuộc phản công bảo vệ chủ quyền quốc gia; giải phóng dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, diệt vong là gì?  
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh
Theo nhiều tài liệu và chứng cứ còn lại, trong 3 năm (từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978), chính quyền Pol Pot đã thực hiện chính sách chính trị, kinh tế, xã hội hoang dã: Hủy bỏ tất cả quyền con người, quyền công dân-từ quyền sống đến các quyền tự do tối thiểu. Để làm “trong sạch dân cư”, chúng đã thực hiện chính sách giết hàng triệu người một cách dã man (đập chết bằng cuốc, xẻng, mổ bụng, moi gan... ). Gần 3 triệu người Campuchia đã bị giết chỉ trong gần 3 năm. Chúng xóa bỏ mọi cơ sở xã hội của một nền văn minh (như xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ hàng hóa-tiền tệ) đẩy cả dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt vong, đồng thời xóa sổ cả nền văn hóa, văn minh của một dân tộc có bề dày hàng nghìn năm.
Với Việt Nam, Pol Pot ra sức vu khống: “Việt Nam xâm lược, cướp đất, cướp đảo… của Campuchia”. Chúng kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, giết nhiều kiều bào Việt Nam; đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam-Campuchia. Pol Pot tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”, là “tai họa lớn nhất” của dân tộc Campuchia… Ngay sau khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng, chúng tấn công đảo Phú Quốc (ngày 3-5-1975); tấn công đảo Thổ Chu (ngày 10-5-1975). Tại đây, chúng bắt và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích, tập kích vào bộ đội biên phòng, tự tiện di dời cột mốc biên giới ở các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum, Đắc Lắc…
Cuộc chiến tranh này đã được chính quyền Pol Pot chuẩn bị bài bản với tham vọng có thể giành được chiến thắng. Chúng phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần, binh chủng. Cuối tháng 4-1977, Pol Pot điều động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam-thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Cuộc phản công tự vệ của quân và dân ta
Không thể phủ nhận rằng, trong thời kỳ đầu của các cuộc tập kích, khiêu khích ở biên giới Tây Nam, chúng ta đã mất cảnh giác vì tin vào chính quyền Campuchia do Pol Pot-Ieng Sari cầm đầu. Việt Nam không nghĩ rằng một quốc gia láng giềng từng được quân dân Việt Nam giúp đỡ, hy sinh cả xương máu để họ có được độc lập dân tộc lại quay súng, giết hại nhân dân, giết hại đồng bào mình. Thế nhưng, khi bọn chúng đã lộ mặt là kẻ phản bội-thật sự mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì quân dân Việt Nam bằng quyền tự vệ chính đáng của mình đã giáng trả đích đáng.
Đặc biệt, ngay sau khi Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia chính thức được thành lập (ngày 3-12-1978), đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23-12-1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng phản công-tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân Pol Pot. Ngày 7-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam và LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia đã giải phóng Phnom Penh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của tập đoàn phản động Pol Pot và chế độ diệt chủng ở Campuchia.
Ngày nay, nhìn lại cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, chúng ta rút ra nhiều ý nghĩa cao cả:
Trước hết, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của quân dân ta. Trong bất cứ tình huống nào, quan hệ quốc tế nào, chúng ta cũng không được thiếu cảnh giác trong sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, giải thích sự kiện quân dân ta không giáng trả ngay bè lũ Pol Pot, nhiều đồng bào, cựu chiến binh ta nói rằng: Khi đó chúng ta nghĩ rằng không có chuyện quân đội Campuchia lại tấn công Việt Nam.
Mặc dù tình hình quốc tế và khu vực đã có những chuyển biến khác với thời kỳ "Chiến tranh lạnh" (1945-1991), tuy nhiên Việt Nam và Biển Đông là một trong những vị trí địa chính trị quan trọng trong khu vực. Cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn ở khu vực này có thể dùng các phương thức khác nhau để giành giật quan hệ quốc tế… Điều này có thể dẫn đến những xung đột giữa các nước nhỏ trong khu vực. Đây là một thực tế đã diễn ra trong lịch sử mà Việt Nam không thể không quan tâm.
Thứ hai, các sự kiện diễn ra trong cuộc chiến tranh này đã hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước về cuộc chiến tranh, nhất là luận điệu “Việt Nam xâm lược, xâm lấn Campuchia”. Thực tế cho thấy, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Đồng thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ sinh mạng-quyền con người của cả hai dân tộc Campuchia và Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa-cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược, ngoài ra không có mục tiêu nào khác.
Về nguyên nhân quân đội Việt Nam không rút về nước ngay trong năm 1979, Thủ tướng Hun Sen kể rằng: “Sau chiến thắng ngày 7-1-1979, nếu như theo kế hoạch ban đầu, bộ đội Việt Nam sẽ rút quân khỏi Campuchia ngay trong năm 1979. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Campuchia chưa đủ sức chống lại Pol Pot và cần thời gian để củng cố lực lượng cũng như khôi phục nền kinh tế của mình. Nếu Việt Nam rút quân và Pol Pot quay trở lại được thì sẽ càng nhiều người Campuchia bị giết”,  “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế...”(1).
Thứ ba, về quan hệ Việt Nam-Campuchia, cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền của quân dân ta đã đồng thời giáng đòn quyết định đánh sập chế độ diệt chủng ở Campuchia, ngoài ra không có mục tiêu nào khác. Chiến thắng của quân dân ta cũng có thể nói là chiến thắng của tình đoàn kết hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia, khôi phục lại tình đoàn kết hữu nghị vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Thủ tướng Hun Sen từng kể rằng: Trước tình hình đó (nạn diệt chủng), ông đã quyết định chạy sang Việt Nam đề nghị giúp đỡ tổ chức phong trào kháng chiến giải phóng đất nước. Khi ấy, ông được biết thông tin một số người dân Campuchia cũng đã rời quê hương sang Việt Nam lánh nạn. Ông tin Việt Nam, vì đây là nước láng giềng đã từng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh với Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung giành độc lập. Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, ông nói: “Nếu không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay”.
Thủ tướng Hun Sen còn khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm tin, chỉ có tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”(2).
Chế độ diệt chủng Pol Pot không chỉ là một thảm họa với dân tộc Campuchia mà còn là một nguy cơ lớn đối với dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, giúp nhân dân Campuchia giải phóng "cũng là mình tự giúp mình”. Với mọi kẻ thù xâm lược, cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là một thông điệp đanh thép của nhân dân Việt Nam. Bất cứ kẻ thù nào, nếu có dã tâm xâm lược Việt Nam, chúng sẽ bị giáng trả với toàn bộ sức mạnh tinh thần, trí tuệ và vật chất.
TS CAO ĐỨC THÁI
(1)“Thủ tướng Hun Sen trả lời phỏng vấn hai nhà báo Harish C.Mehta và Julie B.Mehta-tác giả cuốn sách “Hun Sen-nhân vật xuất chúng của Campuchia”, xuất bản năm 1999”. Xem “Thủ tướng Campuchia Hun Sen: "Bộ đội Việt Nam là đội quân nhà Phật”-Tiền phong  Online 04/01/2019 08:35 GMT.
(2)Thủ tướng Hun Sen phát biểu tại Lễ khánh thành Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125 tại Đồng Nai, tháng 1-2012.
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/khong-the-xuyen-tac-gia-tri-cao-ca-chien-thang-chien-tranh-bao-ve-bien-gioi-tay-nam-cua-to-quoc-va-cung-quan-dan-campuchia-chien-thang-che-do-diet-chung-559901

NHẬN DIỆN ĐÚNG ĐẮN VỀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


NHẬN DIỆN ĐÚNG ĐẮN VỀ NHỮNG BIỂU HIỆN
CỦA LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Khánh Anh

Lợi ích nhóm và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi ích nhóm
Lợi ích nhóm là lợi ích mà một nhóm người liên kết với nhau cùng thực hiện và bảo vệ lợi ích đó. Trong đời sống xã hội, ngày càng có nhiều nhóm lợi ích khác nhau, các nhóm này có thể vừa có lợi ích chung, vừa có lợi ích riêng, có lợi ích tích cực, có lợi ích tiêu cực. Lợi ích nhóm tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người có cùng mục tiêu, mục đích trong sự tôn trọng lợi ích của Nhà nước và lợi ích của tập thể, hài hòa với các loại lợi ích khác. Còn lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích mà một nhóm người liên kết với nhau để trục lợi, vơ vét của chung (của Nhà nước và tập thể), mưu lợi cho nhóm mình. Lợi ích nhóm tiêu cực luôn gắn với hành vi tham nhũng của những người có chức, quyền (nghĩa là lợi ích nhóm tiêu cực gắn với quyền lực nhà nước) gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, của Nhân dân, khiến cho nền kinh tế dần bị vắt kiệt, đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế tiêu cực phát triển. Nói cách khác, lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích của nhóm người lợi dụng chức vụ, quyền lực, quan hệ để móc nối, thông đồng với nhau nhằm lách luật, làm những điều phi pháp để trục lợi, thu vén lợi ích cá nhân, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và của cá nhân khác. Đây là yếu tố cản trở sự phát triển lành mạnh, bền vững của nền kinh tế và của xã hội, là lợi ích nhóm mà Đảng ta yêu cầu phải đấu tranh phòng, chống. Trong khuôn khổ bài viết, cụm từ “lợi ích nhóm” được sử dụng với nghĩa này.
Có thể khẳng định, lợi ích nhóm đang làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nếu Đảng và Nhà nước không kiên quyết xử lý nghiêm minh, triệt để lợi ích nhóm sẽ càng gây thêm nhiều bức xúc trong Nhân dân và xã hội, từ đó tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng, thực hiện những âm mưu gây bạo loạn, đe dọa sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Đại hội XII của Đảng khẳng định, cần kiên quyết đấu tranh chống lợi ích nhóm nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải ngăn chặn, hạn chế từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tạo bước chuyển biến rõ rệt nhằm củng cố lòng tin của Nhân dân, xây dựng sự đồng thuận và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân; giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trung thành, tận tụy, kỷ cương, liêm chính, Đảng ta chỉ rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”[1] .
Những biểu hiện của lợi ích nhóm hiện nay
Lợi ích nhóm có trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với những biểu hiện đa dạng, phức tạp. Đó là:
Các quan chức nhà nước lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, móc ni, thông đồng với nhau để lách luật, thực hiện hành vi tham nhũng, trục lợi trong hoạt động quản lý và sử dụng đất đai (quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất...); trong đầu tư công, đầu tư xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, mua sắm vật tư, thiết bị hàng hóa, đấu thầu và chỉ định thầu, phân phối dự án hoàn thuế giá trị gia tăng, cấp phát vốn); trong khai thác tài nguyên (cấp phép và khai thác khoáng sản); trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng liên kết để thâu tóm trái pháp luật các ngân hàng thương mại, ưu ái trong việc bảo lãnh và cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước,...); trong hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước;... Họ tìm mọi cách để chuyển tài sản của Nhà nước, của tập thể sang cho cá nhân, dùng mọi thủ đoạn để tham nhũng, lấy của công để biếu xén, hiếu hỷ nhau.
Nhà đầu tư, doanh nghiệp móc nối với một số quan chức nhà nước hình thành nhóm lợi ích để giành được các dự án, gói thầu, những khoản ưu đãi từ tiền công quỹ nhằm mục đích kiếm lợi, làm giàu cho nhóm mình. Chẳng hạn tham nhũng trong hình thức đầu tư Hợp đồng xây dựng kinh doanh - chuyển giao (BOT), Hợp đồng xây dụng - chuyển giao (BT). Các dự án BOT không đấu thầu công khai, minh bạch mà bằng hình thức chỉ định thầu. Thông qua chỉ định thầu để thực hiện các hành vi tham nhũng vì lợi ích nhóm. Thực tế, nhiều doanh nghiệp không đủ năng lực cả về chuyên môn, nghiệp vụ và tài chính nhưng liên tiếp trúng thầu các dự án. Các doanh nghiệp này móc nối với quan chức nhà nước để xin vốn đầu tư của Nhà nước về cho doanh nghiệp mình hoạt động, nhưng nếu làm ăn có lãi thì chia nhau, còn khoản lỗ thì để lại cho Nhà nước. Hay tình trạng thông đồng, móc nối giữa khu vực công và khu vực tư để thành lập các công ty sân sau”, “công ty gia đình” rồi dùng ảnh hưởng của cá nhân để kéo các dự án về cho các công ty này.
Một bộ phận cán bộ, công chức có chức, có quyền thoái hóa, biến chất bị mua chuộc, lôi kéo nhằm trục lợi, thu vén lợi ích cá nhân. Hoặc một số cá nhân tìm cách quan hệ, móc nối với những người có chức, có quyền quyết định để được bố trí vào các chức vụ mong muốn cho bản thân hoặc cho người thân trong gia đình, trong khi năng lực, phẩm chất không đáp ứng được yêu cầu của vị trí công tác đó. .
Một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất trong các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát, điều tra, v.v.. lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che cho những hành vi tiêu cực vì lợi ích vị kỷ hình thành nhóm lợi ích.
Một trong những biểu hiện quan trọng khác của lợi ích nhóm đó là hoạt động rửa tin qua hệ thống ngân hàng, những hoạt động cấu kết lũng đoạn thị trường tiền tệ. Thông qua việc thành lập các “công ty ma” để mua bán hóa đơn, trốn thuế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII cũng đã chỉ rõ các biểu hiện của lợi ích nhóm là: “tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích”[2]. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi”[3].
Nếu trước đây lợi ích nhóm chủ yếu mang tính chất cá nhân, đơn lẻ thì nay nó đã diễn ra có tổ chức và mang tính liên kết chặt chẽ, chằng chịt trên - dưới, trong - ngoài để trục lợi. Những năm gần đây, lợi ích nhóm diễn biến ngày càng phức tạp, nghiêm trọng với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, trắng trợn, phạm vi phát triển ngày càng rộng với quy mô lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác cán bộ. Hội nghị Trung ương 3 khóa XI cũng khẳng định lợi ích nhóm là một trong ba cản trở lớn nhất trong tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Nguyên nhân của sự hình thành và phát triển lợi ích nhóm là do chúng ta thiếu một hành lang pháp lý để hạn chế mặt tiêu cực của lợi ích nhóm; thiếu minh bạch, thiếu tính khoa học trong quy trình hoạch định và thực hiện các chính sách, hoạt động quản lý quan liêu; cơ chế “xin - cho” ph biến, thói quen chấp nhận sự cộng sinh và thỏa hiệp với sai trái, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và sự yếu kém trong hoạt động của một số tổ chức Đảng; sự không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền và trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, quan, đơn vị; cơ chế giám sát, kiểm soát còn nặng về hình thức,...
Như vậy, biểu hiện của lợi ích nhóm là hết sức đa dạng. Và có thể nói, cuộc đấu tranh phòng, chống lợi ích nhóm của toàn Đảng, toàn dân ta là một cuộc đấu tranh đầy khó khăn, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, quyết liệt, không khoan nhượng. Song, với quyết tâm chính trị của Đảng, tinh thần cách mạng của Nhân dân, nhất định chúng ta sẽ chiến thắng góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 45.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 30.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 31-32.

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU: “NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM ĐANG BỊ HỦ HÓA TRONG CÁC TRƯỜNG HỌC” CỦA TRƯƠNG DUY NHẤT


PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU: “NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM
ĐANG BỊ HỦ HÓA TRONG CÁC TRƯỜNG HỌC”
CỦA TRƯƠNG DUY NHẤT
Khánh Anh
Những thành tựu của nền giáo dục Việt Nam và niềm tự hào, tự tôn dân tộc luôn thường trực trong mỗi người con đất Việt, trở thành biểu tượng sáng ngời cho khát vọng vươn lên trong cuộc sống. Nhưng ngày 18-12-2018, trên trang BLOG của đài RFA vẫn có đăng tải bài viết: “Làm sao ngăn chặn hủ hóa trong nhà trường” của đối tượng Trương Duy Nhất. Nội dung bài viết, đã cố tình bóp méo, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của nền giáo dục Việt Nam.
Thứ nhất, Trương Duy Nhất đã cố xuyên tạc rằng “Nền giáo dục Việt Nam phi nhân tính, không vì mục đích giáo dục phẩm chất nhân cách cho người học mà chủ yếu là đánh đập, chèn ép học sinh”
Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, phản động không đúng với thực tiễn của nền giáo dục Việt nam. Bởi, trên thực tế những thành tựu của đất nước đạt được qua hơn 30 năm đổi mới có sự đóng góp không nhỏ của nền giáo dục Việt Nam, của lớp lớp các thầy giáo, cô giáo, những nhà khoa học đang ngày đêm miệt mài bên trang sách, công trình khoa học đem lại những điều tốt nhất cho người học và cho ngành giáo dục. Cơ bản hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước đều được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, đồng bộ, đáp ứng được nhu cầu của cả người dạy và người học; chất lượng giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực; nội dung, phương pháp dạy học đã có điều chỉnh theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học, đào tạo đã gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, THCS; năm 2018, lần đầu tiên Việt Nam có hai đại học nằm trong nhóm 1.000 trường danh tiếng nhất thế giới (trường đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đại học quốc gia Hà Nội). Việt Nam là một trong những điểm sáng của giáo dục thế giới khi có nhiều học sinh đạt huy chương tại các kỳ Olympic quốc tế Toán, Vật Lý, Hóa học, Sinh học; năm 2017, các đội học sinh thi Olympic đều đạt thành tích cao kỷ lục, Việt Nam giành 14 huy chương vàng, gấp 7 lần so với các năm 2010 và 2011. Năm 2018, Việt Nam cũng đoạt 38 huy chương, trong đó có 13 huy chương vàng ở các kỳ thi Olympic. Trong Báo cáo năm 2018 của Ngân hàng Thế giới đã khẳng định: 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu của thế giới nằm ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng là ở hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. Đó là những thành tích được cả thế giới ghi nhận, là kết quả từ sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, của các thầy cô, gia đình và xã hội; sự ổn định về chính trị cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Mặc dù, trong những ngày gần đây, dư luận xã hội không khỏi băn khoăn, chạnh lòng khi có một số giáo viên, nhà trường xử sự chưa chuẩn mực….Những việc làm đó đã làm tổn thương nghiêm trọng đến danh dự, uy tín của ngành giáo dục và các thầy, cô giáo nói chung. Song, không thể vì một số khuyết điểm đó mà phủ nhận nền giáo dục Việt Nam.
Thứ hai, những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam mãi mãi là nguồn gốc, động lực để phát triển nền giáo dục Việt Nam
Dân tộc Việt Nam với những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp đã hun đúc, làm nên đặc trưng, tính cách riêng có của các dân tộc, vùng miền nhưng luôn thống nhất ở mục tiêu, lý tưởng cách mạng là hướng về Đảng, Bác Hồ, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội, tham gia tích cực, chủ động vào sự nghiệp “trồng người” của Đảng, Nhà nước. Các thầy giáo, cô giáo đã khắc phục khó khăn, gian khổ để bám trường, bám lớp, đem nhiệt huyết của mình đến với học sinh; không ngừng rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả của mình, xứng đáng với lòng tin của toàn xã hội. Những con người được nền giáo dục nước nhà đào tạo ra đã trở thành những công dân có ích cho xã hội, có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; với nhiều chuyên gia, nhà khoa học giỏi, hoạt động ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau của đời sống xã hội với mọi thành phần, lứa tuổi. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý báu là “tôn sư, trọng đạo” do đó, trên mỗi nẻo đường của đất nước đã khắc sâu những cống hiến, đóng góp to lớn của mỗi thầy giáo, cô giáo cho nền giáo dục của nước nhà, họ đã làm rạng danh dân tộc trên trường quốc tế, viết tiếp bản anh hùng ca về truyền thống hiếu học của dân tộc trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận bản chất tốt đẹp của giáo dục Việt Nam mà Trương Duy Nhất đang rêu rao dù có thế nào cũng không thể phủ nhận được bản chất tốt đẹp của nền giáo dục Việt Nam.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...