Các thế lực thù địch đã và đang thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” bằng cách tập trung xuyên tạc, phủ nhận hình tượng Hồ Chí
Minh, nhằm mục đích “hạ bệ”, “giải thiêng” thần tượng dân tộc, từ đó phá hoại
mối đoàn kết ruột thịt giữa Đảng và nhân dân, gây ra sự đổ vỡ niềm tin của
người dân vào lãnh tụ, vào Đảng và cách mạng.
Sự tác động này vừa trực
tiếp vừa gián tiếp, vừa trước mắt vừa lâu dài, nhằm dẫn đến sự “thoát ly thần
tượng”, làm phai nhạt tiến tới xóa bỏ sự ảnh hưởng của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh ở một bộ phận đảng viên và quần chúng.
Văn học, nghệ thuật là một
thành tố cơ bản, quan trọng hàng đầu của văn hóa-tư tưởng, là lĩnh vực nhạy
cảm, có sức lan tỏa mạnh. Do vậy, các thế lực thù địch thường dựa vào đó để
xuyên tạc, bôi nhọ đời tư và phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Họ lấy
chính Hồ Chí Minh làm hình tượng cơ bản, chủ yếu nhưng được nhìn bằng quan niệm
tiêu cực, mặt trái, bịa đặt với dụng ý tạo ra một con người Hồ Chí Minh
khác hẳn, đối lập với con người Hồ Chí Minh lớn lao, trong sáng đời
thường.
Dựng
chuyện xuyên tạc Nhật ký trong tù
Họ bịa ra rằng, người viết
tập thơ Nhật ký trong tù là một người tù đã chết, không phải là Hồ
Chí Minh. Về vấn đề này, Lê Hữu Mục đã viết một tiểu luận phủ nhận Hồ Chí Minh
là tác giả của Nhật ký trong tù. Động cơ viết tiểu luận này được
chính Lê Hữu Mục thể hiện ở một bài phỏng vấn trong chương trình phát thanh của
Hội Văn hóa Việt tại California (Hoa Kỳ): “Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một
tháng là xong... Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái
huyền thoại Hồ Chí Minh”, không để cho “có chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh
là nhà văn hóa kiệt xuất do UNESCO công nhận”. Thế là đã rõ, mục đích của ông
ta và “các anh em” là không để cho UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh.
Lập luận của Lê Hữu Mục bắt
đầu từ vấn đề tên tuổi tác giả. Ông ta cho rằng, người viết xưng là “lão phu”,
theo “chiều sâu văn hóa” phương Đông, như vậy, người viết Ngục trung nhật
ký (Nhật ký trong tù) là một ông già. Lập luận này chỉ đánh lừa được những
người ít hiểu về Hán học và văn hóa phương Đông. Chúng tôi xin phép ghi lại lời
phản biện của nhà Hán học hàng đầu Việt Nam-PGS Phan Ngọc: “Dù có tự hào về Hán
học đến đâu, không ai dám nói Đỗ Phủ không biết làm thơ, không hiểu phong tục
cổ truyền Trung Hoa, cũng không dám chê Đỗ Phủ dốt nát. Đỗ Phủ chính là vị thầy
về thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh… Ông Đỗ này luôn luôn tự xưng mình là lão
(già)”(*). Học giả Phan Ngọc chứng minh Đỗ Phủ xưng “lão” trong thơ năm 38 tuổi
(trong bài Đầu giản Hàm, Hoa lưỡng huyện chư tử-Thư gửi các vị hai huyện
Hàm Dương, Hoa Nguyên), năm 45 tuổi (Ai giang đầu-Nỗi đau xót đầu sông), năm 51
tuổi (Đào trúc trượng-Cây gậy trúc đào)... Đó là những căn cứ của sự thật,
không thể bác bỏ!
Như thế, Bác Hồ xưng “lão
phu” trong Nhật ký trong tù là điều hoàn toàn tự nhiên!
Trong bài phản biện tiểu
luận của Lê Hữu Mục, Phan Ngọc vạch ra “tám lỗi về hình thức”. Xin trích lại
một khái quát cuối bài của PGS Phan Ngọc, một khái quát của chân lý nghệ thuật,
của lẽ phải đời thường: “Theo tôi, muốn viết nổi tác phẩm này, giỏi làm thơ là
chuyện nhỏ. Cái quan trọng là một ham muốn suốt đời đấu tranh cho nhân loại bị
áp bức, một chí khí gang thép, nhưng chủ yếu là một tâm hồn trong sáng của Đức
Phật, Xôcrat (Socrate), Giêsu (Jésus), Găngđi (Gandhi) mới làm được”.
Ngoài “tám lỗi” cơ bản mà
PGS Phan Ngọc đã phản biện một cách đích đáng, đến lượt chúng tôi xin chỉ ra
một vài bắt bẻ một cách rất vô lối của Lê Hữu Mục.
Để phá vỡ tính chỉnh thể
thống nhất của hình tượng thơ, Lê Hữu Mục dùng thủ thuật xuyên
tạc, thêm thắt và quy kết người dịch sai. Lê Hữu Mục cho
rằng, người dịch Ngục trung nhật ký đã tìm mọi cách để lái câu thơ
vào quỹ đạo mà họ định trước. Ví dụ, trong Thụy bất trước (Không ngủ
được), người dịch đã tô thêm màu vàng vào ngôi sao năm cánh để giải thích rằng
ngay trong giấc ngủ, Bác cũng chỉ nhìn thấy Tổ quốc được tượng trưng bằng ngôi
sao vàng, trong khi nguyên văn chỉ nói: “Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh”,
nghĩa là hồn mộng cứ luẩn quẩn loanh quanh ở chỗ ngôi sao năm cánh, trong giấc
mơ, lòng chỉ hướng về ngũ tinh liên châu tức là hướng về đoàn tụ gia đình, nghĩ
đến vợ con mà lâu ngày mình đã xa.
Nghĩa chữ Hán trong câu thơ
“Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh” là: Hồn mộng đã quẩn quanh nơi ngôi sao năm
cánh. Chê người để lôi cuốn sự chú ý của độc giả vào “cái sai” của người (người
dịch), trong khi đó, chính Lê Hữu Mục lại bịa đặt nghĩa bằng cách thêm ý
“lòng chỉ hướng về ngũ tinh liên châu tức là hướng về đoàn tụ gia
đình, nghĩ đến vợ con mà lâu ngày mình đã xa”. Bịa đặt để lái vấn đề sang nghĩa
khác: Người tù đã có vợ con rồi! Tức không phải Hồ Chí Minh làm vì Hồ Chí Minh
không có vợ con! Hai chữ “tức là” của Lê Hữu Mục hoàn toàn là sự suy diễn.
Vấn đề “quốc tịch” của tác
giả được đặt ra để “nghiên cứu”: Lê Hữu Mục bám vào hai chữ “Hán gian” ở
trong các bài Thế lộ nan (Đường đời hiểm trở): “Khước bị hiềm nghi tố
Hán gian” (Thế mà bị tình nghi là Hán gian) và Nhai thượng (Trên
đường phố): “Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian” (Ngoài phố tranh nhau xem
Hán gian) rồi quả quyết: “Muốn làm Hán gian thì đầu tiên phải là người Hán đã
chứ, làm sao một người Việt Nam có thể làm Hán gian?”.
Logic học gọi đây là thủ
thuật “đánh tráo”. “Thế mà bị tình nghi là Hán gian”. Ai nghi? Tức bọn cai ngục
nghi ngờ người tù là “Hán gian”. Người khác nghi như thế chứ không phải “người
tù” nhận thế. Mà người khác nghi là quyền, là việc của người ta. Nhưng Lê Hữu
Mục đã đánh tráo chủ thể “nghi” từ “bọn cai ngục” (bị ẩn đi) ép sang
cho tác giả câu thơ (người tù), để hiểu: Vì là người Hán nên tác giả câu thơ
(tức Già Lý) rất buồn bị nghi là Hán gian!
Thế là ai cũng thấy ông ta
sử dụng thủ thuật tách rời và đánh tráo khá tinh vi!
Tại sao một số người lại
tập trung xuyên tạc Nhật ký trong tù? Vì đó là bảo vật quốc gia, một bảo
hiểm “bằng vàng” về con người Bác Hồ đại nhân, đại trí, đại dũng, đã được cả
thế giới khẳng định giá trị nội dung bất hủ và hình thức nghệ thuật điêu luyện.
Kiệt tác đã được dịch ra 25 thứ tiếng trên thế giới!
Phủ
nhận, hạ thấp, xuyên tạc con người và tư tưởng Hồ Chí Minh
Hạt nhân tư tưởng Hồ Chí
Minh là tư tưởng đoàn kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công,
thành công, đại thành công. Đây không chỉ là tư tưởng thời nay mà còn là chân
lý lịch sử tổng kết hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, sẽ mãi là nguồn
sáng cho mai sau. Vì lẽ đó, nhiều “tác giả” tập trung công kích nhằm vào tư
tưởng này.
Dựa vào cách xưng hô đại từ
“Bác”, Vũ Thư Hiên và Bùi Tín thể hiện “băn khoăn” cho rằng, Hồ Chí Minh xưng
là “Bác” khi nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những cụ già cao tuổi.
Để giải đáp sự “băn khoăn”
của hai “tác giả” này cần phải đặt vấn đề vào hoàn cảnh lịch sử. Một là, cả
nước ta gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bác Hồ, tức coi Người như là một thành viên
trong mỗi gia đình người Việt. Đó cũng là ý nguyện, là tâm nguyện của Người.
Thế nên Hồ Chí Minh xưng "Bác" nhưng chủ yếu là xưng hô với các cháu
thanh thiếu niên. Còn với các cụ tuổi cao, có lần Bác gọi “cụ” xưng “cháu”, còn
thường là gọi “các cụ” xưng “tôi”, không như sự xuyên tạc của hai “tác
giả” Vũ Thư Hiên và Bùi Tín.
Bùi Tín cũng từng đặt vấn
đề đúng hay sai về việc Hồ Chí Minh truyền bá mạnh mẽ Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ
nghĩa Stalin và Chủ nghĩa Mao ở Việt Nam…
Tuy chỉ là đưa ra những câu
hỏi tưởng chừng khách quan nhưng cũng rõ cái ẩn ý thâm độc: Sự thật (Hồ Chí
Minh truyền bá Chủ nghĩa Mác là chân lý lịch sử, là quy luật tất yếu) đã hiển
nhiên nhưng lại tạo ra tình huống có vấn đề mới để lái sự tranh luận vào chỗ lẽ
ra không đáng có mà thành có. Thứ nhất, các thế lực phản động, thù địch tập
trung xuyên tạc, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh là cách để hạ thấp vai trò lịch
sử của Bác trong việc truyền bá chủ nghĩa yêu nước về Việt Nam, từ đó xuyên tạc
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sai lầm. Thứ hai, xuyên tạc về
tiểu sử, đời tư là một cách “bôi đen” thần tượng để tạo ra những cái nhìn lệch
lạc dẫn tới dần xóa bỏ thần tượng trong nhận thức của một bộ phận nhân dân. Thứ
ba, các thế lực phản động rất có ý thức Bác Hồ là sự kết tinh hài hòa những giá
trị văn hóa truyền thống và văn hóa của nền cách mạng mới nên chúng ra sức “xây
dựng” một mô hình Hồ Chí Minh khác. Thứ tư, càng thấy nhiệm vụ xây dựng, đào
tạo, giáo dục đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng là cực kỳ quan trọng. Dưới ánh sáng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật và cũng rất đúng với bản chất
nghệ thuật, việc giáo dục lý tưởng cho văn nghệ sĩ nên tập trung vào 3 vấn đề
trọng tâm: Tình yêu văn hóa truyền thống; niềm quý trọng nhân dân; niềm tin vào
Đảng, cách mạng và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Từ vấn đề thứ nhất cho thấy,
cần đưa văn hóa truyền thống vào chương trình giảng dạy bắt buộc ở tất cả các
trường văn hóa, nghệ thuật. Vì theo lẽ tự nhiên, có thấu hiểu mới thấu cảm, mới
yêu và say mê. Với vấn đề thứ hai thì biện pháp tốt nhất là tăng cường đưa văn
nghệ sĩ (đi thực tế) về với nhân dân, sống đời sống của nhân dân. Có gần gũi
mới hiểu để yêu thương, quý trọng. Vấn đề thứ ba là trách nhiệm của các cấp ủy
đảng, chính quyền. Mỗi cán bộ lãnh đạo phải là tấm gương soi trong sáng nhất.
Mỗi nghị quyết, chỉ thị của Đảng được thực thi một cách triệt để, kiên quyết sẽ
là sự thuyết phục cao nhất với văn nghệ sĩ vốn rất nhạy cảm với chính trị.
Cuộc vận động sáng tác và
quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về Bác Hồ cần thực hiện một
cách rộng rãi, quy mô, thường xuyên, liên tục. Vì Bác Hồ là một hiện tượng văn
hóa mang tầm nhân loại, với tầm vóc tư tưởng và nghệ thuật lớn lao để sáng tạo
đến không cùng!
Cây xanh văn nghệ sĩ hôm
nay phải cắm 3 chùm rễ sâu vào 3 mảnh đất: Văn hoá dân tộc/nhân dân; văn hóa
Đảng/cách mạng; văn hóa nhân loại/nhân văn và vươn cao cành lá lên bầu trời
thời đại quang hợp ánh sáng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để kết trái nghệ thuật phục vụ nhân dân.
(*) Viện Văn học
(1993). Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù. Nxb Giáo dục, tr. 620, 621.