Thứ Bảy, 10 tháng 10, 2020

SUY DIỄN THẺ CĂN CƯỚC GẮN CHÍP ĐỂ PHÁ HOẠI CHÍNH SÁCH MỚI CỦA NHÀ NƯỚC

 


Theo đề xuất của Bộ Công an, thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp điện tử đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai thực hiện trong thời gian tới. Song trước và sau khi chủ trương này được phê duyệt, một số đối tượng đã lên diễn đàn mạng xã hội công kích, đưa ra những suy đoán vô căn cứ nhằm gieo rắc hoài nghi trong dư luận, nào là gắn chíp điện tử vào thẻ CCCD để "theo dõi công dân", nào là "vi phạm đời tư cá nhân"... 

Trước đó, chiêu bài chống phá kiểu này cũng đã được đưa ra khi Nhà nước khuyến cáo người dân cài đặt Bluezone để tăng hiệu quả phòng chống dịch COVID-19.

Ngay sau khi Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ về phương án gắn chíp điện tử vào thẻ CCCD khi người dân có nhu cầu cấp mới, một số đối tượng sử dụng trang Facebook (fb) cá nhân, hoặc có bài viết, bình luận trên những diễn đàn mạng xã hội để chống phá quyết liệt chủ trương này.

Tại fb của một người tự xưng là luật sư, tên là N.M.C viết: ..."việc gắn chíp thẻ CCCD khác nào gắn chíp điện tử cho chính người mang thẻ! Muốn biết người này đi những đâu? Vào lúc nào? Cùng với những ai? Chỉ cần ngồi tra định vị là biết ngay chi tiết...". N.M.C còn so sánh gắn chíp điện tử vào thẻ CCCD như cách mà "các nông trại lớn chăn thả cừu, bò, lợn, ngựa thường gắn chíp để tiện chăn dắt".

Hoặc cũng giống với cách "ở một số nước tiên tiến thường gắn chíp điện tử cho các phạm nhân thi hành án phạt tù tại gia...". Mặc dù, ngay sau khi viết "status" (trạng thái) này, chính một người bạn của N.M.C trên fb đã có ý kiến bình luận giải thích để C hiểu rằng, không thể dùng chíp gắn trên động vật để sử dụng trong thẻ CCCD được vì những lý do kỹ thuật, nhưng C cố tình không hiểu, không chịu xóa dòng trạng thái của mình. Fb của N.M.C có tới hàng nghìn người theo dõi, điều đó thể hiện sự thiếu trách nhiệm khi đưa thông tin sai sự thật trên không gian mạng của một người được coi là "am hiểu" pháp luật như luật sư C!

Trên YouTube, đối tượng T.V.Đ còn làm một video clip, phát ngôn đả phá chủ trương gắn chíp điện tử vào thẻ CCCD bằng cách suy diễn vô căn cứ. T.V.Đ cho rằng chủ trương gắn chíp điện tử vào thẻ CCCD là "bắt chước" cách làm của một quốc gia láng giềng nhằm quản lý, theo dõi công dân. Với cách lập luận theo kiểu "thuyết âm mưu", Đ còn quy chụp các camera giao thông lắp trên đường là camera có chức năng "nhận diện khuôn mặt" để theo dõi công dân!

T.V.Đ không biết hay cố tình không biết, CCCD điện tử đã áp dụng trên thế giới từ thập niên 90 và đến nay đã có khoảng 70 quốc gia sử dụng. Hoàn toàn không giống như giọng điệu xuyên tạc của Đ cho rằng, chỉ có một vài quốc gia "kém dân chủ" mới sử dụng!

Thực ra, những đối tượng như N.M.C hay T.V.Đ không quan tâm đến đúng, sai khi đưa thông tin lên mạng xã hội bởi mục đích cuối cùng của các đối tượng này là tìm mọi cách để chống phá các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Xin nhắc lại rằng, cũng bằng cách này, một số đối tượng tự xưng là "đấu tranh cho dân chủ" đã mạnh mồm gào thét trên mạng xã hội, vận động tẩy chay khuyến cáo cài đặt phần mềm Bluezon vì cho rằng phần mềm này cũng là phần mềm viết ra để theo dõi công dân... Việc làm của họ đã đi ngược lại nỗ lực của ngành y tế và nhân dân khi tình hình dịch bệnh lúc đó đang có những diễn biến mới phức tạp.

Phải khẳng định rằng, gắn chíp điện tử thay vì mã vạch vào thẻ CCCD là áp dụng thành tựu của khoa học kỹ thuật vào thực tế đời sống xã hội. Trước đây chúng ta chưa triển khai bởi chưa có điều kiện, nay các doanh nghiệp trong nước đã làm chủ được công nghệ với giá thành rẻ, là thời điểm thích hợp để triển khai.

Việc áp dụng thẻ CCCD điện tử cũng nhằm thực hiện chủ trương Chính phủ điện tử. Mục đích nhằm tạo ra nhiều tiện ích cho người dân khi thực hiện các giao dịch hành chính, không phải mang nhiều loại giấy tờ tới các cơ quan hành chính như trước đây. CCCD điện tử đảm bảo độ bảo mật cao, lưu trữ được nhiều trường thông tin hơn và có thể tích hợp thêm các thông tin của các bộ, ngành khác về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bằng lái xe…

Sử dụng thẻ CCCD điện tử, có thể phòng tránh được việc các loại giấy tờ bị giả mạo, nếu không may bị mất thẻ CCCD kẻ gian cũng không sử dụng được, không giống như chứng minh nhân dân trước đây.

Ngành Công an khẳng định, chíp điện tử gắn vào thẻ CCCD không theo dõi được công dân. Trả lời trước báo chí, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội đã nói rõ điều đó, vì loại chíp gắn trên căn cước công dân không có chức năng định vị. Hơn nữa, chúng ta đã có hệ thống pháp luật đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Nếu bất cứ một ngành nào, cơ quan nào làm sai sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước sự giám sát của nhân dân.

Tại sao khi sử dụng thẻ ngân hàng có gắn chíp điện tử, điện thoại thông minh có phần mềm định vị... chúng ta đều không nghĩ tới là mình sẽ bị theo dõi, bị mất quyền riêng tư? Nay lợi dụng chủ trương áp dụng khoa học kỹ thuật gắn chíp điện tử vào CCCD phục vụ tiện ích của người dân và xã hội thì một số đối tượng lại thổi phồng, xuyên tạc, vu khống? Bởi động cơ của những đối tượng này là gieo rắc hoài nghi để phá hoại chủ trương, chính sách mới của Nhà nước, chia rẽ, làm mất ổn định xã hội.

Chúng tôi cho rằng, bất cứ một chủ trương, chính sách mới được ban hành rất cần sự góp ý, phản biện của xã hội, của người dân, của các cơ quan, tổ chức nhằm làm sáng tỏ sự cần thiết và làm minh bạch hơn một số vấn đề mà người dân quan tâm... Song việc góp ý, phản biện phải trên tinh thần xây dựng chứ không phải lợi dụng việc góp ý, phản biện để phá hoại, "chụp mũ" bằng những suy diễn thiếu cơ sở khoa học.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Suy-dien-the-can-cuoc-gan-chip-de-pha-hoai-chinh-sach-moi-cua-Nha-nuoc-611758/

GIỚI HẠN CỦA LIVESTREAM “CHỐNG THAM NHŨNG”


Chúng ta bắt gặp những video được quay bằng điện thoại thông minh phát trực tiếp (livestream) với lời lẽ gay gắt tố cáo người này, người nọ vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực...Những thông tin tố cáo chưa được xác định đúng sai, nhưng người "livestream" đã tự cho mình được quyền qui kết gây hiệu ứng không tốt...Thời gian gần đây, khi vào Facebook hoặc các nền tảng mạng xã hội, chúng ta bắt gặp những video được một số người dân quay bằng điện thoại thông minh phát trực tiếp (livestream) từ trụ sở tiếp công dân với lời lẽ gay gắt tố cáo người này, người nọ vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực...

Điều đáng nói là những thông tin tố cáo kiểu trên chưa được cơ quan chức năng xác định đúng sai, nhưng người "lai-trim" đã tự cho mình được quyền qui kết gây hiệu ứng không tốt trên mạng xã hội. Việc làm này cần phải được xử lý nghiêm theo qui định của pháp luật.

Đ.V, ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội khá nổi tiếng trên trang "T.D" bởi tần suất livestream liên tục trên trang mạng này. Đây là một trang mạng được lập ra và "chạy" trên nền tảng facebook nên có thể chia sẻ, bình luận, bấm "like", tạo hiệu ứng lan tỏa đến rất nhiều người sử dụng facebook.

 Với danh nghĩa livestream để "cộng đồng mạng giám sát" việc thực thi công vụ của cán bộ tiếp công dân khi giải quyết khiếu nại, tố cáo của Đ.V; nhưng thực tế, khi xem một vài video, thấy rằng, Đ.V không chú tâm vào việc trình bày nội dung mấu chốt khiếu nại, tố cáo của mình, mà chủ yếu là tự diễn thuyết, dẫn dắt câu chuyện để thuyết minh tạo hiệu ứng thu hút người xem cho video livestream là chính.

Trong vai là người "chống lại cả một đường dây tiêu cực", Đ.V tố cáo hết người này đến người khác nhưng không đưa ra được chứng cứ mà đã tự qui kết, gắn mác cho họ là tham nhũng, tiêu cực, vi phạm này nọ... Ngay cả những người hàng xóm của Đ.V cũng bị anh ta livestream đưa lên mạng với những suy diễn thiếu căn cứ, vi phạm đời tư cá nhân.

Điều đáng nói là, những video livestream của Đ.V đã thu hút được khá nhiều người xem. Nhiều người không có thông tin hai chiều đã vội đưa ra những bình luận qui chụp, cổ xúy Đ.V là "người hùng" chống tham nhũng; còn những kẻ bất mãn, cơ hội thì lợi dụng để công kích chính quyền.

Trường hợp của Đ.V không phải là cá biệt, có lẽ nhận thấy sự "biến tướng" của một số cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ của công dân để ghi hình, đưa lên mạng xã hội phục vụ những mục đích không đúng pháp luật, UBND TP Hà Nội đã ban hành nội qui tiếp công dân, trong đó có qui định không cho phép người dân quay phim, chụp hình khi chưa có sự đồng ý của cán bộ tiếp công dân.

Qui định này đã gây ra những ý kiến trái chiều. Người thì đồng tình vì cho rằng, công dân có quyền giám sát cán bộ thực thi công vụ nhưng ngược lại, cán bộ cũng có quyền bảo vệ hình ảnh cá nhân theo pháp luật dân sự; công dân không thể tự do làm điều mình muốn khi quyền ấy lại xâm phạm đến quyền cá nhân của người khác... Những người theo quan điểm phản đối cho rằng, nếu phải xin phép cán bộ tiếp dân mới được ghi hình, chụp hình sẽ làm hạn chế quyền giám sát của người dân, không ngăn chặn được thái độ cửa quyền, nhũng nhiễu, tiêu cực...

Về phía cán bộ tiếp công dân, biết là người dân đang ghi hình để livestream trực tiếp trên mạng xã hội với mục đích công kích cá nhân, cơ quan, tổ chức một cách thiếu căn cứ nhưng cũng rất khó ngăn cấm họ, bởi người dân cho rằng, họ làm những gì pháp luật không cấm. Có người còn viện dẫn Điều 8 Hiến pháp qui định: “cán bộ, công chức, viên chịu sự giám sát của Nhân dân” để đấu lý với cán bộ tiếp công dân...

Thực ra, từ khi thành lập nước đến nay, với bản chất là "Nhà nước của dân, do dân và vì dân", trong quá trình xây dựng Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước ta luôn coi trọng quyền tự do, dân chủ của công dân; trong đó có quyền giám sát cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước.

Tuy nhiên, trước đây, khi các thiết bị số và mạng xã hội chưa phát triển, người dân cũng có thể giám sát bằng các hình thức khác nhau. Hiện nay, điện thoại thông minh kết nối internet trở nên thông dụng thì mạng xã hội trở thành một kênh thông tin quan trọng để cơ quan chức năng phát hiện, xử lý những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức cũng như các hiện tượng tiêu cực khác trong xã hội.

Trở lại vấn đề có nên cho phép hay không việc công dân livestream tại trụ sở tiếp công dân trên mạng xã hội? Theo chúng tôi, chúng ta không thể đi ngược lại với xu thế công nghệ của thời đại 4.0, vì ghi hình để làm căn cứ đấu tranh cũng là một cách giám sát việc thực thi công vụ. Song lúc nào thì được ghi hình, cách ghi hình như thế nào để không làm ảnh hưởng đến cán bộ và hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, địa điểm nào cấm không được phép ghi hình... thì cần có qui định cụ thể để người dân và cơ quan nhà nước căn cứ vào đó mà thực hiện.

Tuy nhiên, bất luận là thế nào, chúng ta cũng không chấp nhận việc một số cá nhân lợi dụng quyền tự do dân chủ, lợi dụng "quyền giám sát" của công dân để xuyên tạc sự thật, tự ý qui chụp, cắt ghép hình ảnh kết luận thay cơ quan nhà nước, gây ra những hiệu ứng không tốt trên mạng xã hội. Điều 16, Luật An ninh mạng có qui định về phòng ngừa, xử lý thông tin  trên không gian mạng, trong đó nghiêm cấm việc đưa nội dung làm nhục, vu khống người khác; đưa thông tin bịa đặt, sai sự thật, xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 3-2-2020 cũng đã có chế tài xử phạt các vi phạm trong lĩnh vực này...

Vì vậy, đối với những trường hợp đưa thông tin tố cáo tham nhũng, tiêu cực cần có bằng chứng rõ ràng, bên cạnh việc làm "video clip" để tố cáo tiêu cực, người dân cần có đơn gửi tới các cơ quan có thẩm quyền để đề nghị xem xét giải quyết khiếu nại - tố cáo của mình.

Chỉ có cơ quan chức năng mới có quyền kết luận người đó có tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật hay không. Khi chưa có kết luận cuối cùng, người dân không được phát ngôn qui chụp, khẳng định, làm thay việc giải quyết khiếu nại - tố cáo của cơ quan nhà nước. Khi đến cơ quan Nhà nước, người dân cần có thái độ hòa nhã, lịch sử, thể hiện văn hóa nơi công sở; không được gây mất trật tự, dùng điện thoại dí vào mặt cán bộ tiếp dân để ghi hình, chụp ảnh thể hiện sự thiếu ý thức tôn trọng người khác.

Về phía cơ quan nhà nước, khi tiếp công dân cần căn cứ vào Luật tiếp công dân. Cán bộ tiếp công dân cần có thái độ lịch sự, văn hóa, ứng xử đúng mực với người dân, đồng thời cũng có quyền từ chối không tiếp nếu công dân có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, vi phạm nội qui tiếp công dân

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Gioi-han-cua-livestream-chong-tham-nhung-614056/ 

TỪ VỤ ÁN VU KHỐNG, CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN PHÁ RỐI TRƯỚC ĐẠI HỘI ĐẢNG

 


Những ngày qua, mạng internet đưa nhiều thông tin sai lệch về việc Công an tỉnh Đắk Lắk khởi tố vụ án, bắt tạm giam đối với bị can Hoàng Minh Tuấn (SN 1980, cư trú tại thôn 2, xã Ea Hu, huyện Cư Kuin, Đắk Lắk) và Phạm Đình Quý (SN 1981, cư trú tại khu phố 1, phường Tân An, thị xã La Gi, Bình Thuận).

Trên các trang báo hải ngoại như BBC, RFA, VOA... đưa nhiều bài viết suy diễn, xuyên tạc vụ việc, tung vấn đề “đấu đá, triệt hạ” trước đại hội Đảng.

Thậm chí, từ một vụ án hình sự, trang BBC lại hướng lái thành “vụ bắt cóc” và đặt vấn đề: “giảng viên tố cáo bí thư Đắk Lắk bị mời làm việc hay bị bắt cóc”, từ đó dẫn dắt sai lệch, cho rằng đây là vụ “mờ ám”, cơ quan Công an “bắt cóc” giảng viên đại học... Trong khi đó, một số nhóm xưng danh nhà báo ở trong nước lợi dụng vụ án, đưa ra các bài viết sai lệch, tung lên nhiều trang mạng, facebook, blog có số lượng người theo dõi lớn.

Các đối tượng liên tục tạo sóng dư luận với những động từ mạnh, đưa ra những câu chuyện lâm ly, cho rằng “nỗi oan tày liếp”, “bất công do thể chế”… Những bài viết trên nhanh chóng được các trang mạng phản động hải ngoại chia sẻ, tạo ra thông tin hỗn độn, gây hiểu lầm trong dư luận. 

Trong vụ án này, thủ đoạn các đối tượng xoáy vào vấn đề quyền tố cáo của công dân, từ đó cho rằng cơ quan Công an đã hình sự hóa vụ việc hành chính, dân sự. Bằng việc dẫn chiếu không đầy đủ các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, nhiều bài viết còn cổ súy việc tố cáo của Phạm Đình Quý.

Đáng chú ý, một số đối tượng tung các bài viết trên hội, nhóm, tố cáo cơ quan Công an “bắt cóc”, mô tả hành động kiểu bí hiểm như hành động của băng, nhóm tội phạm! Những bài viết này cố tình đẩy vấn đề để dư luận hiểu sai về hoạt động của Công an Đắk Lắk, hướng chỉ trích cơ quan tiến hành tố tụng và đặt ra những dấu hỏi nhằm gieo sự hoài nghi trong dư luận. Thậm chí, khi người Phát ngôn Bộ Công an trả lời vụ việc tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ, các đối tượng chống đối cũng tìm cách “bẻ lái”, suy diễn sai lệch bản chất vụ việc. 

Trước thực tế đó, trong vụ việc này, cần hiểu đúng những vấn đề sau:

Thứ nhất, việc tố cáo và hành vi lợi dụng tố cáo để vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm công dân. Tố cáo là nội dung được luật định, ở đây cần thấy là người tố cáo có thể tố cáo đúng, có thể tố cáo sai. Tuy nhiên, cần phân biệt trường hợp tố cáo sai do nhận thức, hiểu biết không đầy đủ với việc cố tình tố cáo sai với động cơ nhằm vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm công dân. Trong trường hợp này, cơ quan chức năng đã làm rõ hành vi, tính chất các bị can đã lợi dụng việc tố cáo để tung vấn đề biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm người khác.

Từ tháng 3-2020, một nhóm đối tượng tạo lập các trang web như giandoihocthuat.wordpress để đăng tải các bài viết nói xấu ông C, lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk đạo văn. Các đối tượng sử dụng email uybankiemtrahocthuat@gmail.com để gửi và tán phát các tài liệu nói xấu, hạ uy tín ông C đến các cán bộ đảng viên Đắk Lắk, gửi tin nhắn với nội dung ông C đạo văn đến nhiều nơi ở Trung ương và địa phương nhằm hạ uy tín, gây mất đoàn kết nội bộ.

Cũng trong tháng 3-2020, ông Hoàng Minh Tuấn (giáo viên thể dục Trường Tiểu học dân lập Nguyễn Khuyến, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk) đã gửi đơn tố cáo mà không có tài liệu, căn cứ kèm theo với cùng nội dung như các đơn tố cáo nặc danh trên đến các đồng chí lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk và Trung ương.

Các cơ quan có thẩm quyền đã tiếp nhận đơn tố cáo của ông Hoàng Minh Tuấn và tiến hành xác minh theo quy định. Bản thân ông Hoàng Minh Tuấn đã nhiều lần được các cơ quan chức năng mời lên làm việc, lấy lời khai và thẩm tra các thông tin, tài liệu liên quan. Cơ quan chức năng cũng có văn bản trả lời của Bộ GD&ĐT, khẳng định tỷ lệ trùng trong luận án của ông C là trong mức cho phép và kết luận không có hành vi đạo văn. Với thực tế đó, đã nhiều lần ông Tuấn được cơ quan chức năng giải thích rõ ràng và đề nghị không tiếp tục tố cáo sai sự thật. Tuy nhiên, ông Hoàng Minh Tuấn vẫn bỏ ngoài tai.

Cơ quan chức năng đã làm rõ, ông Phạm Đình Quý (là một tiến sỹ võ thuật, giảng viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng) kích động và xúi giục nên ông Tuấn cùng ông Quý tổ chức loan truyền, phát tán các thông tin mà ông Quý và ông Tuấn biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự người khác bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có việc sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử. Cả ông Quý và ông Tuấn đều bất chấp các khuyên răn, giải thích của cơ quan chức năng và việc phát tán tài liệu ngày càng ở mức độ cao, tung lên trên các trang mạng xã hội với lời lẽ miệt thị, xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự công dân.

Như vậy, bản chất vụ việc không phải là tố cáo thông thường. Công dân khi tố cáo có thể tố cáo đúng, có thể tố cáo sai và nếu tố cáo sai (do thiếu hiểu biết, thiếu căn cứ) thì khi được kết luận hành vi tố cáo đó là sai sự thật, được đề nghị không tái phạm thì phải chấp hành theo quy định pháp luật. Còn ở đây, cả hai đối tượng dù biết rõ là sai sự thật, là bịa đặt và đã được cơ quan chức năng yêu cầu không tiếp tục tung tin sai trái nhưng vấn bất chấp, vẫn cố tình thực hiện đến cùng, bằng các thủ đoạn tinh vi, bằng động cơ đê hèn. Hành vi đó là lợi dụng tố cáo để vu khống, là hành vi quy định trong Bộ luật Hình sự. Do đó, việc Công an tỉnh Đắk Lắk khởi tố, bắt tạm giam các bị can là tuân theo quy định pháp luật.

Theo cơ quan chức năng, việc bắt ông Phạm Đình Quý là do ông này là đồng phạm với ông Hoàng Minh Tuấn (cùng bàn bạc, thống nhất, hướng dẫn ông Tuấn thực hiện hành vi phạm tội). Ông Phạm Đình Quý không viết đơn chính danh gửi đi tố cáo tại cơ quan, tổ chức mà viết đơn nặc danh dưới tên P.Đ.Q (giảng viên Trường Tôn Đức Thắng) gửi 6 mạng xã hội, tạp chí, báo. Ông Hoàng Minh Tuấn sau khi bị bắt đã khai nhận hành vi phạm tội và khai báo việc ông Phạm Đình Quý bàn bạc, kích động, cung cấp tài liệu, vật chất, xúi giục và giúp sức ông Tuấn thực hiện hành vi phạm tội.

Tại cơ quan điều tra, ông Phạm Đình Quý đã khai nhận hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra trong quá trình khám xét chỗ ở của ông Hoàng Minh Tuấn cũng đã thu được nhiều tài liệu khẳng định rõ vai trò đồng phạm của ông Phạm Đình Quý trong vụ án.

Thứ hai, việc thực hiện các hoạt động tố tụng của cơ quan CSĐT Công an Đắk Lắk là tuân thủ theo quy định pháp luật. Việc các đối tượng tung tin “bắt cóc”, cho rằng bắt, khởi tố khi không có yêu cầu người bị hại, từ đó phê phán cơ quan Công an là đánh lận bản chất. Hành vi phạm tội của ông Hoàng Minh Tuấn và ông Phạm Đình Quý phạm vào khoản 2, Điều 156, Bộ luật Hình sự 2015, không thuộc 10 trường hợp khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại theo quy định tại Điều 155, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Do đó, việc cho rằng bị bắt khi không có yêu cầu của người bị hại là không đúng.

Trong vụ việc này, các thế lực xấu đã lợi dụng xuyên tạc việc ông Phạm Đình Quý bị bắt thành việc bắt người tố cáo, từ đó tung các bài viết miệt thị chế độ “vô thiên vô pháp”. Thực tế, trong vụ án này, Công an Đắk Lắk đã nêu rõ, toàn bộ hoạt động thu thập tài liệu chứng cứ và tiến hành các thủ tục tố tụng đảm bảo chặt chẽ, khách quan theo đúng quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, ông Hoàng Minh Tuấn và ông Phạm Đình Quý đều đã khai nhận hành vi bàn bạc, thống nhất, có tổ chức thực hiện tội phạm, cố ý loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Lời khai nhận của ông Phạm Đình Quý và ông Hoàng Minh Tuấn phù hợp với các tài liệu chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập được.

Sau khi khởi tố, điều tra và áp dụng biện pháp ngăn chặn với ông Phạm Đình Quý và ông Hoàng Minh Tuấn, dư luận quần chúng nhân dân trong tỉnh đã đồng tình ủng hộ và kiên quyết phê phán đối với những nhận thức lệch lạc dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội của ông Phạm Đình Quý và ông Hoàng Minh Tuấn. Đây là hoạt động có dấu hiệu hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, thông qua bôi nhọ, vu khống lãnh đạo cấp cao của Đảng trước thềm Đại hội Đảng bộ các cấp.

Quá trình giải quyết vụ án đã được các cơ quan tố tụng tiến hành công tâm, khách quan, trên quan điểm “thượng tôn pháp luật”. Hiện cơ quan điều tra đang tiếp tục phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để mở rộng điều tra và xử lý nghiêm những người có liên quan theo quy định pháp luật.

Thứ ba, đối với Trường Đại học Tôn Đức Thắng cũng như ông Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng, hiện nhiều bài viết thông tin mang tính suy diễn “râu ông cắm cằm bà”. Hành vi của mỗi cá nhân được làm rõ và xử lý về sai phạm do cá nhân đó gây ra, không thể đánh lận giữa các vụ việc để suy diễn, miệt thị cơ quan tiến hành tố tụng.

Đối với ông Lê Vinh Danh, ngày 18-9, Ủy ban Kiểm tra Đảng uỷ khối đại học, cao đẳng TP Hồ Chí Minh đã công bố quyết định kỷ luật và thông báo kết luận của Ban thường vụ Đảng uỷ khối về việc xem xét, xử lý kỷ luật. Cụ thể, Ban Thường vụ Đảng uỷ khối đã quyết định cách tất cả chức vụ trong Đảng đối với ông Lê Vinh Danh, Bí thư Đảng ủy nhiệm kỳ 2015-2020, Hiệu trưởng Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

Cảnh cáo tập thể Đảng uỷ Trường Đại học Tôn Đức Thắng vì đã có những vi phạm trong việc buông lỏng lãnh đạo trong thực hiện quy chế làm việc, chỉ đạo, kiểm tra giám sát… trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của trường.

Từ vụ việc trên cho thấy, thủ đoạn vu khống gây hệ lụy nghiêm trọng với tổ chức, cá nhân và điều nguy hiểm là một số đối tượng lợi dụng để đánh lận bản chất, nhắm vào phê phán, chỉ trích cơ quan tố tụng, miệt thị chế độ. Do đó, hành vi này cần phải được nhận diện để ngăn ngừa, nhất là trước thềm Đại hội Đảng.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Tu-vu-an-vu-khong-canh-giac-voi-thu-doan-pha-roi-truoc-Dai-hoi-Dang-614862/

LẠI DIỄN TẤU HÀI “ĐỀ CỬ GIẢI THƯỞNG NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2020”

 


Để tiến tới “vinh danh” cá nhân nào đó cho giải thưởng “Nhân quyền Việt Nam”, như thường lệ, tổ chức “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” (MLNQVN) lại ráo riết tổ chức các hoạt động quảng bá, vận động các ứng viên nộp hồ sơ đề nghị xét tặng giải thưởng. Năm nay, nhân danh “đấu tranh nhân quyền” để chống phá, tổ chức MLNQVN đã lên hẳn một chiến dịch khá dày công. Tuy nhiên, cũng như nhiều hoạt động trước đó, chiến dịch đề cử “Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam năm 2020” không có nhiều điểm mới, chỉ là trò bổn cũ soạn lại. Sự lặp lại thường niên khiến cho “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam” chỉ là một trò “tấu hài”, nơi tụ tập làm “màu” của những đối tượng phụ bạc với quê nhà.

Trong cái gọi là “Thông báo kêu gọi đề cử ứng viên giải thưởng nhân quyền Việt Nam năm 2020” được phát đi ngày 7/7/2020 của tổ chức này nói rằng, giải nhân quyền Việt Nam do MLNQVN thành lập từ năm 2002 và được trao hàng năm, nhằm tuyên dương thành tích tranh đấu bất bạo động cho lý tưởng nhân quyền tại Việt Nam. Giải nhân quyền Việt Nam còn nhằm bày tỏ tính liên đới của người Việt khắp nơi đối với những người đã và đang dấn thân bảo vệ quyền làm người và công lý cho mọi người dân Việt Nam. Từ ngày thành lập đến nay, MLNQVN đã “tuyên dương” 47 cá nhân và 4 tổ chức có “những thành tích đấu tranh xuất sắc, trải qua nhiều hy sinh gian khổ và gây được nhiều ảnh hưởng trong công cuộc vận động nhân quyền và dân chủ cho toàn dân”.

Tổ chức này thông báo: “Giải Nhân quyền Việt Nam năm 2019 đã được trao cho Mục sư Nguyễn Trung Tôn, cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Luật sư Lê Công Định trong một buổi lễ long trọng tại trụ sở Thượng viện Canada nhân Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 71”. Đồng thời, cho biết: “Giải Nhân quyền Việt Nam năm nay sẽ được tổ chức nhân dịp Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 72 vào tháng 12 năm 2020. MLNQVN  mong ước đón nhận được nhiều hồ sơ đề cử ứng viên xứng đáng từ các đoàn thể và cá nhân trong cũng như ngoài nước. Kết quả việc tuyển chọn sẽ được chính thức công bố vào trung tuần tháng 11 năm 2020”. 

Ngoài ra, bản thông báo còn đưa ra những tiêu chuẩn có tính tổng quát cho các ứng viên được đề cử như: phải là một cá nhân hoặc tổ chức đang hoạt động tại Việt Nam; đã có thành tích đấu tranh bất bạo động vì nhân quyền cho người dân Việt Nam và việc đấu tranh của họ đã tạo được “ảnh hưởng tích cực” tại quốc nội cũng như ở hải ngoại.

Từ nội dung của bản thông báo có thể thấy, không có nhiều sự khác biệt với các giải thưởng có tính chất tương tự được các tổ chức chống phá Việt Nam thực hiện trong nhiều năm qua. Có thể kể đến như “giải thưởng Hellman/Hammet” của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), “giải thưởng Stephanus” của Hiệp hội Quốc tế nhân quyền tại Ðức; “giải thưởng quốc tế Gruber” của Nghiệp đoàn Luật sư quốc tế, rồi “giải nhân quyền Gwangju”... Ngoài ra, còn có một số giải thưởng và danh hiệu như “công dân mạng” của Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), “Phụ nữ tiêu biểu về bảo vệ quyền tự do ngôn luận” của tổ chức Tự do ngôn luận quốc tế (IFEX) có trụ sở tại Canada, giải “Phụ nữ can đảm nhất thế giới” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ...

Trên các diễn đàn, các tổ chức này rêu rao việc trao giải thưởng với những mục đích, ý nghĩa hết sức cao đẹp như: nhân danh, đề cao vấn đề quyền con người; xem việc ngợi ca những cá nhân tranh đấu cho lý tưởng nhân quyền là cách để thúc đẩy, làm cho quyền con người được thực hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất. Đó cũng là những thứ tiêu chuẩn có tính phổ quát, được công nhận trên toàn thế giới chứ không riêng gì ở Việt Nam.

Do đó, những ứng viên, rồi chủ nhân các giải thưởng này khi “vinh danh” đều được tung hô với những ngôn từ hết sức mĩ miều, như: “nhà tranh đấu bất bạo động cho lý tưởng nhân quyền tại Việt Nam”; “tự nguyện dành toàn thời gian dấn thân vào con đường tranh đấu vì quyền lợi của giới lao động”; “một nhà tranh đấu dũng cảm cho nhân quyền và dân chủ tự do cho Việt Nam, giữ vững lập trường, không bao giờ từ bỏ lý tưởng, và phấn đấu không ngừng cho công lý, nhân phẩm và tự do”...

Tuy nhiên, ngay sau lớp câu từ mỹ miều đó là sự thật khôi hài. Cái phần quan trọng nhất, cần quan tâm nhất trong mọi giải thưởng là đối tượng xét giải phải đạt tiêu chuẩn gì thì bản danh sách trình lên đã phơi bày tất cả: đó là những cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, đang bị điều tra hoặc chịu án tù thuộc nhóm tội danh xâm phạm an ninh quốc gia.

Lẽ ra cá nhân tôn vinh giải thưởng nhân quyền phải là những người có thành tích, cống hiến, đem lại thành quả vì quyền con người thì ngược lại, những cá nhân trong các giải thưởng dạng này lại là đối tượng vi phạm nhân quyền, thậm chí vi phạm nghiêm trọng, chà đạp nhân phẩm, quyền con người, bị dư luận đấu tranh, lên án. Với một thực tế như vậy, khi nêu ra, dư luận sẽ nhận diện được đâu là bản chất, mục đích của những giải thưởng kiểu này! 

Trong thông báo của mạng lưới nhân quyền Việt Nam cho thấy, đã có 3 cá nhân được tổ chức này vinh danh năm 2019 là Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Lê Công Định. Mặc dù bản thông báo cho biết buổi lễ “vinh danh” 3 cá nhân này được tổ chức long trọng tại trụ sở Thượng viện Canada nhân Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 71, song nó vẫn không khiến người ta quên rằng, 3 cá nhân đó đều đã từng chịu những bản án tù với các tội danh như “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam. Và chỉ cần nhắc tới điều này thôi, một người bình thường, ít tham gia, bình luận những vấn đề chính trị, thể chế cũng sẽ đặt ra câu hỏi: Tại sao mạng lưới nhân quyền Việt Nam lại công khai vinh danh những đối tượng chống chính quyền nhân dân, chống lại quê hương đất nước mình? Điều đó lật tẩy việc họ đưa ra giải thưởng, tung hô với những ngôn từ mỹ miều chỉ là trò lừa bịp, nhằm che đậy động cơ chống phá. 

Bất chấp thực tế những ứng viên, rồi chủ nhân của giải thưởng nhân quyền Việt Nam hàng năm là những cá nhân có hoạt động chống Đảng, nhà nước, nhân dân, vi phạm pháp luật, xâm phạm nhân quyền và chịu tù đày, song các tổ chức nói trên đã dùng chiêu thức đánh lận bản chất, cố tình “vinh danh” và kêu gọi cộng đồng, dư luận ủng hộ. Tổ chức MLNQVN đã cố tình đổi trắng thay đen, làm đảo ngược mọi giá trị, biến những tên tội phạm, những kẻ chống phá nguy hiểm thành những “anh hùng”, những “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền”…

Thực tế, nhiều người đã lên tiếng phản đối chiêu bài được đội lốt, nhân danh, núp bóng nhân quyền. Âm mưu của các tổ chức sử dụng chiêu trò này không gì khác là thúc đẩy những hành vi từ chỗ bị xã hội lên án, pháp luật trừng trị thành “lí tưởng”, nhen nhóm tiến tới những cuộc cách mạng màu, những cuộc bạo loạn từ bên trong đất nước như đã từng diễn ra tại một số quốc gia trên thế giới như ở khu vực Trung Đông, Đông Âu...

Ngoài ra, xuất phát từ những tiêu chuẩn được đề cập trong các bản thông báo có thể thấy thêm sự khác biệt trong quan niệm, đánh giá về nhân quyền. Lẽ ra khi đánh giá nhân quyền, phải xem xét từ những thành tựu mà mỗi Nhà nước đã mang lại cho người dân.

Trong khi đó, tiêu chuẩn của “giải thưởng nhân quyền Việt Nam” và nhiều giải thưởng tương tự chỉ là “đã có thành tích đấu tranh bất bạo động vì nhân quyền cho người dân Việt Nam” và “việc đấu tranh của họ đã tạo được ảnh hưởng tích cực tại quốc nội cũng như ở hải ngoại”. Nghĩa là, trong tiêu chuẩn kép được nói đến, họ quá đề cao vai trò, tiếng nói của người dân trong khẳng định, thực thi quyền con người mà quên mất rằng, nhà nước với vai trò, địa vị pháp lý của mình đã nỗ lực để bảo vệ, bảo hộ cho nhân quyền, quyền con người được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Quá đề cao tiếng nói, lại là tiếng nói một chiều của những đối tượng phạm tội, chống phá đất nước mà xem nhẹ, thậm chí bỏ qua những đóng góp của nhà nước đối với vấn đề nhân quyền, thực thi nhân quyền chính là lí do chính yếu khiến các quốc gia bảo hộ cho các giải thưởng kiểu này khó tìm được tiếng nói đồng thuận.

Như vậy, có thể thấy, ngay việc nhận thức, khái niệm về nhân quyền của MLNQVN là sai lệch, phiến diện. Điều họ hướng đến là thông qua giải thưởng này để “lên dây cót” tinh thần, vừa giúp đỡ về vật chất cho các đối tượng chống phá trong nước, đồng thời tạo ra cớ để khuếch trương thanh thế, nhận sự hà hơi tiếp sức - đặc biệt là về tài chính, từ các thế lực thù địch bên ngoài. Họ đã cố gắng tô vẽ, dựng các cá nhân chống đối dưới những danh xưng hão huyền như “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động dân chủ”, “tù nhân lương tâm”... nhưng họ không thể che đậy được bản chất đằng sau những chiến dịch tuyên truyền, quảng bá và “vinh danh” này. “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam năm 2020” cũng như các năm trước là hoạt động trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, tạo đà cho hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam của chính giới, các tổ chức thù địch.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Lai-dien-tau-hai-De-cu-giai-thuong-nhan-quyen-Viet-Nam-2020-614236/

XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ

 


Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định rõ vấn đề này trên cơ sở khoa học.

Quan điểm xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong Dự thảo dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn

Về lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp vô sản muốn giành chính quyền thì phải tổ chức ra một quân đội kiểu mới; được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng cần quan tâm toàn diện đến con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật, cách đánh, v.v. Trong đó, chính trị - tinh thần của quân đội là yếu tố quan trọng. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”2.

Về thực tiễn, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc của quân và dân ta, xét về tiềm lực kinh tế, quân sự, ta không thể mạnh bằng đối phương, nhưng lại giành thắng lợi. Đó là nhờ sức mạnh của tiềm lực chính trị - tinh thần mà yếu tố đặc biệt tạo nên sức mạnh đó là Quân đội ta luôn vững mạnh về chính trị. Thấy rõ vai trò của nhân tố chính trị trong sức mạnh của Quân đội ta, thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng tăng cường các biện pháp chống phá hòng “phi chính trị hóa” Quân đội. Điều đó đặt ra và đòi hỏi phải tiếp tục quan tâm, chăm lo xây dựng Quân đội nói chung, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị nói riêng. Trước yêu cầu thực tiễn xây dựng Quân đội hiện nay, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; vững mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”3. Theo đó, nội hàm của quan điểm, phương hướng trong Dự thảo vừa có tính kế thừa nội dung của các nhiệm kỳ trước, vừa có sự phát triển nhận thức của Đảng ta về quan điểm, chủ trương xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, trong đó lấy xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở là hoàn toàn đúng cả về lý luận và thực tiễn.

Nội dung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới, vấn đề xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị đặt ra một cách toàn diện trên các mặt. Thực chất xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đảm bảo cho Quân đội luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu xứng đáng với truyền thống: Quân đội ta trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Trước những vấn đề thực tiễn liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, Dự thảo khẳng định xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị có nội hàm rộng hơn, toàn diện hơn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Do việc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị đứng trước cả thời cơ và thách thức, trước những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” Quân đội, nên cả hệ thống chính trị càng phải quan tâm, chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức để góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ khả năng hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Cùng với đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, trước hết là vấn đề hiện đại hóa vũ khí, trang bị, nhưng cũng đặt ra yêu cầu đối với con người trong hoạt động quân sự và chiến tranh, sự kiểm soát của nhân tố chính trị - tinh thần, khả năng điều khiển đối với các loại vũ khí thông minh, v.v. Điều đó tất yếu tác động toàn diện đến công tác chuẩn bị con người ngay từ thời bình bằng các nội dung, biện pháp tiến hành công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ, chính sách,... góp phần làm cho Quân đội vững mạnh toàn diện; trong đó, chính trị - tinh thần là cơ sở, nền tảng cho các yếu tố khác. Vì thế, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng Quân đội có cơ cấu tổ chức biên chế phù hợp, tinh, gọn, hoạt động hiệu quả, sức cơ động và sức chiến đấu cao, có khả năng xử lý tốt mọi nhiệm vụ, tình huống trước sự phát triển và ứng dụng của khoa học và công nghệ là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.

Mặt khác, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị cũng cần bám sát tình hình thực tiễn giải quyết những vấn đề về an ninh phi truyền thống hiện nay. Phát huy truyền thống tốt đẹp, thời gian qua, Quân đội đã làm tốt vai trò, chức năng, nêu cao trách nhiệm, đi đầu trong phòng, chống đại dịch Covid-19, tạo được tình cảm, niềm tin yêu của nhân dân và bạn bè quốc tế. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải nhận thức sâu sắc, phát huy tốt hơn nữa trách nhiệm chính trị, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” trong ứng xử, quan hệ với nhân dân. Qua đó, góp phần tăng cường đoàn kết quân - dân, cùng đồng hành thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hội nhập quốc tế, hợp tác quốc phòng với các nước càng phải tăng cường bản chất cách mạng của Quân đội. Việc thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng sẽ trực tiếp góp phần hiện thực hóa quan điểm của Đảng ta: Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”4. Trong đối ngoại quốc phòng phải giữ vững bản chất cách mạng của Quân đội, tiếp tục củng cố, xây dựng và phát triển bản lĩnh chính trị và tăng cường niềm tin của Quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội các nước và quốc tế. Vì thế, cần bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ, kiến thức toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ để họ đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng này.

Tác động của kinh tế thị trường đến xây dựng Quân đội về chính trị theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Tình trạng vi phạm kỷ luật ở một số đơn vị vẫn còn, thậm chí là vi phạm kỷ luật nghiêm trọng ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Do đó, phải giáo dục, tổ chức, quản lý quân nhân ngày càng chính quy, bài bản hơn, trước hết là tập trung nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật cho mọi quân nhân kết hợp với các biện pháp quản lý hành chính, kỷ luật để họ có khả năng tự kiểm soát, tự quản lý, không xảy ra vi phạm kỷ luật.

Phương hướng, biện pháp cơ bản xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới

Xây dựng Quân đội về chính trị trong tình hình mới đặt ra những yêu cầu, nội dung mới toàn diện và đầy đủ hơn so với trước đây. Dự thảo chỉ rõ: tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là nguyên tắc trong xây dựng Quân đội. Để thực hiện được, cần tiếp tục xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc trong Quân đội. Tập trung xây dựng hệ thống tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, các cơ quan vững mạnh toàn diện. Xây dựng, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng chính trị cho cán bộ, chiến sĩ. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp phải bám sát đặc điểm, tình hình để đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, quản lý đơn vị cho phù hợp.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng cho bộ đội; thực hiện nghiêm Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chính trị ở các đơn vị cần đi vào thực chất và thiết thực hơn gắn với chức trách, nhiệm vụ của mỗi người, mỗi cơ quan, đơn vị. Khắc phục triệt để tình trạng ở một số cơ quan, đơn vị “khoán trắng” việc giáo dục chính trị cho cơ quan chính trị, cán bộ chính trị; phải cụ thể và xác định nội dung giáo dục chính trị thiết thực với từng nhóm đối tượng. Các cơ quan, đơn vị cần coi trọng, đổi mới, nâng cao chất lượng và phát huy vai trò, hiệu quả của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp phải quan tâm toàn diện về nội dung, biện pháp, hình thức tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, bảo đảm phù hợp với đặc điểm của đơn vị. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống  hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ là một pháo đài vững chắc để chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trước âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng hiện nay, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải kịp thời phát hiện, chủ động trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống “phi chính trị hóa” Quân đội.

Tích cực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm cơ sở để đề ra giải pháp phù hợp đối với xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Bởi, phương hướng, quan điểm của Đảng ta đều trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Do đặc điểm, tình hình hiện nay biến đổi nhanh chóng, phức tạp liên quan trực tiếp đến vấn đề xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, nên phải tổ chức tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và quan tâm đầu tư nghiên cứu, vận dụng nghệ thuật quân sự phù hợp, sáng tạo trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp cần tiến hành đồng bộ những chủ trương, biện pháp  giáo dục, huấn luyện, quản lý bộ đội, tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới.

1 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 41, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 147.

2 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 217.

3 - ĐCSVN  Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, tháng 4/2020, tr. 50.

4 - ĐCSVN  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 35.

http://tapchiqptd.vn/vi/tien-toi-dai-hoi-xiii-cua-dang/xay-dung-quan-doi-vung-manh-ve-chinh-tri/16092.html

VỀ XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TRÌNH ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 


Công nghiệp quốc phòng có nhiệm vụ nghiên cứu phát triển, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị, vật tư, thiết bị kỹ thuật và các sản phẩm cần thiết khác bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, v.v. Vì vậy, tùy theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của lực lượng vũ trang trong từng giai đoạn mà phương hướng, mục tiêu, nội dung xây dựng công nghiệp quốc phòng luôn được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp và xác định rõ trong văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII, ở phần phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030), Đảng ta đều nhất quán: phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng công nghiệp quốc phòng (từ Đại hội X trở về trước) cũng như công nghiệp quốc phòng, an ninh (Đại hội XI đến nay). Thực vậy, để hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội, tại Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng xác định: “Nhiệm vụ thứ nhất, nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó”1, cho nên phải “tổng động viên tiền của, tài trí, sức người, phát triển mọi lực lượng, mọi khả năng đặng thắng quân xâm lược”2; trong đó, phát triển công nghiệp “cần chú trọng phát triển các xí nghiệp nhà nước, nhất là về kỹ nghệ quốc phòng để thỏa mãn nhu cầu kháng chiến và gây cơ sở cho bộ phận kinh tế nhà nước”3. Điều đó chứng tỏ, công nghiệp phục vụ cho kháng chiến (công nghiệp quốc phòng) lúc đó đã mang tính lưỡng dụng, vì: “Chế nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và để cung cấp cho nhân dân”4. Yêu cầu lưỡng dụng của công nghiệp quốc phòng dần dần được thể hiện rõ trong văn kiện ở các kỳ đại hội sau, như: sử dụng một phần năng lực công nghiệp quốc phòng vào việc xây dựng kinh tế (Đại hội VI), huy động năng lực của xí nghiệp quốc phòng làm hàng dân dụng với hiệu quả thiết thực (Đại hội VII), khuyến khích các nhà máy công nghiệp quốc phòng sản xuất các sản phẩm dân dụng để tăng thêm năng lực phát triển (Đại hội X), Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng (Đại hội XII). Vấn đề xây dựng nền công nghiệp quốc phòng hiện đại để có điều kiện hiện đại hóa quân đội luôn được mọi quốc gia hướng tới, đặc biệt là một nước phải trải qua chiến tranh như Việt Nam, từng đối đầu với những kẻ thù có vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại bậc nhất thế giới khi đó. Do đó, “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại5 và “Tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao6 như nêu trong Dự thảo là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, việc “Nghiên cứu, sản xuất được một số chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại cần thiết cho phòng thủ, bảo vệ đất nước7 trong 5 năm tới (2021-2025), cần phải bàn luận thêm.

Nhìn lại những năm gần đây ta thấy, lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân luôn giữ vai trò nòng cốt trong phòng, chống và giải quyết hậu quả thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường. Hằng năm, nhiều đơn vị bộ đội coi việc cung cấp nước sạch cho nhân dân vùng hạn mặn là việc làm thường xuyên; lực lượng Quân đội luôn ở tuyến đầu giúp dân phòng chống lụt bão, tham gia tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường, thiên tai, dịch bệnh. Vì thế, sau khi chỉ ra rất nhiều thách thức liên quan đến quốc phòng, an ninh, như: bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh truyền thống và phi truyền thống, biến đổi khí hậu, sự cố môi trường,… Dự thảo đề ra nhiệm vụ cho quốc phòng, an ninh; trong đó, có nhiệm vụ: “Sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn”8 là hoàn toàn chuẩn xác. Nhưng vấn đề đặt ra là, muốn hoàn thành những nhiệm vụ đó, lực lượng vũ trang cần phải được cung cấp đầy đủ, kịp thời các loại vật chất, phương tiện, trang bị kỹ thuật đồng bộ, có chất lượng tốt, phù hợp với công việc; tất nhiên, nếu thêm yếu tố “hiện đại” thì càng tốt chứ chưa phải là thiết yếu. Ví dụ, muốn bắn máy bay phải có tên lửa, pháo phòng không; bắn xe tăng phải có vũ khí chống tăng; chống lại vũ khí hóa học cần phải có mặt nạ, khí tài phòng da, ống khói chống độc,…; chống lại vũ khí sinh học thì phải có trang thiết bị y tế, hóa chất khử khuẩn, thuốc điều trị, v.v. Trấn áp tội phạm phải có vũ khí, công cụ hỗ trợ; địch tuyên truyền chống phá ta bằng phương tiện nào thì ta phải có phương tiện tương ứng để phản tuyên truyền; địch sử dụng phần mềm gián điệp đánh cắp thông tin thì ta phải kịp thời nghiên cứu sản xuất phần mềm để vô hiệu hóa; phòng cháy, chữa cháy phải có nước, cát, bình bọt, xe cứu hỏa; phòng, chống bão lụt phải có tàu, thuyền, áo phao, v.v.

Minh chứng rõ nhất cho tầm quan trọng của việc bảo đảm đầy đủ, kịp thời trang, thiết bị phù hợp với nhiệm vụ là cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 đã và đang diễn ra ở hàng trăm quốc gia, vùng lãnh thổ. Để dập dịch, đối với cộng đồng, ngoài cách ly bắt buộc, phải bảo đảm khẩu trang, nước rửa tay cho mỗi người khi tiếp xúc; đối với bệnh viện phải có đủ giường bệnh, máy trợ thở, thuốc chữa bệnh, v.v. Nhưng vì là chủng loại virus mới, loài người chưa kịp chuẩn bị đối phó nên SARS-CoV-2 đã đẩy nhiều nước có nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến, hiện đại vào hoàn cảnh thiếu thốn trang, thiết bị phòng dịch. Ngay như nguyên thủ của một quốc gia chuyên sản xuất vũ khí công nghệ cao, hiện đại nhất trên thế giới cũng phải viện dẫn đến “Đạo luật sản xuất quốc phòng nhằm dừng hoạt động xuất khẩu khẩu trang cũng như các thiết bị bảo hộ y tế khác”9 và đẩy mạnh sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước. Đối với nước ta, nhờ sự sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đã có các biện pháp dập dịch kịp thời, không để lây lan ra cộng đồng nên số người nhiễm virus SARS-CoV-2 chiếm tỷ lệ quá nhỏ so với dân số cả nước, không gây nhiều khó khăn cho chúng ta. Đặt giả thiết, số người nhiễm bệnh lên đến hàng nghìn, chục nghìn, thậm chí trăm nghìn trở lên sẽ đẩy đất nước vào tình thế khó khăn như diễn ra một cuộc chiến tranh sinh học! Khi đó, khả năng cứu chữa người bệnh của ngành y tế có thể đáp ứng được tới đâu? Cần thiết lập thêm bao nhiêu bệnh viện dã chiến? Khả năng tự bảo đảm trang, thiết bị, vật tư y tế như thế nào trong điều kiện đóng cửa biên giới? Vì vậy, phần nói về công nghiệp quốc phòng trong 5 năm tới trong Dự thảo: “Tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao. Nghiên cứu, sản xuất được một số chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại cần thiết cho phòng thủ, bảo vệ đất nước” nên sửa thành: “Tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao. Kịp thời nghiên cứu, sản xuất các loại vũ khí, trang bị, vật tư, hàng hóa thiết yếu cho lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ trong mọi tình huống”.

Về mặt lô-gíc, viết như Dự thảo chưa thực sự chặt chẽ bởi, một nền công nghiệp ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao thì việc sản xuất ra sản phẩm hiện đại là lẽ đương nhiên. Nếu không thể sản xuất ra sản phẩm hiện đại thì nền sản xuất đó không thể gọi là hiện đại được. Mặt khác, trình bày như vậy, câu sau hàm ý minh họa cho câu trước nhiều hơn, nghĩa là để công nghiệp quốc phòng, an ninh đạt tiêu chí “ngày càng hiện đại” thì chỉ cần “Nghiên cứu, sản xuất được một số chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại cần thiết cho phòng thủ, bảo vệ đất nước”. Còn nếu hàm ý là nhiệm vụ của công nghiệp quốc phòng, an ninh trong 5 năm tới thì nhiệm vụ đó lại rất chung chung, do đối tượng thực hiện muốn sản xuất chủng loại nào thì tùy, miễn là chứng minh được nó cần thiết cho phòng thủ, bảo vệ đất nước. Trong khi đó, các chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại cần thiết cho phòng thủ, bảo vệ đất nước thì rất nhiều; mức độ hiện đại và hiệu quả sử dụng cũng rất khác nhau; có loại cần cho trước mắt, có loại cần cho tương lai, thậm chí có loại vô cùng hiện đại nhưng mong muốn không bao giờ phải đem ra sử dụng. Nếu sửa như đề xuất sẽ bảo đảm tính lô-gíc không chỉ riêng phần nói về công nghiệp quốc phòng, an ninh mà còn gắn kết với cả một loạt nhiệm vụ được nêu ở phía dưới (Mục 11 - Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội)10. Để xây dựng được nền công nghiệp quốc phòng, an ninh như vậy, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

1. Đẩy mạnh kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, huy động có hiệu quả sự tham gia của khoa học công nghệ quốc gia, công nghiệp dân sinh cho nhiệm vụ xây dựng phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh lưỡng dụng. Vì vậy, cần lồng ghép nhiệm vụ xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh vào các đề án, chiến lược xây dựng, phát triển của các bộ, ngành, địa phương.

2. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo C.Mác, con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất, nên muốn có nền sản xuất hiện đại thì phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, các cơ sở nghiên cứu, sản xuất của Quân đội, Công an phải thực hiện tốt việc đào tạo và tuyển dụng; đồng thời, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm thu hút và giữ chân nhân tài.

 3. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay, trong đó có doanh nghiệp quốc phòng, an ninh vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Vì thế, muốn xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh ngày càng hiện đại thì việc hợp tác với các đối tác nước ngoài để thúc đẩy nhanh quá trình này là giải pháp tốt nhất. Bên cạnh đó, việc hợp tác cũng giúp chúng ta đi tắt đón đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

4. Tập trung nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, hạn chế đến mức thấp nhất sự lệ thuộc vào nước ngoài. Chỉ có như vậy, công nghiệp quốc phòng, an ninh mới có thể kịp thời sản xuất và sản xuất liên tục kể cả trong điều kiện bị cấm vận hoặc đóng cửa biên giới. Do đó, cần phải độc lập, tự chủ trong nghiên cứu phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu phòng thủ, bảo vệ đất nước; chủ động tạo nguồn cung cấp các thiết kế, công nghệ, vật tư, nguyên liệu trong nội địa. Đồng thời, phải có các kho chiến lược dự trữ được số lượng lớn vật tư, vật liệu quan trọng phục vụ sản xuất; thậm chí dự trữ cả những sản phẩm “lưỡng dụng” thiết yếu và thường xuyên tổ chức đổi “hạt” để duy trì được chất lượng tốt.

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 38.

2 - Sđd, tr. 154.

3 - Sđd, tr. 128.

4 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 59.

5 - ĐCSVN - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở), tháng 02/2020, tr. 80.

6, 7 - Sđd, tr. 121.

8 - Sđd, tr. 122.

9 - https://baotintuc.vn - ngày 04/4/2020, Tổng thống Mỹ kích hoạt Đạo luật sản xuất quốc phòng nhằm dừng xuất khẩu khẩu trang và đồ bảo hộ y tế.

10 - ĐCSVN - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở), tháng 02/2020, tr. 122.

http://tapchiqptd.vn/vi/tien-toi-dai-hoi-xiii-cua-dang/ve-xay-dung-cong-nghiep-quoc-phong-an-ninh-trong-du-thao-bao-cao-chinh-tri-trinh-dai-hoi-x/16099.html

PHÒNG, CHỐNG "DBHB" - "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"

 


Nhốt quyền lực trong “lồng cơ chế”

I. Quyền lực và sự tha hóa quyền lực

II. Quan điểm của Đảng ta về kiểm soát quyền lực và những hiệu ứng tích cực

III. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh

Phải nhốt quyền lực vào trong cái “lồng cơ chế”. Cái “lồng cơ chế” đó chính là kỷ luật của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước. Đó là quốc pháp. Trong Đảng, thì Cương lĩnh, đường lối, điều lệ Đảng; ngoài xã hội thì quốc pháp; trung tâm là lòng dân và sự tín nhiệm của Nhân dân đối với đội ngũ công bộc của dân. Như vậy thì không ai, không gì sai phạm có thể lọt được cả.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, thời gian qua, cả hệ thống chính trị tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực Nhà nước, để “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp” nhằm bảo đảm cho quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, việc chống tham nhũng, tha hóa quyền lực ở nước ta còn tồn tại những hạn chế nhất định. Để khắc phục, cần phải xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh, với những chủ trương, giải pháp toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế, pháp luật”, bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực thi theo Hiến pháp, pháp luật; theo đó, cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp trọng tâm sau:

Một là, trên cơ sở quyền lực Nhà nước là thống nhất, cần xác định rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực Nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp bằng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền, bảo đảm cho mô hình tổ chức công quyền trong Nhà nước pháp quyền có sự phân cấp, phân quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền, phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Nói Nhà nước pháp quyền mà không đề cập quan hệ chế ước lẫn nhau giữa ba quyền thì chỉ là nửa vời; nếu còn né tránh thì sẽ tồn tại loại quyền lực không bị kiểm soát, dẫn đến sự tha hóa quyền lực. Do vậy, xây dựng phương thức kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau hợp thành một chỉnh thể thống nhất là nhằm ngăn ngừa, loại bỏ và triệt tiêu mọi sự tha hóa và thoái hóa quyền lực, bảo đảm các cơ quan quyền lực Nhà nước, hoặc thực thi quyền lực Nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Thực tiễn tình hình tha hóa quyền lực, tham nhũng ở nhiều nước, kể cả Việt Nam, chủ yếu rơi vào quan chức hành pháp, vậy mà ở nước ta (có giai đoạn) người đứng đầu cơ quan hành chính của từng cấp chính là người đứng đầu cơ quan chống tham nhũng ở cấp đó. Để khắc phục sự bất cập này, cần đẩy mạnh xây dựng một Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và có cơ chế đối thoại của người đứng đầu các cơ quan nhà nước với người dân, “để lắng nghe lòng dân, kịp thời sửa sang chính sách và điều chỉnh phương pháp quản lý, điều hành”; không cho phép ai, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng nào đứng trên, đứng ngoài Hiến pháp và pháp luật.

Hai là, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nói chung và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí nói riêng, nhất là trong công tác cán bộ, lĩnh vực quản lý đất đai, kinh tế, tài chính, thanh tra, kiểm tra,... theo phương châm: không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không muốn tham nhũng. Để “không muốn tham nhũng” phải cải cách tiền lương, “không dám tham nhũng” phải tăng nặng chế tài, “không thể tham nhũng” phải bịt kín các kẽ hở của luật, công khai, minh bạch, kiểm soát được tài sản của cán bộ, công chức. Bởi, nếu bị trừng trị nặng thì sẽ không dám tham nhũng. Lương cao thì sẽ không muốn tham nhũng vì có thể mất cả sự nghiệp. Nhưng lương thấp, không đủ nuôi gia đình, trong khi lại có người đưa hối lộ, muốn đấu tranh vượt qua cũng khó. Nên muốn phòng, chống tham nhũng hiệu quả cần có chế độ thỏa đáng cho cán bộ công quyền. Do đó, phải tiến hành đồng bộ, giải quyết triệt để những vấn đề còn tồn đọng, không chỉ trong Luật Phòng, chống tham nhũng mà cả các luật liên quan, nếu không thay đổi thì chắc chắn tình trạng tha hóa, tham nhũng sẽ tiếp tục gia tăng. Trong thời gian tới, cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ và công khai, minh bạch các hoạt động trong cơ quan, đơn vị. Hoàn thiện tổ chức và triển khai có hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng từ Trung ương đến địa phương. Các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị phải xây dựng và thực hiện hiệu quả chương trình hành động phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở ngay cơ quan, đơn vị mình. Trong thực hiện, cần xác định công khai, minh bạch trong các cơ quan công quyền; giám sát, kiểm soát chặt chẽ thu nhập và tài sản của tổ chức, cá nhân. Đẩy mạnh phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ án liên quan đến tham nhũng, trên tinh thần không có vùng cấm; không để dư luận cho rằng chúng ta làm chưa nghiêm, chưa đến nơi đến chốn những cán bộ tha hóa, phạm tội tham nhũng. Đồng thời, cải cách tiền lương gắn với khoán chi hành chính, xây dựng cơ chế giám sát bên trong bên ngoài để cán bộ, công chức không thể, không dám và không muốn tham nhũng.

Ba là, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân và cơ quan truyền thông trong giám sát quyền lực. Đảng, Nhà nước cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện cơ chế, pháp luật và chính sách, đáp ứng các điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tham gia phản biện xã hội trong việc giám sát quyền lực. Phát huy tốt vai trò của báo chí và truyền thông, các thiết chế Quy chế Dân chủ cơ sở, bảo đảm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân biết sử dụng quyền lực của mình một cách hiệu quả, từ việc lựa chọn người đại diện cho mình đến giám sát, phản biện xã hội; từ việc khiếu nại, tố cáo đến biểu thị ý kiến đúng pháp luật. Nhà nước kiểm soát các biểu hiện dân chủ quá trớn, tự do vô lối bằng các chính sách, pháp luật nhằm hạn chế tính tự phát, tâm lý đám đông tiêu cực trong các xung đột xã hội. Thực hiện quyền của mình, nhân dân kiểm soát Nhà nước thông qua hệ thống bầu cử, sử dụng các công cụ giám sát khác, như: giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo, công tác thanh tra, kiểm toán,… để kiểm soát quyền lực nhà nước. Tận dụng thế mạnh của các kênh và hình thức thông tin đa dạng, phong phú nhằm đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đối nội và đối ngoại về quan điểm, chính sách và thành tựu đã đạt được trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa quyền lực. Từ đó, nâng cao trách nhiệm, củng cố quyết tâm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, xây dựng và thực hiện những biện pháp hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống sự tha hóa quyền lực, “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích” tiêu cực; đồng thời, phản bác có hiệu quả các luận điệu vu cáo, xuyên tạc vấn đề này đối với nước ta.

Bốn là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân. Đây là nội dung quan trọng nhất, bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Do vậy, phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là người đứng đầu, không để xảy ra tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Việc kiểm soát quyền lực trước tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát của mỗi cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Họ phải tự thấy rõ đó là quyền lực của nhân dân trao cho, ủy quyền cho họ thực hiện vì mục đích chung, vì lợi ích của nhân dân; không phải là quyền lực riêng của họ, nên phải thực hiện đúng, đủ quyền lực, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được trao, không được lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân. Từ đó, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành người thực sự có “tâm”, có “tầm”, vượt lên chính mình và ma lực cám dỗ của quyền lực, đồng tiền. Đặc biệt, các cấp ủy, chi bộ cần phát huy dân chủ, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện tha hóa quyền lực, tham nhũng của cán bộ, đảng viên. Bởi, chi bộ là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.

Thực tế, những cán bộ tha hóa biến chất không chỉ là “những bầy sâu” xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực, “ăn không từ thứ gì”, mà ở một số lĩnh vực, nó còn thao túng cả chính sách, thậm chí cả công tác cán bộ; để vợ, chồng, con cái, người thân nhúng tay, can thiệp, điều hành “ghế” quyền lực của mình. Điều đáng sợ và cực kỳ nguy hiểm cho Đảng là: những cán bộ tha hóa, biến chất không chỉ vi phạm pháp luật một thời gian dài nhưng vẫn được cất nhắc lên vị trí cao hơn, mà họ còn có thể cất nhắc đệ tử ruột của mình “nối ngôi”. Và câu chuyện “cả họ làm quan” vẫn chưa có hồi kết dẫu thời gian qua đã có nhiều bài học, nhiều gương soi nhỡn tiền. Do đó, phải thay đổi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ thì mới hy vọng chấm dứt được vấn nạn này để người hiền tài có đất dụng võ. Với những chức danh do bầu cử thì phải có chương trình, hành động cụ thể. Với những chức danh do bổ nhiệm thì phải thi tuyển nghiêm ngặt. Phải ban hành bộ tiêu chí đánh giá theo từng hành vi công vụ để trên cơ sở đó loại bỏ những cán bộ không có năng lực, không xứng đáng ra khỏi bộ máy.

Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lựa chọn, bố trí những cán bộ, đảng viên có đức, có tài, thực sự vì Đảng, vì dân vào làm việc trong bộ máy nhà nước. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực; xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lạm dụng, lợi dụng quyền lực, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết loại ra khỏi bộ máy những cán bộ tham vọng quyền lực, tham nhũng, cơ hội, vụ lợi, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong thực hiện phải gắn chặt với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu từ trong Đảng, xây dựng hình ảnh mẫu mực về Đảng cầm quyền. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; biểu dương và nhân rộng những tấm gương điển hình về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Năm là, thực hiện tốt công tác kiểm tra, thanh tra, điều tra, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong một số lĩnh vực trọng điểm, như quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, quản lý tài chính trong doanh nghiệp nhà nước; thu, chi ngân sách nhà nước; quản lý tài sản công; công tác quy hoạch, tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Coi trọng công tác kiểm tra, thanh tra phòng, chống tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích” tiêu cực trong chính các cơ quan kiểm tra, thanh tra. Đồng thời, tích cực giám sát, phát hiện, triệt tiêu các biểu hiện móc nối, hình thành “nhóm lợi ích” giữa các đối tượng phải thanh tra, kiểm tra với cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất trong các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, từ đó mới có thể chống được hiện tượng che chắn khuyết điểm, làm nhẹ tội, chạy tội của các đối tượng này.

Vừa qua, chúng ta đã xử lý một loạt quan chức bị kỷ luật Đảng, cách hết chức danh nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng, thậm chí bị xử lý hình sự. Đáng chú ý là, nhiều người trong số đó bị kỷ luật, bị hầu tòa không phải vì chức vụ hiện tại đang giữ mà là những sai phạm từ trước. Điều đó cũng đồng nghĩa, tuy quy trình công tác cán bộ của chúng ta rất chặt, nhưng vẫn “lọt lưới” những đối tượng biến chất, họ vẫn tiếp tục lên chức. Đây là bài toán cần giải trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Vì vậy, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, “lợi ích nhóm” tiêu cực. Những người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tiêu cực “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích” phải chịu trách nhiệm liên đới và xử lý đúng quy định của pháp luật. Cần phải luật hóa để tiến tới kiên quyết tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; xử lý nghiêm những người bao che tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ rõ: “Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn; ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”. Dù còn những khó khăn, hạn chế nhất định, nhưng với thành tựu đã đạt được trong đấu tranh, xử lý tham nhũng, tha hóa quyền lực thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng rằng, với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta sẽ thực hiện thành công mục tiêu đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/nhot-quyen-luc-trong-long-co-che/16012.html

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...