Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021

Báo cáo nhân quyền của EEAS chưa khách quan về Việt Nam

Trong khuôn khổ buổi họp báo thường kỳ diễn ra ngày 24/6, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã đưa ra những bình luận liên quan đến Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới 2020 của Cơ quan Đối ngoại EU (EEAS).

"Chúng tôi ghi nhận những đánh giá về thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ quyền lao động, chống lao động trẻ em và thúc đẩy bình đẳng giới trong Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới năm 2020 của Cơ quan Đối ngoại EU. Rất tiếc báo cáo vẫn còn một số nội dung chưa khách quan dựa trên những thông tin không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam", bà Lê Thị Thu Hằng bày tỏ. 

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho rằng báo cáo của EEAS vẫn còn một số nội dung chưa khách quan dựa trên những thông tin không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam.

Trên thực tế, như đã nhiều lần khẳng định, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người. Điều này đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013, các văn bản pháp luật liên quan và được tôn trọng, triển khai trên thực tế, được khẳng định qua các thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế, công tác phòng chống đại dịch COVID-19 hiện nay. Các nỗ lực và thành công đó cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong nhiều khuôn khổ song phương và đa phương, như Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Theo bà Lê Thị Thu Hằng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin ở Việt Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của báo chí Việt Nam và thực tế hơn 70% dân số Việt Nam sử dụng mạng Internet và mạng xã hội quốc tế và trong nước.

"Tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử chỉ vì “bày tỏ chính kiến”, “bảo vệ nhân quyền”. Như các quốc gia khác, Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Quá trình điều tra, xét xử và giam giữ được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật; quyền của người bị giam giữ được bảo đảm", bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng khẳng định, Việt Nam coi trọng quan hệ Đối tác Hợp tác Toàn diện với EU. Việt Nam sẵn sàng trao đổi, hợp tác với EU trong vấn đề quyền con người trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thông qua cơ chế đối thoại nhân quyền thường niên và các khuôn khổ trao đổi song phương khác.

Việt Nam hiện thực hóa quyền con người bằng nhiều chính sách thiết thực

 Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai các biện pháp đồng bộ, ưu tiên dành nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Các thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội và việc tăng cường hội nhập quốc tế đã tạo ra các điều kiện vật chất và nguồn lực để Việt Nam bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân.

Cho đến nay, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế, khu vực, đa phương và song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG).

Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Việt Nam cũng nhanh chóng đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng là quyền được sống của người dân; đồng thời thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tác động của dịch đối với nền kinh tế, duy trì và phục hồi sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là những người dễ bị tổn thương.

Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã thông qua 36 luật, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, góp phần cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Bộ luật Lao động, Luật Thanh niên, Luật Cư trú, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Thư viện... Các luật này đã góp phần kiến tạo thể chế, khung pháp lý điều chỉnh trên lĩnh vực kinh tế-xã hội có liên quan trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của người dân.

Thực hiện một số khuyến nghị theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi, bổ sung một số Luật phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc sửa đổi Luật Trẻ em, cụ thể là định nghĩa trẻ em là người dưới 18 tuổi, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại dâm, quy định cụ thể định nghĩa quấy rối tình dục trong Bộ luật Lao động 2019...

Nhiều Chương trình hành động cấp quốc gia được ban hành như Chương trình hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2021-2030, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, Chương trình bảo vệ trẻ em trên không gian mạng và Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, Chương trình phát triển xã hội giai đoạn 2021-2030…, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam đang tiếp tục triển khai Luật Bình đẳng giới, Luật Người khuyết tật và tích cực nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về các vấn đề này.

Việc bảo đảm các quyền con người của Việt Nam được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam hiện là thành viên của 7/9 Công ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Việt Nam cũng là thành viên của 25 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế, trong đó có 7/8 Công ước cơ bản; đang nghiên cứu phê chuẩn Công ước cơ bản còn lại là Công ước 87 về Quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức. Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết nghĩa vụ theo các công ước này, trong đó có nghĩa vụ báo cáo tình hình thực thi các Công ước tại Việt Nam.

Nỗ lực trong phát triển kinh tế và bảo đảm sinh kế, tạo nền tảng cho việc thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho người dân, Việt Nam đã tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 đã có những kết quả tích cực như tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 2,75%, bình quân trong 5 năm giai đoạn giảm khoảng 1,43%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 24%, bình quân trong 5 năm giảm 5,65%. Trong thời kỳ đại dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động; chủ trương bảo đảm tiêm vaccine phòng COVID-19 miễn phí cho người dân theo các đối tượng ưu tiên mà WHO khuyến nghị.

Về giáo dục, tại Việt Nam, người dân được tạo điều kiện để học liên tục mọi nơi, học suốt đời theo nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, trong giai đoạn 2012-2020 đã xóa mù chữ cho 295.308 người trong độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-35 là 99,3%. Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho các nhóm yếu thế, trong đó tập trung hỗ trợ học sinh vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, việc tiếp cận thông tin của người dân ngày càng được phát triển, rộng mở, đặc biệt là người dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.

Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Mạng lưới viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa và phát triển rộng khắp với mức phủ sóng đạt 99,7% dân số, trong đó mạng 3G và 4G phục vụ 98% dân số. Theo báo cáo xếp hạng An toàn an ninh mạng toàn cầu (GCI) năm 2020 do ITU công bố mới đây, Việt Nam đã tăng 25 bậc trong 2 năm, vươn lên vị trí thứ 25 trong tổng số 194 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 7 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thứ 4 trong khu vực ASEAN.

Trong lĩnh vực tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và có hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung độc lập được đăng ký sinh hoạt tôn giáo (trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam).

Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước hiện có 50.703 cơ sở tín ngưỡng; có 29.801 cơ sở tôn giáo, 53.390 chức sắc, 95.360 chức việc; 40.075 người vừa là chức sắc, vừa là chức việc tại 62/63 tỉnh, thành phố và 26.548.509 tín đồ. Việt Nam hiện có 63 cơ sở giáo dục, đào tạo tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo với hơn 18.000 học viên đăng ký theo học các khóa đào tạo tôn giáo mỗi năm. Năm 2020 có khoảng 230 cơ sở thờ tự được xây mới, 308 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa...

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm

Nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng mở ra giai đoạn phát triển mới, trong bối cảnh đất nước tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Tại Hội nghị lần thứ 4 vừa qua, Trung ương nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới.

 Với Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Trung ương đặt ra yêu cầu tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa năm nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trong đó, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên sai phạm là giải pháp căn cơ, nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, cảnh báo, răn đe, phòng ngừa sai phạm.

 Kế thừa thành quả của nhiệm kỳ qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Kết luận số 21 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp tiếp tục phát huy vai trò, vị trí, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên; tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và có nhiều khiếu kiện, khiếu kiện kéo dài; chú trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh vi phạm từ khi mới phát sinh... 

Thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát thời gian qua cho thấy, có nhiều sai phạm, tiêu cực xảy ra trong một số lĩnh vực khó, mới đối với công tác kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, với quyết tâm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đội ngũ những người làm công tác kiểm tra đã hoàn thành không ít việc khó, chưa có tiền lệ.

Bài học kinh nghiệm được chia sẻ, đó là tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm, kết hợp kiểm tra thường xuyên với kiểm tra dấu hiệu vi phạm, giám sát chuyên đề; làm bài bản, chặt chẽ, khoa học, đến đâu chắc đến đó, phát hiện sớm, xử lý từ đầu không để tích tụ thành sai phạm lớn, ngăn ngừa vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người…

Nhiều văn bản chỉ đạo của Đảng đã nêu rõ, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan, đơn vị phải gương mẫu thực hiện và có trách nhiệm chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chủ động tự phát hiện vụ việc, dấu hiệu vi phạm trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình.

Kết quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng chính là thước đo, đánh giá phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu. Theo Kết luận số 21, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực phải bắt đầu từ nhận thức, trách nhiệm cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Theo đó, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát người đứng đầu thực hiện trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; trách nhiệm nêu gương…

Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp; thực hiện nghiêm chế độ tiếp dân, đối thoại trực tiếp và xử lý kiến nghị, phản ánh của người dân. Qua đó, nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế được phát hiện sớm, đẩy nhanh điều tra, truy tố, xét xử, xử lý nghiêm minh. Nhiệm kỳ qua, ngành Thanh tra của tỉnh tiến hành hơn 500 cuộc, phát hiện nhiều sai phạm về kinh tế, kiến nghị thu hồi hơn 39 tỷ đồng, đã thu hồi hơn 80%; kiến nghị chuyển cơ quan cảnh sát điều tra làm rõ 6 vụ việc có dấu hiệu tội phạm về kinh tế. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 23 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước…

Thực tế cho thấy, ở đâu người đứng đầu nêu gương, tự tu dưỡng, rèn luyện tác phong, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương; chỉ đạo và quyết tâm tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; duy trì hiệu quả hoạt động đối thoại với công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thì ở đó, tình hình ổn định, thúc đẩy hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả, củng cố lòng tin của nhân dân và nâng cao vị thế, uy tín người đứng đầu.

Văn hoá gắn liền với tồn vong của dân tộc

Bất cứ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới nào từ ngàn xưa tới nay đều quan tâm đến văn hoá của riêng và của chung nhân loại. Việt Nam chúng ta có hay không, văn hoá của người Việt xưa và nay có gì khác biệt cũng là một câu hỏi lớn mà các nhà văn hoá, các học giả, người dân và Nhà nước đã và đang đặt ra.

Sau 75 năm Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946) và 73 năm Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948), ngày 24-11-2021 Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các ban, bộ ngành tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ ba để triển khai những định hướng lớn về văn hóa do Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra. 

Văn hoá đi liền với nhân loại, khi nhân loại xuất hiện trên hành tinh này mặc nhiên văn hoá song hành. Văn hoá để truyền tải suy nghĩ, hành động có ý thức hay vô thức giữa người với người, với vạn vật xung quanh.

Văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc sẽ nói lên, thể hiện đẳng cấp của quốc gia ấy ở cấp độ nào trên thế giới. Thế giới phẳng càng lộ rõ những phần lồi, phần lõm và sự yếu kém văn hoá của quốc gia đó.

Phải khẳng định rằng văn hoá cực kỳ quan trọng với bất cứ cộng đồng, sắc tộc nào đã và đang tồn tại trên thế giới. Văn hoá giúp cho sắc tộc đó, dân tộc đó, đất nước đó phát triển tốt hay không, văn minh hay lạc hậu...

Phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, sự quan tâm đến văn hoá của Việt Nam có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Lâu nay chúng ta tập trung quá nhiều về kinh tế, về thể chế chính trị mà sao nhãng lĩnh vực văn hoá. Đã 75 năm qua đi, chúng ta mới tổ chức một Hội nghị Văn hoá với quy mô toàn quốc (năm 1948 chúng ta tổ chức Hội nghị Văn hóa lần thứ hai ở chiến khu). Nền văn hoá không được quan tâm, coi trọng đúng mức nên để lại hậu quả vô cùng đáng lo ngại cho xã hội. Văn hoá, đạo đức thiếu chuẩn mực, thông tin trên báo chí chính thống và mạng xã hội nhiều khi cổ súy cho những hành động và việc làm thiếu văn hoá, không hướng tới chân - thiện - mỹ sẽ gây hiệu ứng xấu, phản tác dụng trong môi trường xã hội giáo dục lớp trẻ. Báo chí truyền thông là những cơ quan chính thống để truyền tải văn hoá đến người dân nhiều khi lại đưa tin không kiểm chứng, không khách quan và thiếu chính xác tạo điều kiện cho các trang mạng xã hội ăn theo, bóp méo, thổi phồng, tung tin giả nhưng tác hại thật, gây hoang mang dư luận đến cuộc sống của nhân dân.

Bác Hồ đã nói "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi" là câu nói không chỉ đúng với Việt Nam mà còn đúng với tất cả các nước trên thế giới. Nhưng triển khai và kết quả được nhiều hay ít lại do sức mạnh nội sinh của quốc gia đó, do cơ quan chủ quản có làm tốt được nhiệm vụ của mình hay không.

Việt Nam tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thành phần tham dự là những vị lãnh đạo quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội; các nhân sỹ trí thức trong nước và kiều bào. Hội nghị này do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chủ trì và phát biểu ý kiến chỉ đạo. 

Đứng ở góc độ khách quan mà nói, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cực kỳ quan trọng cho việc bảo tồn và chấn hưng nền văn hoá của Việt Nam. Bài phát biểu đã nêu rõ những tồn tại, yếu kém của văn hoá Việt nói chung và trách nhiệm của những người làm văn hoá. Nhiều giá trị văn hoá là cốt lõi, là hồn cốt của dân tôc, của đất nước bị mai một, bị lai căng và thiếu chuẩn mực. Tổng Bí thư đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp của các di tích lịch sử ngàn năm có một của đất nước có hơn bốn nghìn năm lịch sử. Sự suy đồi văn hoá khi con người tận dụng triệt để các di sản văn hoá phi vật thể và vật thể để thương mại hoá, để kiếm tiền bất chính.

Văn hoá chính là bản sắc của dân tộc, văn hoá hun đúc nên tư tưởng của mỗi người từ tấm bé đến khi trưởng thành và phát triển. Đất nước có văn hoá thì mặc nhiên con người có văn hoá bởi con người là chủ thể, con người là kế thừa và phát triển đưa văn hoá nội tại lên tầm cao mới, lan toả ra thế giới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi phát biểu về văn hoá trong thời kỳ hiện nay, ông trăn trở bởi văn hoá xuống cấp, có hiện tượng không ít cán bộ, đảng viên là những người lãnh đạo nhân dân, đất nước nhưng đã vi phạm pháp luật, đã tham ô, tham nhũng, tha hoá, biến chất. Bởi họ là những kẻ thiếu văn hoá, là những kẻ chạy chức, chạy quyền.

Văn hoá đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đời thường cũng như trong sự phát triển kinh tế, chính trị. Nhưng chúng ta đã lãng quên văn hoá một thời gian rất dài, bây giờ cần phải làm lại, làm ngay, làm luôn để phát triển văn hoá lên tầm cao mới ngang bằng với phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý là phải: Xác định được căn cơ cội nguồn của văn hoá Việt Nam; Định hướng bằng văn bản pháp quy có pháp lý cao nhất để cho các cơ quan, đơn vị và người dân thực hiện; Giải pháp nào hữu hiệu nhất để ngăn chặn những kẻ thiếu văn hoá lợi dụng để trục lợi; Việc quản lý văn hoá là chủ trương đúng, nhưng văn hoá là vô hình nhưng lại hữu hình nếu muốn “quản” thì phải có “lý” và hợp lòng dân.

Sau Hội nghị này, hệ văn hoá đa dạng của Việt Nam hy vọng sang trang mới, hy vọng có cách nhìn và cách tiếp cận mới, mang lại cho đất nước, dân tộc niềm tin mới và tương lai mới tốt đẹp hơn như mong muốn của hơn 98 triệu người dân đất Việt và Tổng Bí thư Nguyến Phú Trọng đã nêu trong Hội nghị.

                                                                                        Doanh nhân Nguyễn Hoài Bắc

                                                                                             Việt kiều Ca-na-đa

Nguồn: http://www.xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2021/16147/Van-hoa-gan-lien-voi-ton-vong-cua-dan-toc.aspx   

 

Mô hình KTTT định hướng XHCN đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng khách quan, khoa học, sáng tạo

Chủ trương phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được Đảng ta chính thức đưa ra tại Đại hội IX (2001). Mô hình KTTT định hướng XHCN đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền tảng tư tưởng phát triển của đất nước, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trò con người chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển.

Các thế lực thù địch, phản động tăng cường công kích, xuyên tạc, phủ nhận các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng qua các Đại hội với các luận điệu sau: 1) Xuyên tạc, bác bỏ định hướng XHCN của Việt Nam. Những nhóm này cho rằng phát triển KTTT thì không thể xây dựng CNXH, chủ trương gắn KTTT với định hướng XHCN là không có cơ sở, bởi chúng đối lập nhau như nước với lửa, không thể dung hòa. 2) Nhiều luận điệu phê phán quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế diễn ra không thực chất, chưa đạt nhiều kết quả, chỉ mang tính hình thức, cơ cấu kinh tế nước ta đang tỏ ra lạc hậu so với các nước khác. 3) Phủ nhận những nỗ lực thực hiện PTBV, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường của đất nước, ra sức lôi kéo các cộng đồng dân tộc thiểu số, các nhóm dễ bị tổn thương để phản đối, kích động biểu tình, ngăn cản các chính sách PTBV của Đảng và Nhà nước ta. 4) Tranh thủ những ý kiến nghi ngại về khả năng thích ứng của Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng để tìm cách chống phá, cản trở những nỗ lực hội nhập phục vụ phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những quan điểm, luận điểm này bộc lộ dã tâm, mưu đồ xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng. Những lý lẽ đưa ra có thể thấy là những quan điểm, lập luận hết sức phiến diện và phi khoa học, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phân tích, đánh giá. Thực tế cho thấy:

Thứ nhất, cần khẳng định KTTT là sản phẩm của nhân loại, được hình thành, phát triển gắn liền với quá trình xã hội hóa sản xuất, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Thực tiễn kể từ khi bắt đầu quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế những năm 1990 và đặc biệt cho đến những năm gần đây Đảng và Nhà nước đẩy mạnh chủ trương phát triển KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từng bước được cải thiện, đạt mức tăng khá cao trong bối cảnh nền kinh tế thế giới trì trệ. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt gần 2.800USD trong năm 2019, tăng 28 lần so với mức GDP bình quân đầu người năm 1990 (khoảng gần 100 USD). Định hướng XHCN đã tiếp tục chứng minh tính đúng đắn và ưu việt của mình thông qua đại dịch Covid-19, Đảng và Nhà nước ta đã làm rất tốt mục tiêu kép vừa ra sức chống dịch, vừa duy trì phục hồi và phát triển kinh tế, qua đó giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ nền tảng chính trị tốt đẹp cũng như những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đã đạt được thời gian qua. Do vậy, điều quan trọng nhất là kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh, đời sống con người phát triển và từng bước vươn lên ngang tầm với các nước phát triển trên thế giới. Đối chiếu với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam, có thể thấy việc Đảng ta lựa chọn mô hình “KTTT định hướng XHCN” là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, thể hiện sự khoa học và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển thời đại và yêu cầu phát triển đất nước đặt ra.

Thứ hai, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam, nhất là trong 5 năm trở lại đây, đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực và thực chất, thể hiện tính đúng đắn trong chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế. Quyết tâm đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu gắn với năng suất lao động, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong những kỳ Đại hội gần đây. Thành quả cho sự quyết tâm đó thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt mức 6,7% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 5,9%/năm của giai đoạn 2011-2015), đạt mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Cùng với đó, mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt gần 44,5%, cao hơn nhiều so với mức 33,6% của giai đoạn 2011-2015. Tỷ trọng giữa các ngành đã có sự chuyển biến đáng kể, theo hướng giảm tỷ trọng các ngành nông lâm thủy sản, tăng tỷ trọng trong công nghiệp - xây dựng, duy trì tỷ trọng ngành dịch vụ luôn ở mức cao (dao động trong khoảng 40%) trong tổng cơ cấu GDP. Mặc dù còn một vài hạn chế, nhưng có thể khẳng định rằng những kết quả đối mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam thời gian qua là rất đáng ghi nhận, thể hiện sự đúng đắn trong tư duy, định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ ba, là một trong những quốc gia được dự báo sẽ chịu tác động tiêu cực nhất từ biến đổi khí hậu, PTBV đã trở thành nội dung quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, PTBV của Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực: Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,5%/năm giai đoạn 2016-2019, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ khoảng 75% năm 2015 lên 90% năm 2019, tỷ lệ học sinh được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học xấp xỉ 100%, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội (nhiệm kỳ 2016-2021) là khoảng 25%. Ngoài ra, hơn 99% các hộ gia đình Việt Nam đã được tiếp cận với điện năm 2019, tỷ lệ dân số sử dụng in-tơ-nét là xấp xỉ 66%. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII (2021) của Đảng khi đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã trình bày 5 quan điểm phát triển: 1) Phát triển nhanh và bền vững. 2) Về thể chế phát triển. 3) Về nguồn lực con người. 4) Về xây dựng nền kinh tế, tự chủ. 5) Về sức mạnh tổng hợp quốc gia trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những thành tựu PTBV mà nước ta đã đạt được thời gian qua cho thấy, những chủ trương, định hướng của Đảng về PTBV đóng vai trò rất quan trọng, nó khẳng định đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước là đúng đắn. Đồng thời, là cơ sở vững chắc để củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, qua đó làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong tiến trình đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN của Đảng và nhân dân ta.

Thứ tư, hội nhập và liên kết kinh tế trong kỷ nguyên mới là xu hướng tất yếu, với các liên kết kinh tế khu vực và song phương đang và sẽ tiếp tục được thúc đẩy. Những năm qua, Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh phát triển KTĐN, hội nhập kinh tế với thế giới cũng như tham gia mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới kinh tế, KTĐN Việt Nam đã từng bước khẳng định là một động lực phát triển quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng từ mức khoảng 5 tỷ USD trong năm 1990 lên gần 30 tỷ USD năm 2000, lên khoảng 160 tỷ USD năm 2010 và lên khoảng 500 tỷ USD năm 2019, với cơ cấu hàng hóa chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm xuất khẩu thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến, mang hàm lượng giá trị gia tăng cao. Là một nước có độ mở kinh tế cao (khoảng 200% GDP), Việt Nam đã và đang tham gia 17 FTA, trong đó có 2 FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang thực hiện là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó mang lại nhiều kết quả tích cực đối với Việt Nam, đóng góp vào các mục tiêu về tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu cũng như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tựu chung lại, những nỗ lực của Đảng và Nhà nước là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh mới, việc nước ta lựa chọn con đường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển KTĐN là một lựa chọn đúng đắn và sáng suốt mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, góp phần nâng cao thực lực kinh tế và thực hiện khát vọng phát triển đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.

Để đấu tranh với các thế lực sai trái, thù địch, tất cả mỗi người Việt Nam phải kiên định lập trường, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước nói chung và tư tưởng phát triển kinh tế nói riêng; rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, chuyên môn, tầm nhìn để chủ động tranh luận, đấu tranh với các quan điểm sai lầm của các đối tượng. Cần phân biệt rõ các đối tượng chính để có giải pháp, hình thức phù hợp. Đối với một số quần chúng nhân dân do hạn chế về nhận thức, ta nên kiên trì giải thích, giáo dục để họ hiểu. Đối với kiều bào ở xa đất nước nếu có người không phải chủ tâm mà do bị lôi kéo, nhận thông tin lệch chuẩn, cũng phải chú ý tiếp xúc, vận động để bà con luôn có được nguồn tin chính thức, chính xác, đồng tình, ủng hộ đối với phát triển quê hương. Đối với lực lượng thù địch, đối kháng, cần có lập luận chặt chẽ, minh chứng rõ ràng, ngôn ngữ sắc bén để phản bác, phải phân hóa đội ngũ của họ, cô lập kẻ xấu để tập trung đấu tranh. Cuối cùng cách bảo vệ đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta hiệu quả có thể nói gọn là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cốt lõi sau: 1) Triển khai thành công trong thực tiễn các nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế bền vững, hài hòa mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đất nước. 2) Thực hành rộng rãi, kiên trì việc duy trì kỷ cương phép nước, phòng, chống tham nhũng, chống quan liêu, lãng phí mạnh mẽ, tích cực hội nhập quốc tế mọi mặt kể cả kinh tế, tạo thành quốc lực ngày càng vững mạnh, trở thành quốc gia có nền kinh tế phát triển, có uy tín trên thế giới. 3) Chủ động, sáng tạo trong giải thích, thông tin, truyền thông tất cả đường lối, chính sách của Đảng để mọi công dân thấu hiểu, tự giác nâng cao nhận thức, giác ngộ trước các thủ đoạn chống phá của thế lực xấu. 4) Tích cực đấu tranh dư luận bằng các biện pháp phù hợp, kể cả trên mặt trận tư tưởng văn hóa, các diễn đàn, trên sách báo, trên các phương tiện truyền thông.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc

 Khi nói về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (tháng 2/1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn thể phong trào. Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.

Cùng với đó, “Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản” cũng ghi rõ điều kiện và tiêu chuẩn để trở thành đảng viên cộng sản, trong đó, không thể không nhắc đến các yêu cầu như thừa nhận chủ nghĩa cộng sản; không tham gia vào mọi tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc chống cộng sản; hoạt động phù hợp với mục đích của Đảng; có nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành khi tiến hành công tác tuyên truyền; giữ bí mật công việc của Đảng; được một chi bộ đồng ý kết nạp… Điều đó có nghĩa là, Đảng Cộng sản là tổ chức của những con người thực sự tiêu biểu, vượt trội về nhận thức, tư tưởng, hành động hơn quần chúng ngoài Đảng và đảng viên của Đảng Cộng sản phải là những người có đủ năng lực, phẩm chất để tuyên truyền, vận động, thuyết phục giai cấp công nhân và các tầng lớp khác tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp bóc lột.

Ở Việt Nam, được xây dựng và phát triển theo nguyên tắc một Đảng Mácxít Lêninnít chân chính, Đảng Cộng sản là một tổ chức của những con người tiên tiến nhất. Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc. Trong một chỉnh thể được tổ chức chặt chẽ, thống nhất ấy, mỗi đảng viên là một tế bào của Đảng; sinh hoạt gắn liền và chịu sự lãnh đạo, quản lý, kiểm tra của tổ chức Đảng. Để trở thành một thành viên của tổ chức ấy, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, tháng 2-1930) đã ghi rõ tại mục III: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng thời được vào Đảng”. Trong từng giai đoạn cách mạng, từng thời điểm cụ thể, căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Đảng và trình độ giác ngộ cách mạng của quần chúng, Đảng đề ra điều kiện, tiêu chuẩn đảng viên phù hợp và chặt chẽ, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Cụ thể, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại Đại hội lần thứ XI, tháng 1-2011) quy định tại mục 2, Điều 1 là: “Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”.

Từ quy định trong Điều lệ vắn tắt và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể thấy rõ rằng, người/quần chúng muốn trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam thì tất yếu phải tuân thủ những quy định, nguyên tắc và Điều lệ Đảng. Đó gọi là “tính Đảng”, đồng thời cũng chính là sự thừa nhận một cách tự nguyện và tuyệt đối trung thành với nền tảng tư tưởng của Đảng; với lý tưởng cách mạng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam mà Đảng lựa chọn. Người được kết nạp vào Đảng nhất định phải là những người ưu tú trong quần chúng; phải có giác ngộ chính trị tốt, thể hiện được tính tiên phong trong mọi lĩnh vực công tác và cuộc sống đời thường; đồng thời, có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó. Đó chính là giá trị cao quý của Đảng để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong; đồng thời cũng là giá trị của mỗi người đảng viên trong quá trình phấn đấu, trưởng thành. Điều đó cũng có nghĩa là quần chúng đã muốn/đã quyết tâm phấn đấu vào Đảng thì đều phải nhận thức sâu sắc rằng, đã "gọi là đảng viên thì phải biết rõ Đảng ta phải làm gì, vào Đảng để làm gì…Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng… Đảng không bắt buộc ai vào Đảng cả. Vào thì có nhiệm vụ, có trách nhiệm của đảng viên, nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.

Để làm tròn nhiệm vụ rất nặng nề nhưng rất vẻ vang là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh. Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”, song “Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân, Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”. Vì thế, Người yêu cầu "Đảng phải phát triển tổ chức của mình một cách thận trọng, vững chắc và rộng rãi trong quần chúng”, thông qua quá trình phát hiện, bồi dưỡng quần chúng về mọi mặt; đồng thời, các tổ chức cơ sở Đảng “cần phải xem công tác củng cố và phát triển đảng là một công tác quan trọng và thường xuyên. Và phải nắm vững phương châm phát triển Đảng là trọng chất hơn lượng” để đề phòng các phần tử thù địch, cơ hội chui vào Đảng.

Vì nghiêm túc trong công tác phát triển đảng viên và coi đó là một nội dung quan trọng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cho nên trong hơn 91 năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, phương hướng phát triển đảng viên được đẩy mạnh theo từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Theo nghị quyết các nhiệm kỳ Đại hội Đảng và kế hoạch công tác hằng năm, các cấp ủy Đảng đã căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương, cơ quan, đơn vị để tập trung phát triển Đảng toàn diện; đặc biệt, đẩy mạnh việc phát triển Đảng trong công nhân và các thành phần khác như sinh viên đang học tập tại hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các học viện, nhà trường, ở các vùng nông thôn hay tại các doanh nghiệp, trong các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và lao động tự do tại các địa phương… tự nguyện rèn luyện tư tưởng, lập trường giai cấp công nhân/mong muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng, phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cao cả của Đảng.

Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc và sức mạnh niềm tin của nhân dân trước yêu cầu mới của Đảng

Năm 2021, đánh dấu chặng đường 35 năm đổi mới của đất nước. Những thành quả đạt được từ trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước đã cho phép Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam hướng đến khát vọng lớn hơn là phồn vinh, hạnh phúc. Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc chính là sự kết tinh bản lĩnh, trí tuệ của Đảng dựa trên sự đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Đó không phải là khát vọng giản đơn, xuôi chiều, mà được bồi đắp trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng thời tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong cần phải kiên quyết khắc phục, thích ứng, vượt qua. Đó cũng là sự vận dụng phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến, nhạy bén chớp thời cơ, chủ động ứng phó với nguy cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển.

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mang sức sống hiện thực được hình thành, bồi đắp trên một cơ tầng khoa học về lộ trình hướng đích, bước đi được dự liệu rõ ràng và là sự kế thừa, hoàn thiện những mục tiêu đã được xác định từ những giai đoạn trước. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúcgắn liền với quá trình xây dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và giá trị chuẩn mực, cùng sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn liền với phát huy đồng bộ hệ động lực phát triển: Dân chủ xã hội chủ nghĩa; đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và cuộc bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp cho thấy, quần chúng nhân dân đã sẵn sàng hành trang, tâm thế để cùng Đảng, Nhà nước bước vào vận hội mới. Do vậy, để phát huy được tối đa sức mạnh niềm tin của nhân dân vào quá trình hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thiết nghĩ cần phải chú trọng đến các định hướng cụ thể sau:

Thứ nhất, cần nâng tầm và đặt đúng vai trò, vị trí của niềm tin nhân dân trong chiến lược phát triển. Phải xem sức mạnh niềm tin nhân dân là động lực của sự phát triển quốc gia. Động lực này không chỉ là kết quả từ sự kiến tạo niềm tin của nhân dân, của mỗi người lao động, của các doanh nghiệp đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí, quản trị hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; mà còn là sự kiến tạo niềm tin và trách nhiệm cao cả của Nhà nước đối với nhân dân với tư cách là chủ nhân, chủ thể phát triển của xã hội, của đất nước. Đó còn là sự kiến tạo niềm tin dựa trên các mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa các chủ thể với nhau trong cộng đồng quốc gia, dân tộc, kết tụ ở việc luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. 

Động lực này sẽ được xác lập dựa trên những nền tảng đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đúng đắn của của Đảng, Nhà nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trên nền tảng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách quản lí, quản trị phát triển hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch; một nền hành chính liêm chính, tinh thần trách nhiệm cao trước dân; trên nền tảng một đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức “thực đức, thực tài”, thực sự công bộc, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích phát triển của đất nước lên trên hết. Động lực này sẽ phát huy cao độ khi thực hành dân chủ xã hội rộng rãi gắn liền với thực thi kỉ cương phép nước, “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”; tôn trọng, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của của mỗi con người, của nhân dân và của tất cả các chủ thể trong xã hội. Có được động lực niềm tin thì tất cả mọi người dân trong xã hội mới vững tâm mang tất cả tâm huyết, nguồn lực, trí tuệ, tài năng của mình ra để cống hiến cho sự phát triển chung của đất nước và dân tộc. Động lực này cũng là sự kết tinh, kết tụ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội khát vọng chấn hưng đất nước của mỗi con người, của toàn dân tộc với sự lãnh đạo của Đảng và quản lí của Nhà nước. Có thể nói, niềm tin của quần chúng nhân dân chính là thước đo quý giá nhất đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, khả năng quản lí đất nước của Chính phủ và là một động lực to lớn nhất, chính yếu nhất cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. 

Thứ hai, cần chú trọng xây dựng cơ sở để nhân dân kí thác niềm tin và thể hiện tình yêu đối với đất nước. Xưa nay, niềm tin và tình yêu Tổ quốc luôn sẵn có nơi mỗi người dân Việt và nó được duy trì, phát triển dựa trên tư duy của nhà quản lí. Tuy nhiên nếu niềm tin và lòng yêu nước không được định hình dựa trên nền tảng, quan điểm và cả những định hướng cụ thể thì sẽ rất dễ bị tổn thương và lợi dụng. Trường hợp nêu trên đã từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam và rõ nhất là qua âm mưu của các nhà truyền giáo ở thời kì cận đại... Và ngày nay trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, niềm tin và tình yêu quê hương, đất nước cũng cần phải được định hình dựa trên những cơ sở thật sự cụ thể nếu ko sẽ bị lợi dụng để phục vụ cho các toan tính cá nhân hoặc các tổ chức đối lập, chống đối. Điều này sẽ tạo nên những hệ lụy và hậu quả vô cùng to lớn đối với sự an nguy của đất nước.

Để xây dựng môi trường cho niềm tin hình thành và phát triển, thì trước hết phải được bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách thực sự đúng đắn và phù hợp. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa lợi ích, nguyện vọng của nhân dân; lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc và quyền lợi căn bản của công dân làm mẫu số chung cho quá trình phát triển; phải xem trọng nhân dân với tư cách là chủ thể của việc tạo lập niềm tin trong xã hội... Phải chăm lo xây dựng con người phát triển toàn diện theo hướng trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý chí, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Phải tạo nên được những sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, niềm tin sâu sắc vào truyền thống lịch sử, vào văn hóa dân tộc. Phải gắn việc xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Phải nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, khát vọng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế...

Thứ ba, cần gắn chặt vấn đề xây dựng, phát huy sức mạnh niềm tin với việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Có niềm tin mới có đoàn kết dân tộc. Sự phát triển hay suy giảm niềm tin luôn kéo theo tỉ lệ thuận tương ứng của tinh thần đoàn kết dân tộc. Do đó cần đặt mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc với việc củng cố và phát huy niềm tin trong quần chúng nhân dân. Việc gắn chặt niềm tin với tinh thần đoàn kết không chỉ cho phép tăng thêm sức mạnh nội lực trong quá trình phát triển, hội nhập sâu rộng với thế giới mà còn làm gia tăng thêm sức đề kháng cho quốc gia trong việc đập tan các hành động xâm lấn của kẻ thù và cả những âm mưu chống đối, chống phá nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, chỉ có sức mạnh của tinh thần đoàn kết mới mang lại cho dân tộc một sự phát triển ổn định và thịnh vượng, mới giúp dân tộc thành công trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và niềm tin chính là mẫu số chung có giá trị cao nhất để thúc đẩy các thành viên trong xã hội xích lại gần nhau, đoàn kết, gắn bó keo sơn với nhau trong một chỉnh thể nhà nước, quốc gia thống nhất./.

Anh tặng Việt Nam thêm 320.000 liều vắc xin AstraZeneca

Tối 9-12, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng điện đàm với Quốc vụ khanh phụ trách châu Á, Bộ Ngoại giao và Phát triển Anh Amanda Milling.

Tại cuộc điện đàm, hai bên đã bày tỏ vui mừng trước sự phát triển tốt đẹp, tích cực và toàn diện của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Anh. Năm 2021, mặc dù chịu tác động của đại dịch Covid-19, hai nước vẫn đẩy mạnh các cuộc trao đổi cấp cao hiệu quả và thực chất. Hai bên đã trao đổi cụ thể các biện pháp triển khai những nội dung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã thống nhất nhằm nâng tầm và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Anh trong thời gian tới.

Nhân dịp này, Quốc vụ khanh Amanda Milling thông báo Chính phủ Anh quyết định tặng Việt Nam thêm 320.000 liều vắc xin AstraZeneca. Thứ trưởng Tô Anh Dũng bày tỏ cảm ơn Chính phủ Anh về quyết định này và đề nghị Anh tiếp tục hỗ trợ Việt Nam tiếp cận vaccine, thuốc điều trị Covid-19, đặc biệt là chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, để sớm cùng nhau vượt qua khó khăn, tiến tới kiểm soát đại dịch.

Hai bên cũng trao đổi về một số vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng và duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, cũng như bảo đảm tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế, coi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 là khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương.

Bộ Ngoại giao lên tiếng việc Quốc ca Việt Nam bị tắt tiếng khi chào cờ

Tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao diễn ra chiều nay (9/12), PV Dân trí đặt câu hỏi: Trong khuôn khổ giải bóng đá AFF Cup 2020 đang diễn ra ở Singapore, tại lễ chào cờ trước trận bóng đá Việt Nam - Lào tối 6/12, quốc ca Việt Nam bị tắt tiếng trên nền tảng YouTube. Bộ Ngoại giao cho biết quan điểm về sự việc này?

Bà Lê Thị Thu Hằng - Người phát ngôn Bộ Ngoại giao - cho hay, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và phải thực hiện các biện pháp cần thiết để giữ gìn, phát huy giá trị của Quốc ca Việt Nam.

"Tất cả các cá nhân, tổ chức phải thực hiện nghiêm và không được có bất kỳ hành vi nào ngăn chặn việc phổ biến Quốc ca Việt Nam" - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

Trước đó, khi đội tuyển Việt Nam hát quốc ca trước trận đấu trên sân Bishan tại Singapore, trên màn hình kênh YouTube nắm bản quyền phát trận đấu đã hiện thông tin với nội dung: "Vì lý do bản quyền âm nhạc, chúng tôi buộc lòng phải tắt tiếng ở phần lễ chào cờ. Sau lễ chào cờ, tín hiệu âm thanh sẽ trở lại bình thường, mong quý vị khán giả thông cảm!".

Phía đơn vị nắm bản quyền AFF Cup 2020 tại Việt Nam là Next Media đã chủ động tắt tiếng khi đội tuyển Việt Nam hát Quốc ca để tránh những rắc rối về bản quyền. Điều này đang tạo nên nhiều tranh cãi.

Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) khẳng định đã cung cấp bản Quốc ca chuẩn cho cho Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC). Bản này được đơn vị xin phép lấy nguồn từ Cổng Thông tin Chính phủ để cung cấp cho AFC.

Trước mắt, VFF xử lý bằng việc gửi bản thu âm Quốc ca mới cho ban tổ chức AFF Cup 2020. Bản thu âm Quốc ca này được sử dụng trong các nghi lễ quốc gia của Việt Nam. 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...