Thứ Tư, 15 tháng 6, 2022

Cán bộ có chức, quyền và ý thức tự giáo dục liêm chính

Kết quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng thời gian qua đã chỉ ra tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống không còn mơ hồ, chung chung mà hiện hữu ở nhiều lĩnh vực, cấp, ngành, địa phương, đơn vị, với mức độ ngày càng nghiêm trọng, cần được loại bỏ triệt để.

Nhìn từ những sai phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên liên quan các vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á; Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao; các kết luận gần đây của Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ nhiệm kỳ 2016-2021; Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu các nhiệm kỳ 2015-2020, 2020-2025; Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh Trà Vinh các nhiệm kỳ 2015-2020, 2020-2025… cho thấy một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, không giữ được liêm chính trước cạm bẫy lợi quyền. Nghiêm trọng hơn khi những người được giao quyền hạn, trách nhiệm đã lợi dụng tình trạng khẩn cấp trong phòng, chống dịch bệnh, bất chấp kỷ cương, phép nước, đạo đức xã hội để thực hiện hành vi vơ vét, trục lợi cá nhân.

Qua các vụ án, vụ việc liên quan tham nhũng, tiêu cực vừa qua cho thấy, số lượng tổ chức đảng và đảng viên bị kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và truy cứu trách nhiệm pháp lý ở mức đáng lo ngại, với tính chất, mức độ, phạm vi, hậu quả rất nghiêm trọng. Phần lớn cán bộ, đảng viên vi phạm bị kỷ luật đều là những người có chức, có quyền, nắm giữ những vị trí trọng trách, người đứng đầu cấp ủy, đơn vị ở nhiều cấp, ngành, địa phương. Trước mỗi quyết định kỷ luật, câu hỏi thường được đặt ra là vì đâu nên nỗi, khi rất nhiều trong số đó là những cán bộ, đảng viên được đào tạo bài bản, có trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị cao, có quá trình trưởng thành từ thực tiễn. Trên cương vị của mình, hơn ai hết họ phải là người hiểu rõ về các quy định, quy chế làm việc, thẩm quyền, mối quan hệ trách nhiệm cá nhân-tập thể, quy trình xử lý công việc... Nhưng tất cả đã bị bỏ qua chỉ vì danh lợi trước mắt, vì lợi ích cá nhân đã đặt lên trên hết, cao hơn cả tự trọng của chính mình.

Trong các quyết định gần đây của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, đã chỉ ra cái gốc của vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát lớn ngân sách nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, suy giảm niềm tin trong nhân dân, chính là bắt nguồn từ sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Điều này khẳng định, suy thoái là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, là căn nguyên vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước.

Tình trạng suy thoái như Trung ương đã cảnh báo, chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong các nguyên nhân dẫn đến suy thoái, Trung ương đã nhận định, có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Không thể ngụy biện, suy diễn bi quan mà đổ lỗi cho cơ chế, bởi không có cơ chế, chế tài nào có thể kiểm soát hết được diễn biến nội tại trong mỗi con người, cũng không thể cưỡng chế lòng tham khi họ cố tình vi phạm.

Các quyết định kỷ luật nghiêm khắc tổ chức đảng, đảng viên vi phạm thời gian qua thể hiện sự nghiêm minh, nhất quán trong chỉ đạo và hành động của Đảng, thống nhất giữa nói và làm, cấp trên làm gương cho cấp dưới. Đây là những bản án nghiêm khắc, đúng người, đúng tội được dư luận đánh giá cao về tính công khai, minh bạch, khẩn trương trong kiểm tra, điều tra, xử lý. Đó tiếp tục là bài học đắt giá trong công tác xây dựng Đảng nói chung, đối với mỗi tổ chức đảng nói riêng; là bài học cảnh tỉnh cho mỗi đảng viên, nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý về tự soi, tự sửa, tự tu dưỡng, rèn luyện chính mình.

Đấu tranh với sai phạm làm trong sạch nội bộ, củng cố đoàn kết trong Đảng để hướng tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ tâm, đủ tầm. Điều đó đòi hỏi hành động của mỗi cấp ủy, cán bộ người có vị trí càng cao càng phải làm gương về tự giáo dục liêm chính, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, nhân dân và của Đảng lên trên hết.

Trò lố của những con rối lưu vong

Ngắt câu, cắt ý, chẻ chữ, lên giọng giễu cợt, mỉa mai, ám chỉ, xuyên tạc, suy diễn, dạy đời... là những trò lố của một số đối tượng bất mãn, phản động lưu vong.

 Lên internet cóp nhặt thông tin, với mớ kiến thức lỗ mỗ, một số đối tượng cố làm ra vẻ hiểu biết, thực hiện những hình thức gọi là “bình luận”, “phân tích”, “hội luận”, “đánh giá”... tình hình chính trị của đất nước nhằm lòe bịp công chúng. Hành vi sai trái của họ đã bị công chúng yêu nước lật tẩy, lên án...

“Tôi thấy bạn nên xóa kênh và đi học lại, nhất là môn Giáo dục công dân đi bạn ơi!...”. Đó là dòng bình luận của tài khoản có tên “Tu Nguyen” ngay bên dưới một clip trên kênh YouTube của đối tượng Đường Văn Thái (còn gọi là Thái Văn Đường) khi đối tượng này “bình luận” việc người dân Việt Nam xuống đường ăn mừng đội tuyển bóng đá U.23 Việt Nam vô địch SEA Games 31. Lấy chuyện ăn mừng chiến thắng của đội U.23 Việt Nam để suy diễn, xuyên tạc tình hình chính trị của đất nước, luận điệu bất mãn của Đường Văn Thái bị công chúng yêu nước gọi là “bình loạn” kiểu “ếch ngồi đáy giếng”. Đáng tiếc, một bộ phận người dùng mạng xã hội (MXH) do thiếu hiểu biết hoặc tò mò, lại hùa theo những luận điệu sai trái đó. Tuy nhiên, với tinh thần xây dựng, đấu tranh, rất nhiều tài khoản MXH đã góp ý, lên tiếng khuyên Đường Văn Thái hãy tỉnh ngộ, sám hối, quay đầu là bờ. Một số người vì quá bức xúc trước hành vi xúc phạm đất nước, chối bỏ quê hương của Thái, đã thẳng thừng gọi đối tượng này là kẻ phản bội, vô ơn, “qua cầu rút ván”...

Sau khi khống chế thành công đại dịch Covid-19, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc huy động nguồn lực để phục hồi kinh tế-xã hội, đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện chính trị-xã hội quan trọng, được dư luận khu vực và thế giới đánh giá cao. Những sự kiện nổi bật, tiêu biểu thời gian gần đây là chuyến thăm và làm việc của đoàn đại biểu cấp cao do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu tại Hoa Kỳ và Liên hợp quốc; SEA Games 31 tổ chức thành công rực rỡ tại Việt Nam; Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII); điều tra, xử lý các đối tượng tham nhũng liên quan đến Công ty Việt Á... Sự thành công rất tốt đẹp của các sự kiện chính trị, ngoại giao quan trọng đã góp phần củng cố, nâng tầm vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thể hiện lòng tin, niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước trên khắp các lĩnh vực đời sống xã hội. Hình ảnh cả rừng cờ sao xuống đường mừng chiến thắng; người dân Việt Nam thân thiện, nghĩa tình đón tiếp, phục vụ, cổ vũ đoàn vận động viên của các nước trên khắp các khán đài, khắp các địa phương; hai tiếng Việt Nam được xướng lên đầy trân trọng trên truyền thông quốc tế... đã trở thành cảm hứng chủ lưu trên truyền thông và MXH của người dân cả nước.

Tuy nhiên, chính những dấu ấn rất đáng tự hào của dân tộc đã khiến các thế lực thù địch, những đối tượng bất mãn, phản động lưu vong cay cú. Họ tìm mọi cách cắt ghép, bẻ câu, chẻ chữ... để lấy cớ xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, giễu cợt đồng bào (trong đó có cả người thân, gia đình của chính họ), phỉ báng văn hóa dân tộc, vị thế quốc gia... Có khá nhiều thành phần dạng này, trong đó, những đối tượng có hành vi chống phá liên tục thời gian gần đây có thể nhắc đến là: Đường Văn Thái, Trương Quốc Huy, Nguyễn Văn Đài, Lê Minh Nguyên, Bùi Thanh Hiếu (Người buôn gió)... Họ lập nhiều tài khoản trên MXH, nhất là YouTube, liên tục thực hiện các video có nội dung thù địch, xuyên tạc, chống phá đất nước. Một trong những nội dung được các đối tượng phản động lưu vong tập trung xuyên tạc nhiều nhất là chuyến thăm và làm việc của đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Thủ tướng Phạm Minh Chính dẫn đầu tại Hoa Kỳ và Liên hợp quốc. Đáng tiếc là trong dòng thông tin mang tư tưởng thù địch, chống phá đất nước còn có sự tham gia của một số cá nhân người Mỹ gốc Việt đang làm việc trong hệ thống chính quyền và quân đội Hoa Kỳ. Những luận điệu của họ dưới các hình thức gọi là “phỏng vấn”, “hội luận”, “đàm luận”, “phóng sự cộng đồng”... có nội dung phiến diện, quy chụp vô căn cứ đã trở thành đề tài của một số phương tiện truyền thông phát tiếng Việt có tư tưởng thù địch ở hải ngoại khai thác. Họ thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc với mưu đồ chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ...

Trong một clip đăng tải trên kênh YouTube những ngày qua, Nguyễn Văn Đài, đối tượng đang lưu vong tại Cộng hòa Liên bang Đức, với thái độ huênh hoang kiểu “ngụy hàn lâm”, đã lấy hình ảnh rác thải sinh hoạt để “bình loạn” về tình hình chính trị trong nước. Bằng nhận thức của một người bình thường cũng đủ nhận ra, Nguyễn Văn Đài đang cố tình khoe mẽ, muốn chứng tỏ bản thân là người hiểu biết, kiến thức “uyên thâm”, am hiểu thời cuộc. Thực chất, những thông tin cóp nhặt và mớ kiến thức lỗ mỗ ấy không thể che giấu được sự thật là Nguyễn Văn Đài và những thành phần phản động lưu vong đang phải đương đầu với cuộc sống thường nhật nơi xứ người. Người dùng MXH không khỏi bật cười khi xem clip Nguyễn Văn Đài trò chuyện với “Người buôn gió” Bùi Thanh Hiếu. Trong lúc Đài huênh hoang giới thiệu là đã đến xem “các cơ sở sản xuất của Bùi Thanh Hiếu” ở Đức thì “Người buôn gió” mặt ỉu xìu nói rằng, hoàn toàn không có “cơ sở sản xuất” nào cả, mà Hiếu chỉ là người đang đi làm thuê kiếm ăn. Ngay từ khi còn ở trong nước, tính ảo tưởng, thích khoe mẽ, dương dương tự đắc của Nguyễn Văn Đài đã bị dư luận tẩy chay, lên án, cho đến khi đã lưu vong xứ người, Đài vẫn chứng nào tật ấy. Tương tự, những đối tượng như Đường Văn Thái, Trương Quốc Huy, Hoài An... cũng luôn huênh hoang khoe mẽ kiểu “ngụy hàn lâm”, thực hiện các clip với thái độ trịch thượng, giễu cợt... để bôi nhọ đất nước.

Ai cũng biết, các đối tượng có tư tưởng phản bội quê hương, cho dù là ai, làm gì, sống ở quốc gia, vùng lãnh thổ nào... cũng đều khó ngẩng đầu lên được. Bởi, khó có một nền văn hóa nào, không một tổ chức tiến bộ nào lại dung túng, dung nạp những kẻ vong ân bội nghĩa với nơi chôn nhau cắt rốn. Trên các nền tảng MXH, nhiều tài khoản đã thẳng thắn lên tiếng rằng, đến quê hương, đất nước mình mà còn chối bỏ thì còn sống được ở đâu? Hiện nay, nhiều người trong số đó, để kiếm tiền mưu sinh, những người này đã lập các tài khoản trên MXH, kiếm ăn bằng công việc chửi bới để “câu view”, bất chấp đạo lý. Một số thì được các thế lực thù địch lợi dụng, tận dụng như những con rối...

Chính sự suy thoái, suy đồi về đạo đức khiến luận điệu của những đối tượng phản động lưu vong chỉ là một thứ “rác” thông tin trên không gian mạng. Nó làm vấy bẩn môi trường truyền thông văn hóa, tiến bộ. Nói như vậy là bởi, hầu hết những đối tượng phản động lưu vong đều có lai lịch chẳng hay ho gì. Chẳng hạn, Đường Văn Thái, từng có thời gian lao động hợp đồng tại Phòng Quản lý đất đai và Giải phóng mặt bằng thuộc UBND huyện Đông Anh, TP Hà Nội. Dù đã qua đào tạo, có kiến thức chuyên môn nhưng do ý thức rèn luyện, phẩm chất đạo đức kém nên Thái không được tuyển dụng. Tính tự cao, tự đại, tự huyễn hoặc bản thân khiến Thái bất mãn, đưa chân vào con đường chống đối chính quyền Nhà nước. Được các thế lực thù địch lôi kéo, Thái ngày càng lún sâu vào vũng bùn đen tối. Năm 2019, Thái trốn ra nước ngoài, trở thành con rối lưu vong. Cuộc sống khó khăn khiến Đường Văn Thái bất chấp đạo lý, tận dụng mớ kiến thức lỗ mỗ, lên MXH kiếm ăn bằng những trò lố.

Bên cạnh những đối tượng được cho là “có học” thì Trương Quốc Huy chỉ là một tên côn đồ, trình độ văn hóa lớp 7, từng có tiền án tiền sự, đang sống lưu vong tại Mỹ. Dù trình độ ở mức “viết câu văn chưa sạch nước cản” nhưng được tổ chức khủng bố Việt Tân dung nạp, Trương Quốc Huy lập tài khoản N10TV, liên tục thực hiện các video, khua môi múa mép xuyên tạc tình hình đất nước với thái độ lố bịch. Với những trò vô văn hóa đó, Trương Quốc Huy bị ngay kiều bào yêu nước tại Mỹ gọi là “kẻ tâm thần chính trị”. Thực tế là ở nước ngoài hiện nay tồn tại khá nhiều đối tượng đã và đang bị các thế lực thù địch biến thành con rối kiểu như Trương Quốc Huy, Nguyễn Văn Đài...

Với tinh thần lấy xây để chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, công chúng yêu nước cần tỉnh táo nhận diện thật-giả, trắng-đen... trên không gian mạng để có thái độ ứng xử đúng mực, đúng đắn. Không ở đâu có thể tốt bằng chính nhà mình, Tổ quốc mình! Không một thế lực phản động nào có thể làm lung lay ý chí của một dân tộc kiên cường như dân tộc Việt Nam! Không luận điệu nào, dù xảo biện, xảo quyệt đến đâu có thể làm đảo lộn chân lý cách mạng và thực tiễn phát triển của đất nước ta hiện nay!

Không gian mạng như một khu vườn mênh mông. Hoa thơm trái ngọt, mình góp sức chăm bẵm để cùng hưởng thụ! Cỏ dại, rác rưởi thì dứt khoát phải nhổ bỏ, dọn sạch.

Phát triển kinh tế tư nhân không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội

Phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Từ tư duy phải xóa bỏ KTTN, đến nay Đảng ta khẳng định KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Đây là chủ trương khoa học, đúng đắn với thực tiễn vận động của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), mang lại thành tựu đột phá cho phát triển kinh tế đất nước, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn luôn đưa ra những luận điệu chống phá, xuyên tạc, bóp méo chủ trương phát triển KTTN, trong đó có luận điệu rất thâm độc: Phát triển KTTN là từ bỏ mục tiêu CNXH. Bằng lý luận và thực tiễn, chúng ta khẳng định: Luận điệu trên là hoàn toàn sai trái.

Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất (LLSX), xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, Đảng ta chủ trương đột phá phát triển KTTN, coi nó là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Ngày 3-6-2017, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Nghị quyết đánh giá cao vai trò, sự đóng góp to lớn của KTTN về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy tăng năng suất lao động, tỷ trọng đóng góp vào GDP, quy mô doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội... Đồng thời xác định rõ quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải pháp phát triển KTTN đến năm 2030.

Phát triển KTTN là sự phát triển tư duy lý luận về sử dụng các thành phần kinh tế cho mục đích xây dựng CNXH. Tuy nhiên, các thế lực thù địch thường cố tình chống phá, xuyên tạc gây hoang mang, hoài nghi về chủ trương đúng đắn này của Đảng ta.

Một luồng quan điểm chống phá khá phổ biến cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế là thừa nhận bóc lột, thừa nhận quan hệ sản xuất (QHSX) tư bản chủ nghĩa (TBCN), là từ bỏ mục tiêu CNXH. Cũng vì bị ảnh hưởng của những luận điệu chống phá đó, do chưa hiểu bản chất của vấn đề mà có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoài nghi tính đúng đắn của chủ trương này, dẫn tới hoài nghi con đường đi lên CNXH.

Vậy thừa nhận và tạo điều kiện cho KTTN phát triển có phải là Đảng ta đã từ bỏ mục tiêu CNXH? Đây là vấn đề lớn cả về lý luận và thực tiễn cần được luận giải khoa học, thuyết phục.

Dựa trên lý luận kinh tế của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng ta có đủ cơ sở khoa học để khẳng định rằng chủ trương phát triển KTTN không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH, mà ngược lại là sử dụng chính nó để rút ngắn hơn chặng đường ở thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên CNXH. Điều đó được luận giải trên các vấn đề sau đây:

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra trong TKQĐ cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế phi XHCN cho mục đích xây dựng CNXH. Về xây dựng QHSX trong TKQĐ lên CNXH, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp, không thể quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị”(1). V.I.Lênin chỉ rõ cần xây dựng QHSX mới thông qua con đường gián tiếp là CNTB nhà nước: “Việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có những bước quá độ như CNTB nhà nước”(2).

Bước quá độ thông qua CNTB nhà nước thể hiện trong chính sách kinh tế mới, trong đó, cần thiết phải có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm phát triển LLSX, từng bước xã hội hóa sản xuất trên thực tế. V.I.Lênin chỉ ra một số hình thức CNTB nhà nước như: Tô nhượng, đại lý, cho thuê xí nghiệp, khu mỏ....(3). 

Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin cũng đã chỉ dẫn rằng trong TKQĐ cần phải sử dụng cả thành phần kinh tế phi XHCN như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân cho mục tiêu phát triển LLSX. V.I.Lênin coi đó là biện pháp tối ưu để khơi dậy động lực, giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động, nhờ đó giải quyết được khó khăn kinh tế sau chiến tranh, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.

Đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường nước ta được xác định là nền kinh tế có “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, được xác định là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp... Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, LLSX rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế-xã hội đan xen nhau”(4).

Thực tiễn cũng cho thấy việc áp đặt QHSX vượt trước rất xa so với trình độ của LLSX còn lạc hậu đã trở thành lực cản. Động lực của sản xuất không được phát huy, sức sản xuất không được khơi dậy, điều đó dẫn tới sự trì trệ không chỉ đối với LLSX mà còn làm méo mó đi mục đích hoàn thiện QHSX. Khi KTTN còn dư địa phát triển trong TKQĐ mà nôn nóng xóa bỏ là một sai lầm cả về lý luận và thực tiễn. Điều cần làm là phải tạo cơ chế cho KTTN phát triển, hay nói cách khác là khơi dậy, phát huy, sử dụng nó cho mục đích hiện đại hóa LLSX, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.

Việt Nam thừa nhận KTTN không đồng nghĩa với xác lập địa vị thống trị của QHSX TBCN. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là chúng ta thừa nhận bóc lột và tạo điều kiện cho bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Mục tiêu nhất quán của cách mạng nước ta là xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5).

Thực tiễn đã chứng minh bản chất của chế độ TBCN dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê không thể là cái đích để chúng ta thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong TKQĐ chúng ta thừa nhận KTTN vẫn còn cơ sở để tồn tại.

Do vậy, chúng ta không thể không tạo điều kiện cho nó phát triển. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta chủ trương xác lập vị trí thống trị của QHSX TBCN. Ngược lại, cần hướng nó đi theo mục đích CNXH, điều đó cũng có nghĩa không phải chúng ta để quan hệ bóc lột tự do phát triển.

KTTN được tự do cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do vậy, QHSX hình thành trong thành phần KTTN sẽ chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý, điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN nhằm giữ vững định hướng XHCN.

Coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế không đồng nghĩa từ bỏ vai trò là công cụ, là lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, dẫn dắt của kinh tế nhà nước. Đại hội XIII của Đảng định hướng rõ sự phát triển của từng thành phần kinh tế ở nước ta, trong đó chỉ rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; KTTN là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”(6).

Vai trò của từng thành phần kinh tế theo đó cũng được xác lập theo đúng vị trí đã xác định. Thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ nguồn lực vật chất quan trọng, then chốt được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất để nhà nước ổn định vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.

KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Trong đó cũng khuyến khích sự hợp tác liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ, ngoài ra còn khuyến khích phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của người lao động.

Như vậy, KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế, song động lực đó được phát huy trong chế độ kinh tế-xã hội khác biệt về chất với chế độ TBCN. Trong chế độ kinh tế XHCN, thành phần KTTN cũng không còn thuần túy như trong chế độ TBCN mà có sự đan xen, giao thoa, liên kết, hợp tác với các thành phần kinh tế XHCN.

KTTN được quan tâm tạo điều kiện phát triển không đồng nghĩa với từ bỏ mục tiêu CNXH. Là người lãnh đạo xây dựng nền kinh tế XHCN ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đề xuất chính sách kinh tế mới (NEP). Về bản chất, đó chính là nhận thức rõ và đề xuất lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần trong TKQĐ từ một nước tiểu nông.

Trong chính sách này, V.I.Lênin kỳ vọng vào khả năng thu hút đầu tư từ các nước tư bản phát triển và từ tư bản tư nhân trong nước cho lĩnh vực công nghiệp non yếu và kiệt quệ sau chiến tranh. Hơn ai hết, V.I.Lênin nhận thức rất rõ chính sách kinh tế mới về hình thức dường như có bước lùi về CNTB nhưng lại rất cần thiết để tiến bước lên CNXH. V.I.Lênin đã luận chứng rằng sự đồng thuận của nhân dân và sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của nhà nước XHCN sẽ khiến tư bản tư nhân không thể lái nền kinh tế trở về quỹ đạo của CNTB.

KTTN ở Việt Nam thời gian qua đã phát triển cả về quy mô, trình độ, lĩnh vực ngành nghề trong khuôn khổ định hướng XHCN, vì mục tiêu CNXH mà không phải là phát triển tự do như trong thể chế kinh tế TBCN. Điều đó cũng có nghĩa tạo điều kiện cho KTTN phát triển nhưng phải tuân thủ và vận động theo quỹ đạo của CNXH mà không phải là buông bỏ mục tiêu CNXH.

Báo: QĐND

Đối ngoại quốc phòng từ một góc nhìn

Qua hai phần ba thế kỷ, ngành đối ngoại toàn quân đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nhất là mỗi lần chuyển hướng chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

 Đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) cùng với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân luôn chủ động vượt qua những thách thức, khó khăn để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ, và nhiều lần đã “đi trước một bước” như sau Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Đại thắng mùa Xuân 1975, sau năm 1979 và thời kỳ đổi mới.

Thật vậy, qua các thời kỳ, ĐNQP đều đóng góp ở góc độ này hay góc độ khác, của từng nhóm, tổ, phòng và các cơ quan đối ngoại cũng như liên quan đến đối ngoại của toàn quân, gặt hái được nhiều thành tích quan trọng và được Đảng, Nhà nước, quân đội khen thưởng ở rất nhiều cấp trong thực hiện nhiệm vụ ĐNQP ở mức cao.

Những năm gần đây, ĐNQP đã chủ động thực hiện rất rõ việc “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ trong điều kiện tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường.

Để tạo nên sức mạnh đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đã chủ động tuần tra chung trên biển, tổ chức các cuộc giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới với quân đội các nước như: Trung Quốc, Lào, Campuchia. Hoạt động này không chỉ thể hiện tinh thần “độc lập, tự chủ” mà còn cho thấy sự chủ động, sáng tạo của Quân đội ta trong duy trì và phát triển quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới.

Bên cạnh đó, việc thúc đẩy hợp tác song phương với quân đội các nước cũng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, học tập kinh nghiệm về vũ khí, trang bị kỹ thuật, từ đó chủ động xây dựng quân đội từng bước hiện đại.

Trong hợp tác đa phương ở các diễn đàn quốc tế, trong đó có Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) và Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), những thành công, thành tích mà công tác ĐNQP đã đạt được cũng rất đáng trân trọng và cần được biểu dương.

Lớp lớp cán bộ của ngành đối ngoại toàn quân ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác đều vận dụng sáng tạo các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, toàn quân, đại hội Đảng các cấp đúng hướng, đúng mục đích. 

Tuy vậy, nhìn thẳng vào sự thật và ở từng góc độ khác nhau sẽ thấy rằng, cán bộ các cấp, các cá nhân, tổ công tác, các phòng công tác trong từng thời kỳ và cả hiện nay còn có mặt này, mặt khác cần cố gắng hơn nữa để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Chúng tôi-những người đã kinh qua công tác ĐNQP, tự nhận thấy rằng so với yêu cầu của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, bản thân mình cũng có lúc chưa làm hết trách nhiệm cho đến khi về nghỉ. Nhớ lại và suy ngẫm, điều quan trọng nhất đối với những người làm công tác ĐNQP là phải quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Đặc biệt, phải đặt ra câu hỏi giữa “Đảng và tôi”.

Nếu đặt Đảng lớn hơn “cái tôi” thì cơ quan, đơn vị thành công, thắng lợi, đoàn kết, dám nghĩ dám làm và ngược lại, nếu “cái tôi” lớn hơn thì đơn vị trung bình, mất đoàn kết, yếu kém. 

Các đại hội gần đây của Đảng và đặc biệt là Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI đã chỉ ra những đòi hỏi cao hơn đối với nhiệm vụ đối ngoại nói chung và ĐNQP nói riêng. Trong tình hình thế giới hiện nay, diễn biến về địa chính trị, kinh tế, quân sự... rất khẩn trương và khó lường.

Vì thế, yêu cầu mà Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đặt ra đó là ĐNQP cần vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ hơn nữa. Do vậy, chúng ta cần quán triệt các nghị quyết của Đảng và nhất là Nghị quyết Đại hội XIII, các nghị quyết chuyên đề về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, từ đó xây dựng bản lĩnh chính trị để có nhãn quan nắm bắt, đánh giá tình hình, dự báo đúng, trúng, đáp ứng yêu cầu đặt ra. 

Đặc biệt, cần chủ động bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thuộc các cơ quan, tổ chức làm công tác ĐNQP cũng như liên quan đến ĐNQP về năng lực tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy, phân công nhiệm vụ, chức trách rõ ràng, nhất là các nhóm, các tổ, phòng công tác.

Đồng thời phải xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ĐNQP sao cho được cả đức và tài, luôn đặt Đảng lớn hơn “cái tôi” của bản thân. Bởi, tài nếu hướng dẫn kỹ thì có thể phát triển tốt, nhưng đức vẫn là “gốc” của cán bộ; còn nếu cán bộ lúc nào cũng đặt “cái tôi” lên trên thì khó sửa vô cùng.

Bên cạnh đó, trong điều kiện hiện nay, tinh giản tổ chức biên chế trong quân đội là điều cần thiết song cũng cần nhìn vào những kinh nghiệm mà chúng ta đã đúc kết được. Đó là, những nơi có thể tinh giản hoặc những nơi có chức năng nhiệm vụ gần giống nhau cần tinh giản biên chế trước.

Đối với những nơi có chuyên môn, nhiệm vụ khác nhau, điều quan trọng nhất là phải đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng, xem xét đánh giá thật khách quan, từ đó loại bỏ dần những cán bộ có “cái tôi” lớn hơn và chọn lọc ra những người đủ đức, đủ tài. Như vậy thì đến năm 2025 ngành đối ngoại toàn quân mới có được một đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và liên quan đến đối ngoại “vừa hồng, vừa chuyên” trên mọi mặt trận.

Ngoài ra, cũng cần thường xuyên rút kinh nghiệm trong phạm vi cho phép ở từng cấp về nội dung, phương pháp, biện pháp triển khai các hoạt động liên quan tới ĐNQP. Chẳng hạn, các hoạt động tuần tra chung giữa hải quân Việt Nam-Trung Quốc hay các chương trình giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Lào, Việt Nam-Campuchia dù đã cho thấy tính thiết thực, hiệu quả, nhưng sau mỗi lần tổ chức cần rút ra những kinh nghiệm để đạt hiệu quả cao hơn.

Với lòng tuyệt đối tin tưởng vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, với tình cảm chân thành và quý trọng, cá nhân tôi rất mong muốn đội ngũ cán bộ làm công tác ĐNQP hoặc liên quan đến ĐNQP tiếp tục trưởng thành, phục vụ tốt hơn nữa, đáp ứng sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân!

Báo: QĐNDVN

Đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái về chủ trương thành lập “ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh”

 Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã tán thành Tờ trình của Bộ Chính trị về chủ trương thành lập ban chỉ đạo (BCĐ) cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN,TC). Lợi dụng sự kiện trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Theo đó, các thế lực thù địch quy kết công tác PCTN “chỉ là mị dân”, ngụy biện “tham nhũng là sản phẩm của chế độ, thể chế chính trị ở Việt Nam”, quy kết “tham nhũng do chế độ độc đảng cầm quyền”! Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, chủ trương thành lập BCĐ PCTN,TC cấp tỉnh là “không cần thiết, chỉ tốn tiền của dân”, cho rằng việc làm này là “giả tạo”, vẽ ra câu chuyện “ta đánh ta”, “cộng sản thì ai cũng tham nhũng”… Mục đích các bài viết nhằm quy kết tham nhũng là “bản chất của chế độ”, từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải đa nguyên, đa đảng, phải “xã hội dân sự”…

Đây thực chất là trò chống phá kiểu “bình mới rượu cũ” của số đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Số này cố gắng vẽ ra bức tranh tối màu về công tác PCTN của Việt Nam, phớt lờ thực tế hiệu quả công tác PCTN, phủ nhận mọi cố gắng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc đẩy lùi vấn nạn tham nhũng; tìm cách gieo rắc tâm lý bất an, gây ra sự hoài nghi về các chủ trương, quyết sách của Đảng về PCTN, TC, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, lấy cớ kích động gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự đối lập, bất ổn từ bên trong.

Thực tiễn cho thấy, cuộc chiến PCTN,TC đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu với quan điểm “không có vùng cấm” và đã đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt. Thành quả đó để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận. Theo số liệu của BCĐ Trung ương về PCTN tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Chỉ tính riêng năm 2021, cơ quan có thẩm quyền đã kỷ luật 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 132 so với năm 2020), trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đây là những con số biết nói, khẳng định công tác đấu tranh PCTN “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Chính những thành quả trong công tác PCTN đã góp phần loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, làm trong sạch đội ngũ, nhằm xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Việc xử lý nghiêm minh có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe phòng ngừa chung, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ; khẳng định vị thế, uy tín của Đảng, đất nước ta trên trường quốc tế. Điều này cũng bác bỏ những luận điệu xảo trá, suy diễn của các lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo công tác PCTN và có trách nhiệm phối hợp với BCĐ Trung ương về PCTN khi có vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Mục đích của sự thay đổi này nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác đấu tranh PCTN, tăng cường tính độc lập tương đối của BCĐ với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong công tác đấu tranh PCTN.

Mô hình BCĐ Trung ương trực tiếp do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong công tác PCTN. Điều đó thể hiện rất rõ ở nhiệm kỳ khóa XII, XIII khi số lượng vụ, việc tham nhũng, kinh tế được phát hiện, xử lý tăng lên rất nhiều. Thực tiễn hoạt động của BCĐ Trung ương là bài học kinh nghiệm quý giá để công tác PCTN,TC ở các cấp, ngành, địa phương học hỏi, làm theo.

Như vậy, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN, tiêu cực là chủ trương quan trọng, cần thiết, thể hiện rõ tinh thần triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt!”. Đây là những cơ sở để phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.

Giữ vững mạch sống, “linh hồn” Của quân đội nhân dân việt nam

 Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Cội nguồn hàng đầu làm nên sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta trong gần 78 năm qua là do sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của QĐND Việt Nam. Vì vậy, việc thấm nhuần và thực hiện mục tiêu, lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” phải được xác định là mạch sống và “linh hồn” của QĐND Việt Nam, là phương châm hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ.

Việc cần làm thường xuyên, bất di bất dịch là giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo và kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên quyết phản bác, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch. Đánh giá của Đảng ta về nguy cơ: Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải tuân thủ triệt để cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo lực lượng vũ trang là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với QĐND, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Bởi vì, có Đảng lãnh đạo mới có đường lối đúng, mới thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Đối với LLVT thì còn Đảng là còn tất cả; nếu Đảng ta không còn giữ quyền lãnh đạo xã hội, giữ quyền lãnh đạo LLVT thì sẽ mất chế độ XHCN.

Để vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch làm biến chất về chính trị Quân đội ta, cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhiều lực lượng xã hội. Trong đó, cần phát huy vai trò chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Ban chỉ đạo 35, cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đối với các cấp ủy đảng trực thuộc, thường xuyên nắm chắc và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta về chính trị.

Nâng cao tính khoa học trong tổ chức hoạt động đấu tranh làm thất bại luận điểm sai trái “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địch. Về lý luận, phải chỉ rõ quân đội ra đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ quân đội nào cũng mang bản chất và phục vụ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp sinh ra.

Công khai bản chất giai cấp công nhân của LLVT cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân và Công an Xô viết là phải đặt dưới sự lãnh đạo, phải thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Bolshevik Nga (Đảng Cộng sản Liên xô). Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”.

Vì thế, trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục; do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”. Đảng ta đã nhấn mạnh rằng: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.

Các thế lực thù địch sử dụng đòn đánh nguy hiểm làm suy yếu nội bộ Quân đội ta về chính trị thì chúng ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, mà trực tiếp là giáo dục sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nội dung giáo dục chính trị nói chung, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta nói riêng ở mỗi đơn vị phải phù hợp với mỗi đối tượng quân nhân, bảo đảm những nội hàm của mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong mỗi giai đoạn cụ thể, đặc biệt bám sát tinh thần mới mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra.

Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt công tác quản lý chính trị nội bộ, ngăn chặn và làm thất bại các hoạt động chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Chú trọng công tác dân vận, kết hợp với cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị-xã hội ở địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phản bác, vạch trần các luận điểm sai trái, phản động trên lĩnh vực tư tưởng chính trị.

QĐND Việt Nam nguyện mãi mãi là lực lượng chính trị trung thành với mục tiêu, lý tưởng “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, không có một thế lực thù địch nào có thể làm thay đổi bản chất, mục tiêu chính trị của QĐND Việt Nam - một quân đội nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta nỗ lực phấn đấu thực sự là đội quân chiến đấu tinh nhuệ, lực lượng chính trị tin cậy cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của đảng ta

Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa học công nghệ, internet và các nền tảng mạng xã hội; các thế lực thù địch luôn có các chiêu thức, thủ đoạn mới để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhất là trên môi trường mạng xã hội.

Chúng đặc biệt tập trung tấn công trực diện vào những vấn đề cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta, nhất là xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là âm mưu, thủ đoạn thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch. Do đó, kịp thời phản bác quan điểm xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch, phản động luôn luôn là vấn đề nóng, đặc biệt trong tình hình hiện nay bẻ gãy luận điệu cho rằng“không có tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận của Đảng ta.

Các đối tượng tung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch về hình ảnh và tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các tổ chức phản động lưu vong, nhất là những phần tử trong chế độ cũ; một số chính phủ, tổ chức phi chính phủ phương Tây, chính trị gia, nhà tài phiệt có tư tưởng chống cộng, đi đầu trong âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội; những phần tử cơ hội, cực đoan, bất mãn chính trị trong nước; những đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái, biến chất, “trở cờ”,… Phương thức và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhất là khoác áo “khách quan khoa học”, đội lốt “phản biện xã hội” để ngụy tuyên truyền, đánh tráo khái niệm, xảo biện các vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh; triệt để lợi dụng những đặc tính vốn là ưu thế nổi trội của các phương tiện truyền thông xã hội biến thành công cụ đắc lực chống phá con đường và sự nghiệp cách mạng Việt Nam… Việc nhận diện bản chất, bóc trần các thủ đoạn, từ đó phản bác những luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, củng cố địa vị chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng ta trong đời sống tinh thần xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng.

Phải chăng không có tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội?

Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh có quan điểm sâu sắc về giải phóng dân tộc, nhưng hoàn toàn không có tư tưởng về chủ nghĩa xã hội(?!). Họ xảo biện rằng, toàn bộ sự nghiệp cách mạng do Hồ Chí Minh lãnh đạo tập trung cho nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước... Những luận điệu trên không chỉ bài bác tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn nham hiểm tách biệt tư tưởng Hồ Chí Minh với bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. 

Sự thật là, Hồ Chí Minh chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, bởi ngay khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”  và trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo (năm 1930), đã nêu rõ chủ trương của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” . Đây cũng chính là mục tiêu, con đường để đấu tranh chống ách áp bức, bóc lột tàn bạo, vô nhân đạo, đấu tranh xóa bỏ nghèo nàn, “giặc dốt” và lạc hậu, nhằm tạo ra một xã hội mới theo mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. 

Đây cũng chính là vấn đề hiện hữu trên thế giới, có ý nghĩa thời đại cấp bách cần phải giải quyết. Cống hiến lớn của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng, một đột phá lý luận rất cơ bản về con đường, mục tiêu và phương thức phát triển của cách mạng. Từ cách mạng giải phóng dân tộc phải đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn tiến hành giải phóng dân tộc theo phương thức thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng. Theo Người, trong hoàn cảnh một nước thuộc địa thì trước hết phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Muốn có độc lập, tự do thực sự thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” . Về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội trong di sản Hồ Chí Minh, Giáo sư Shingo Shibata viết: “Một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mác xít trên thế giới áp dụng lý luận này”.

Tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đặc sắc và giản dị

Khi nói chuyện tại Đại hội Đảng bộ Hà Nội ngày 01/02/1961, Người đã chỉ rõ: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” ; “không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân là mục đích của chủ nghĩa xã hội”; hoặc “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” ; “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” ; “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh” . 

Đặc biệt, chỉ riêng trong bản Di chúc của Người có tới ba lần viết về cụm từ “chủ nghĩa xã hội”: Đảng cần chăm lo đào tạo thanh niên “thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” ; Đảng và Chính phủ chọn một số chiến sĩ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong ưu tú nhất cho đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc, “là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta” ; Người có ý định “thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta” ... Điều quan trọng hơn, toàn bộ Di chúc chứa đựng tinh thần, tầm nhìn đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Và, cái đích của chủ nghĩa xã hội được khẳng định trong Di chúc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” . Người mong muốn xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu; nói đến “thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” . Qua đây cho thấy, tuy không nhắc nhiều đến cụm từ chủ nghĩa xã hội nhưng các nội dung mà Người đề cập về xây dựng đất nước Việt Nam trong các bài nói, bài viết, nhất là trong Di chúc đã thể hiện rõ khát vọng của Người là xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong mọi thăng trầm và biến cố của đất nước từ ngày có Đảng đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi; hơn thế còn dẫn đường cho nhân loại đi đến hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để đưa dân tộc ta vững bước tới tương lai, một nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh bằng tất cả sức mạnh của vũ khí phê phán, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội nói riêng ở Việt Nam luôn tỏa sáng./.

Bộ mặt thật của tà đạo “bà cô dợ”

Thời gian qua, trên địa bàn huyện Mường Nhé xuất hiện hoạt động của nhóm tôn giáo mang tính chất tà đạo “Giê Sùa” và “Ðức Chúa trời yêu thương chúng ta” (hay còn gọi là Bà Cô Dợ),  theo đó các phần tử phản động lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia tà đạo này để trục lợi, gây mất an ninh trật tự tại cơ sở.

Đạo “Bà Cô Dợ” do Vừ Thị Dợ (SN 1978, người Mông, sinh sống ở thành phố Milvvaukee, bang Wilcosin nước Mỹ) thành lập và làm Hội trưởng cuối năm 2016. Sau đó, đạo đã được truyền sang các nước khác, trong đó có Việt Nam. Từ tháng 11/2016, đạo “Bà Cô Dợ” xuất hiện ở hai huyện Mường Tè và Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu. Sau đó, ảnh hưởng đến một số huyện của tỉnh Điên Biên với tốc độ phát triển nhanh và thu hút nhiều người dân tham gia, đặc biệt trong đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).

Đạo “Bà Cô Dợ” không có hiến chương, điều lệ rõ ràng. Đối tượng Vừ Thị Dợ chỉ lợi dụng xuyên tạc một số câu, điều trong Kinh thánh Cựu ước, Tân ước để giảng dạy, tuyên truyền đạo. Vừ Thị Dợ tuyên truyền con trai út Cứ Nu Si Lông chính là Chúa Giê Su tái thế, sẽ cai trị người Mông trong 1.000 năm. Vừ Thị Dợ còn tự nhận mình là người được Chúa Trời chọn để tái lâm lần thứ 2; không phải đóng 10 % thu nhập, ai tin theo đạo “Bà Cô Dợ” sẽ được chia tiền.

Tìm hiểm về Vừ Thị Dợ được biết, trước đây Dợ từng theo Công giáo và hệ phái Tin lành CMA nhưng thường xuyên tạc Kinh thánh nên đã bị trục xuất khỏi giáo hội. Sau khi tách ra, Vừ Thị Dợ tích cực đi tuyên truyền lôi kéo người tham gia. Về mặt tổ chức, Vừ Thị Dợ đóng vai trò làm Hội trưởng, Vù Thị Mỹ - Phó Hội trưởng 1, Sùng Thị Mỷ - Phó Hội trưởng 2, Thào Chứ Lầu - Phó Hội trưởng 3 và Vàng A Páo - Thư ký.

Lễ nghi sinh hoạt của “Bà Cô Dợ” cơ bản giống với các điểm nhóm theo đạo Tin lành. Tuy nhiên, tổ chức Lễ giáng Sinh không cùng thời điểm với đạo Tin lành (23/11 là ngày tái sinh của Nu long - Chúa tái lâm lần thứ hai) và không tổ chức lễ phục sinh. Thời gian đầu, số người theo đạo “Bà Cô Dợ” sinh hoạt từ 21h tối thứ bảy đến 2h sáng hôm sau, hiện nay đã chuyển sang sinh hoạt vào ngày chủ nhật hàng tuần. Các đối tượng và những người tin theo tập trung sinh hoạt tại điểm nhóm. Trong quá trình giảng dạy, các đối tượng sử dụng bài hát về Chúa đã được cải biên trên nền nhạc trẻ. Nội dung chủ yếu các đối tượng tuyên truyền mê tín dị đoan, xuyên tạc Kinh thánh, đả kích các tôn giáo chính thống, chê bai phong tục truyền thống của người dân tộc Mông; tuyên truyền về ngày tận thế, việc mua Mông ra đời… 

Bản chất của đạo “Bà Cô Dợ” chính là hoạt động lợi dụng đạo Tin lành tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”. Đạo “Bà Cô Dợ” ảnh hưởng trực tiếp hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, lôi kéo người tin theo. Thành phần chủ yếu là đồng bào người Mông và đã là tín đồ của Hội thánh Tin lành. 

Sự khốn cùng của những kẻ dã tâm không dừng lại ở đó, thời gian gần đây, mặc dù tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp nhưng số đối tượng cầm đầu “Bà Cô Dợ” vẫn tìm cách móc nối, lôi kéo quần chúng bằng các phần mềm, ứng dụng trên internet để tổ chức các buổi sinh hoạt, tuyên truyền và chỉ đạo các hoạt động ở trong nước. Hoạt động của Vừ Thị Dợ trong thời gian gần đây, đặc biệt khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp đã một lần nữa vạch trần thủ đoạn của Vừ Thị Dợ. Khi cả thế giới cũng như Việt Nam đang “gồng” mình chống chọi với đại dịch. Và đến thời điểm này, cùng với việc tuân thủ 5K thì vaccine là một trong những biện pháp hữu hiệu và quan trọng để ngăn chặn đại dịch thì đối tượng này luôn có những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. 

Các đối tượng cầm đầu đồng thời tiếp tục tuyên truyền các nội dung thiếu khoa học như “trái đất sẽ bị huỷ diệt” “ngày tận thế” có liên quan đến dịch COVID 19,... Nội dung tuyên truyền là “Chúa sẽ làm cho trái đất nổ tung hết, sẽ làm cho con người bị diệt vong hết; làm cho trái đất khô cằn, làm cho con người chết dần. Lý do Chúa hủy diệt trái đất là vì con người không làm theo lời của Chúa, không theo ý Chúa, khi Trái đất bị hủy diệt là lúc mà Chúa quay về, cây cối sẽ bị khô héo hết, giống như dịch bệnh COVID-19. Và hiện nay, như mọi người đã biết các quán karaoke, chợ lớn... đều đóng cửa hết, con người không đi lại được, niềm vui của con người sẽ không còn, bây giờ mới là bắt đầu thôi”.

Mặt khác, các đối tượng cho rằng: “Các thành phố sẽ trống rỗng, con người sẽ bị kẹt lại ở trong nhà, không có ai đến mở cửa được. Như mọi người đã thấy, hiện nay có dịch bệnh, họ (chính quyền) đã khóa con người ở trong nhà không đi đâu được, như các địa phương có dịch bệnh không đi mưa thực phẩm được. Cái này mới chỉ là bắt đầu thôi mà đã mạnh như thế này, khi mà có “khó khăn” (nghĩa là có cái gì đó lớn hơn dịch bệnh này) thì trái đất sẽ bị hủy diệt vấn đề này xảy ra ở tất cả các dấn tộc, chứ không riêng người Mông giống như một vụ thu hoạch. Chúa sẽ về thu hoạch sản phẩm của mình, đó là những người theo Chúa (những người theo “Bà Cô Dợ” sẽ được cứu sống) nên bây giờ Chúa mới cho “người mẹ ” về đây cho con người đến với Chúa. Những người ở phía mặt trời lặn gào thét trong sự sung sướng, đó là ở Mỹ và Châu Âu; những người ở phía mặt trời mọc sẽ cảm ơn Chúa, đó là ở Việt Nam, Lào, Thái Lan; những người sót lại sẽ có niềm vui, những người sót lại là những người đến với Chúa (theo Bà Dợ), Chúa sẽ chọn những người sót lại. Trái đất sẽ bị nổ tung thành từng mảnh; Chúa sẽ gom hết con người trên trái đất vào nhốt trong cái hố sâu, hết 1.000 năm Chúa mới phán xét cho. Mặt trời sẽ ngừng sáng, mặt trăng sẽ tối và Chúa sẽ là người cai quản, đó là Chúa Nu Long…”.

Những luận điệu tuyên truyền phản khoa học trên thay lời muốn nói thêm một lần nữa khẳng định, hiện tượng mang màu sắc tôn giáo có tên gọi “Bà Cô Dợ” đã lợi dụng niềm tin tín ngưỡng của chính đồng bào Mông, đi ngược lại mong muốn phát triển, xâm hại trực tiếp truyền thống văn hóa lâu đời, bản sắc tốt đẹp của dân tộc Mông. Đó là hành vi của những kẻ mưu đồ chống phá Nhà nước, lật đổ chính quyền nhân dân, gây chia rẽ đại đại đoàn kết dân tộc

Đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái về chủ trương thành lập “ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh”

 Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã tán thành Tờ trình của Bộ Chính trị về chủ trương thành lập ban chỉ đạo (BCĐ) cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN,TC). Lợi dụng sự kiện trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Theo đó, các thế lực thù địch quy kết công tác PCTN “chỉ là mị dân”, ngụy biện “tham nhũng là sản phẩm của chế độ, thể chế chính trị ở Việt Nam”, quy kết “tham nhũng do chế độ độc đảng cầm quyền”! Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, chủ trương thành lập BCĐ PCTN,TC cấp tỉnh là “không cần thiết, chỉ tốn tiền của dân”, cho rằng việc làm này là “giả tạo”, vẽ ra câu chuyện “ta đánh ta”, “cộng sản thì ai cũng tham nhũng”… Mục đích các bài viết nhằm quy kết tham nhũng là “bản chất của chế độ”, từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải đa nguyên, đa đảng, phải “xã hội dân sự”…

Đây thực chất là trò chống phá kiểu “bình mới rượu cũ” của số đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Số này cố gắng vẽ ra bức tranh tối màu về công tác PCTN của Việt Nam, phớt lờ thực tế hiệu quả công tác PCTN, phủ nhận mọi cố gắng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc đẩy lùi vấn nạn tham nhũng; tìm cách gieo rắc tâm lý bất an, gây ra sự hoài nghi về các chủ trương, quyết sách của Đảng về PCTN, TC, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, lấy cớ kích động gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự đối lập, bất ổn từ bên trong.

Thực tiễn cho thấy, cuộc chiến PCTN,TC đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu với quan điểm “không có vùng cấm” và đã đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt. Thành quả đó để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận. Theo số liệu của BCĐ Trung ương về PCTN tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Chỉ tính riêng năm 2021, cơ quan có thẩm quyền đã kỷ luật 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 132 so với năm 2020), trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đây là những con số biết nói, khẳng định công tác đấu tranh PCTN “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Chính những thành quả trong công tác PCTN đã góp phần loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, làm trong sạch đội ngũ, nhằm xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Việc xử lý nghiêm minh có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe phòng ngừa chung, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ; khẳng định vị thế, uy tín của Đảng, đất nước ta trên trường quốc tế. Điều này cũng bác bỏ những luận điệu xảo trá, suy diễn của các lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo công tác PCTN và có trách nhiệm phối hợp với BCĐ Trung ương về PCTN khi có vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Mục đích của sự thay đổi này nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác đấu tranh PCTN, tăng cường tính độc lập tương đối của BCĐ với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong công tác đấu tranh PCTN.

Mô hình BCĐ Trung ương trực tiếp do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong công tác PCTN. Điều đó thể hiện rất rõ ở nhiệm kỳ khóa XII, XIII khi số lượng vụ, việc tham nhũng, kinh tế được phát hiện, xử lý tăng lên rất nhiều. Thực tiễn hoạt động của BCĐ Trung ương là bài học kinh nghiệm quý giá để công tác PCTN,TC ở các cấp, ngành, địa phương học hỏi, làm theo.

Như vậy, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN, tiêu cực là chủ trương quan trọng, cần thiết, thể hiện rõ tinh thần triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt!”. Đây là những cơ sở để phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...