Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018


BÀN THÊM NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC
Đã quá nửa nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, cơ quan tham mưu, các tổ chức đảng cũng mới chỉ dành nhiều thời lượng để nói đến vấn đề đạo đức, lối sống của cá nhân cán bộ, đảng viên theo 9 dấu hiệu nhận biết mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã vạch ra. Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức, nhất là nội dung xây dựng Đảng về đạo đức vẫn chưa thực sự được làm sáng tỏ, chưa nhất quán và chưa tương xứng với nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Không phải đến bây giờ Đảng ta mới nói đến vấn đề đạo đức trong công tác xây dựng Đảng mà sách “Đường Cách mệnh” - “cuốn giáo trình đầu tiên” do chính Nguyễn Ái Quốc biên soạn và giảng dạy cho các thanh niên yêu nước để vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết về “Tư cách một người cách mệnh”. Đó là một trong 15 vấn đề của cuốn sách và được viết ngay từ trang đầu với đầy đủ các mối quan hệ xác định của đạo đức: đối với tự mình, đối với người và đối với việc. 
Ngay từ những năm đầu cầm quyền của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những khuyết điểm, nguy cơ thoái hóa, biến chất, quan liêu, xa dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - “cuốn giáo trình thứ hai” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn và triển khai học tập trong toàn Đảng cũng dành hẳn 1 chương nói về “Tư cách và đạo đức cách mạng” trong 6 chương của cuốn sách.
Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở, răn dạy cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng bằng rất nhiều bài phát biểu, bài viết trên báo. Đặc biệt, tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; và trong “Di chúc”, vấn đề đạo đức cách mạng được viết nghiêng trong những lời căn dặn căn cốt nhất về xây dựng Đảng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1).
Tuy vậy, từ khi giải phóng hoàn toàn đất nước, Đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước, vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng lại chưa được đặt xứng tầm. Tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta mới chỉ xác định phương châm “phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức”(2). Công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên thường chỉ được đề cập một cách khiêm tốn trong nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng. 
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào mà Đảng ta không đề cập đến tình trạng suy thoái về đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, coi đó là một trong 4 nguy cơ đe dọa đến vai trò lãnh đạo của một đảng cầm quyền. Vì thế, tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức lần đầu tiên được nhắc đến với tư cách là “mặt thứ tư” trong công tác xây dựng Đảng để trở thành một chỉnh thể: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(3).
Để nghiên cứu xây dựng Đảng về đạo đức ngang tầm với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cần nhất quán về sử dụng phương pháp tiếp cận tương thích với đầy đủ những yếu tố cấu thành, như lý luận xây dựng Đảng về đạo đức (khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức, quan điểm, nguyên tắc, nhận diện sự suy thoái về đạo đức...); thực trạng đạo đức trong Đảng và thực trạng công tác xây dựng Đảng về đạo đức (ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm); phương hướng và giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong thời gian tới... 
Xây dựng Đảng về đạo đức là hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên về xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng; giáo dục, rèn luyện đạo đức cho đội ngũ đảng viên, tạo sự thống nhất trong nhận thức, nâng cao ý thức tự giác rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng; đấu tranh chống nhận thức và hành động phi đạo đức và các quan điểm sai trái, thù địch về đạo đức, lối sống, góp phần giữ gìn, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 
Nội dung cụ thể xây dựng Đảng về đạo đức được thể hiện như sau:
Trước hết, xây dựng những chuẩn mực đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đảng viên.
Đạo đức là những chuẩn mực ứng xử do cộng đồng xã hội thừa nhận và hành động theo những chuẩn mực đó, thời nào cũng có và quốc gia nào cũng có. Điểm nhấn về đạo đức trong Đảng là đạo đức cách mạng xoay quanh những chuẩn mực giá trị: Cần - Kiệm - Liêm - Chính và những nguyên tắc sống: chí công, vô tư. Đạo đức đó đối lập với chủ nghĩa cá nhân, cho nên muốn xây dựng đạo đức cách mạng thì đồng thời và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. 
Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn mực giá trị đạo đức cách mạng đòi hỏi đạo đức trong Đảng phải trở thành phương châm hành động, vì lợi ích của nhân dân và vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Chuẩn mực đạo đức của mỗi tổ chức là những giá trị xã hội mà tổ chức hướng tới. Mỗi tổ chức đều phải tạo dựng hình ảnh cho mình. Hình ảnh đó mang tính ổn định, đặc trưng trong suốt quá trình ra đời, tồn tại và phát triển. Đó là những chân giá trị riêng do người sáng lập đưa ra, các thành viên trong tổ chức thuộc các thế hệ tự nguyện, thừa nhận, tôn trọng, giữ gìn và phát huy trong suốt thời gian công tác. 
Tổ chức đảng là cầu nối giữa Trung ương Đảng với nhân dân, là cơ quan lãnh đạo địa phương, đơn vị nên các giá trị về chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng là rất cần thiết và cần phải được đặc biệt quan tâm. Với vai trò là lực lượng lãnh đạo, tổ chức đảng phải thực sự là chuẩn mực về việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, trung tâm đoàn kết và bao gồm những người sống thực sự “có tình có nghĩa”; mẫu mực nhất trong thực hiện tự phê bình và phê bình vì sự phát triển của mỗi người và vì sự vững mạnh của tổ chức. Là cơ quan quyết định các chính sách, chủ trương, quyết định các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân, của địa phương, đất nước, vì thế, tính nhân văn của tổ chức đảng nằm ngay trong quá trình nghiên cứu, thảo luận và ban hành các quyết định thuộc thẩm quyền. Chuẩn mực đạo đức của mỗi tổ chức tạo thành văn hóa tổ chức - văn hóa đảng, nó đối lập với chủ nghĩa hình thức, bệnh quan liêu, lợi ích nhóm, tình trạng bè cánh trong tổ chức. Tình trạng độc đoán, chuyên quyền, mất đoàn kết hay những chủ trương sai lầm do tầm nhìn hạn hẹp và lợi ích nhóm chi phối chính là những hành vi vô đạo đức của một tổ chức đảng.
Chuẩn mực đạo đức của người đảng viên thống nhất với lý tưởng của Đảng; có tinh thần yêu nước, lòng trung thành, làm gương, nêu gương, danh dự, tinh thần bảo vệ lẽ phải, phê phán, đấu tranh với sai trái. Những chuẩn mực đạo đức được đúc kết, dễ nhớ, dễ thực hành sẽ làm nền tảng, là căn cứ cho mọi tổ chức đảng và đảng viên trong hành động. 
Theo đó, từ những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, của nhân loại nói chung, mỗi cấp, mỗi ngành cần căn cứ vào các quy định về tư cách của người đảng viên trong Điều lệ Đảng, Quy định những điều đảng viên không được làm hay không mắc những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống được chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII để xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng cho tổ chức của mình, chuẩn hóa hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên sát với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: chuẩn mực đạo đức của chiến sĩ công an, của anh bộ đội cụ Hồ, đạo đức của người thầy giáo, thầy thuốc, của doanh nhân... Đối với cán bộ, công chức, cần xác định rõ tinh thần trách nhiệm, bổn phận phục vụ nhân dân, tinh thần tiết kiệm chống tham nhũng, lãng phí và mối quan hệ với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội. 
Hai là, tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành vi đạo đức. 
Xây dựng Đảng về đạo đức được tiến hành thông qua giáo dục, tuyên truyền vai trò, nội dung đạo đức để nâng cao nhận thức, để mỗi đảng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng, gương mẫu, làm gương, nêu gương về đạo đức. 
Giáo dục, rèn luyện đạo đức không chỉ trên trường lớp mà còn trong cả môi trường lao động, chiến đấu và sinh hoạt đời thường; học tập mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời. 
Giáo dục đạo đức phải kiên trì, thường xuyên vì sự thay đổi tư duy, quan niệm giá trị đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài. Không phải ai cũng dễ dàng đồng thuận với những tiêu chí, chuẩn mực đạo đức mới vì những ảnh hưởng về văn hóa truyền thống, tập quán của địa phương, dòng họ và gia đình hay những vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo, thậm chí là lợi ích cá nhân chi phối.
Trong giáo dục đạo đức cách mạng, phải coi trọng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, học tập các tấm gương tiêu biểu của dân tộc, của ngành mình, địa phương mình. Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo tổ chức đảng, đảng viên, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan thông tấn, báo chí tuyên truyền, cổ vũ những tấm gương đạo đức, kiến tạo môi trường lành mạnh trong Đảng và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát và phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. 
Khi xây dựng được chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, cần công khai, tuyên truyền, vận động thực hiện, cổ vũ, khích lệ những tấm gương mẫu mực về đạo đức. Chuẩn mực đạo đức đó phải luôn được kiểm điểm, nhắc nhở nhau qua sinh hoạt của tổ chức đảng, của tập thể người lao động. Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần xây dựng kế hoạch rèn luyện đạo đức cách mạng hằng ngày và tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời; hình thành phương thức làm chủ bản thân, kiểm soát các ham muốn vật chất và tham vọng quyền lực, nâng cao ý thức cảnh giác, không một phút lơ là trước cám dỗ, cạm bẫy, phòng ngừa nguy cơ rệu rã tâm lý, sống buông thả trước tiền tài, quyền lực, dục vọng.
Làm gương, nêu gương là cách giáo dục đạo đức tốt nhất đối với cán bộ, đảng viên, nhất là việc làm gương của người lãnh đạo, quản lý. Phương châm giáo dục đạo đức là làm gương, nêu gương: “một tấm gương sáng bằng hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. 
Ba là, đấu tranh tự phê bình và phê bình trong nội bộ về giữ gìn chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình trong Đảng như việc “rửa mặt hằng ngày”. Người đòi hỏi phải “quét sạch”, phải “tẩy bỏ”, phải “đánh bại giặc nội xâm”, “căn bệnh gốc, bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con, xấu xa, hư hỏng, lỗi thời” của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.”(4). 
Tự phê bình và phê bình là tất yếu khách quan, trở thành quy luật phát triển của Đảng. Tự phê bình, phê bình trong Đảng chủ yếu diễn ra ở chi bộ mà đảng viên sinh hoạt và các cấp ủy đảng mà đảng viên tham gia. Vì vậy phải tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh cho lẽ phải. Ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hoặc những nơi có vấn đề về đoàn kết, nhất là khi cán bộ chủ chốt có khuyết điểm, cấp trên cần chủ động gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo.
Bốn là, phát huy tính tự giác rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. 
Với mỗi người, phải rèn đủ cả bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, phải đủ cả bốn đức mới là người hoàn toàn, thiếu một đức thì không thành người. Nếu đào tạo cán bộ là “công việc gốc” của Đảng thì việc giáo dục, rèn luyện cán bộ hằng ngày, phải lấy đức làm gốc. Tài là quan trọng, có đức phải có tài nhưng đức là gốc, là hàng đầu, tài phải được bảo đảm bằng đạo đức và bởi đạo đức.
Trong phương châm hành động, thực hành lối sống và thái độ ứng xử, yêu cầu về đạo đức đó là phải trung thực, khiêm tốn, giản dị, trách nhiệm, có lòng chân thành, có đức bao dung, có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Phải nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, đã nói thì phải làm, không được làm gì tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, tới lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Phải biết trọng liêm sỉ, danh dự, khí tiết, trong sáng, chính trực, không có gì mờ ám, khuất tất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao sự gương mẫu, tính tiên phong “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Người căn dặn cán bộ, đảng viên, nhất là thanh niên tuổi trẻ, phải cần cù và chịu khó, siêng năng và tiết kiệm, chỉ ham muốn phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, ham học, ham làm, ham tiến bộ; không ham tiền tài, không ham danh vọng, địa vị, quyền chức. Nếu cá nhân cán bộ, đảng viên tự mình không làm chủ được, thì dễ rơi vào hư hỏng, thậm chí vi phạm pháp luật. Cho nên, người có đạo đức gương mẫu là người có đức hy sinh, có lòng vị tha, nhân ái, không vị kỷ, vụ lợi, vượt qua những cám dỗ tầm thường cá nhân chủ nghĩa, tuyệt đối không tham vọng quyền lực.
Đạo đức của Đảng và trong Đảng là đạo đức cách mạng, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân và phải suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân - “giặc nội xâm” ở trong lòng, chú trọng phát triển mọi khả năng sáng tạo của cá nhân, quan tâm tới lợi ích cá nhân nhưng kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng thể hiện ở cách ứng xử hằng ngày của mỗi người đối với công việc, sinh hoạt hay giao tiếp nên nó gắn bó suốt đời với mỗi cán bộ, đảng viên. Chính vì thế mà mỗi người phải tu dưỡng, tạo dựng, rèn luyện và giữ gìn đạo đức cách mạng suốt đời. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(5).
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức cách mạng.
Giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và các quy định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong phát hiện những đảng viên vi phạm phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”(6).
Tăng cường kiểm tra, giám sát cũng là tăng cường kiểm soát quyền lực trong điều kiện Đảng cầm quyền. Không một cá nhân nào, tổ chức nào của Đảng được phép đặt mình ra ngoài sự kiểm tra, giám sát của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của nhân dân. Siết chặt nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất và bình đẳng trong thực thi Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với mọi cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị, không có “vùng cấm”, “hạ cánh an toàn”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ.
Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra của tổ chức, sự giám sát của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, ở bất cứ đâu, trên bất cứ phương diện hoạt động, trên lĩnh vực công tác và địa bàn sinh sống nào... Phát huy dân chủ một cách đúng hướng và thật sự rộng rãi là điều tối cần thiết, nếu không nói là nhân tố quyết định thành công. Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 
Thiết lập, hoàn thiện định chế xử lý kịp thời cho tất cả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, của bộ máy đảng, của nhân dân đối với mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên. Cùng với việc đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức, các cấp ủy, các tổ chức đảng hết sức chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, sự phát hiện của công luận về cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên thuộc quyền quản lý của mình một cách toàn diện, theo hướng chặt chẽ, minh bạch. 
Sáu là, đấu tranh chống nhận thức và hành động phi đạo đức và các quan điểm sai trái, thù địch về đạo đức, lối sống.
Đấu tranh với các quan niệm sai trái, phản động đi ngược lại các giá trị đạo đức cách mạng, như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa tự do. Trong điều kiện thông tin nhiều chiều, cần phải hết sức cảnh giác chống lại những luận điệu xuyên tạc của chúng. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập quốc tế, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho nhiều chuẩn mực đạo đức thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
Như vậy, yêu cầu đấu tranh chống tư tưởng của các thế lực thù địch trong tuyên truyền về lối sống thực dụng, vụ lợi với chủ nghĩa cá nhân - “giặc nội xâm” phá hoại Đảng từ bên trong ngày càng trở nên phức tạp và cấp bách. Do vậy, cần chủ động thông tin trung thực, kiên trì, thường xuyên những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, trên cơ sở khoa học làm rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đấu tranh trên lĩnh vực nhận thức về những chuẩn mực đạo đức, lối sống để tạo nên truyền thống đạo đức mới của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Cần xây dựng ý thức đạo đức cách mạng và tổ chức thực hành đạo đức cách mạng; chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng thành tình cảm đạo đức cách mạng (về lẽ sống, nghĩa vụ, lương tâm, danh dự...); biến các đòi hỏi của Đảng và xã hội đối với người đảng viên thành nhu cầu nội tâm, hành vi tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, trong phong cách công tác và lối sống đời thường. Đó cũng là cách miễn dịch tốt nhất trước những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch.
Bảy là, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng về đạo đức.
Các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Xây dựng các cơ chế bảo đảm và phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, nhất là xây dựng đội ngũ đảng viên về phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần nêu gương và giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân. 
Xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(7). /. 
-----------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 611 - 612
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 625
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 202
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 612
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64 - 65
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 - 612
Nguyễn Minh Tuấn
PGS, TS, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2018/51513/Ban-them-noi-dung-xay-dung-Dang-ve-dao-duc.aspx


NẮM VỮNG TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ HÌNH THÀNH,
CHỦ ĐỘNG XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VÀ ĐIỀU KIỆN
 ĐỂ THỰC THI TRONG THỰC TIỄN HỆ GIÁ TRỊ VĂN HÓA,
HỆ GIÁ TRỊ CHUẨN MỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức lý luận của Đảng ta trong lĩnh vực văn hóa tiếp tục có bước phát triển đột phá khi xác định gắn xây dựng văn hóa với xây dựng con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước với quan điểm phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp.
Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” xác định mục tiêu chung là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng tới chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một trong những mục tiêu cụ thể được Nghị quyết đề ra là hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, thể chất, tâm hồn, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
Để thực hiện mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trên, vấn đề có ý nghĩa quyết định là nắm vững tính quy luật của sự hình thành và hoàn thiện hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới là kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc, kết hợp với tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Tính quy luật này là định hướng có tính nguyên tắc cho quy trình xác lập hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới.
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và nhận thức sâu sắc quy luật hình thành hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trong Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đã xác định những nội dung cốt lõi của hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ mới là yêu nước, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Sự khái quát những nội dung cốt lõi của hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trên đây vừa phản ánh sự kế thừa các giá trị truyền thống, bản sắc con người Việt Nam, vừa bước đầu có bổ sung, phát triển một số giá trị đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở những nội dung cốt lõi này cần xác lập hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới, như chuẩn mực giá trị lòng yêu nước hiện nay là có tinh thần tự hào, tự trọng, tự tôn, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí, có khát vọng phát triển đất nước trở thành nước công nghiệp, hiện đại, đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nội dung cốt lõi của chuẩn mực lao động trong thời kỳ mới là lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, lao động có kỹ thuật, sáng tạo, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; lao động với tinh thần liên kết, hợp tác vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội...
Sau khi cơ bản hình thành hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, vấn đề có ý nghĩa quyết định là tự giác, chủ động xây dựng môi trường và điều kiện để thực thi trong thực tiễn, hay nói một cách khác để hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam định hướng mục tiêu, phương thức và hành động của mỗi con người, trên cơ sở đó hệ giá trị này tham gia điều tiết sự phát triển của xã hội:
1- Môi trường và điều kiện cơ bản, quan trọng hàng đầu để giáo dục, đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học đó là môi trường giáo dục - đào tạo.
Sau hơn 20 năm thực hiện định hướng chính sách giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”, chúng ta đã đạt được những kết quả rất quan trọng nhưng cũng còn nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém cần khắc phục như chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; hệ thống giáo dục đào tạo thiếu liên thông, còn nặng về lý thuyết và nhẹ về thực hành; đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, với sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc; phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra, đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất, quản lý giáo dục đạo đức còn nhiều yếu kém, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu, một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả, chính sách, cơ chế, tài chính cho giáo dục đào tạo chưa phù hợp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Để thực hiện mục tiêu tổng quát về giáo dục - đào tạo, tạo chuyển biến căn bản và mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì nhu cầu học tập của nhân dân, giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, tình yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả, hơn lúc nào hết phải thực sự tự giác, chủ động, tích cực thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04-11-2013, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Phải nắm vững 7 quan điểm chỉ đạo, nhất là quan điểm giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các ngành học, bậc học. Trong quá trình đổi mới cần kế thừa và phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức và việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học - công nghệ; phù hợp quy luật khách quan; chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Trên cơ sở nắm vững các quan điểm chỉ đạo, cần xây dựng được chương trình hành động thực hiện 9 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, khả thi. Đến nay, Nghị quyết này đã ban hành hơn 4 năm nhưng kết quả thực hiện còn khiêm tốn và bộc lộ không ít bất cập. Tình hình này yêu cầu Đảng cần tiến hành kiểm tra toàn diện việc thực hiện Nghị quyết, tạo các nguồn lực mới cho sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo. Sau khi Đảng có đường lối, cán bộ là nhân tố quyết định đưa nghị quyết vào cuộc sống. Do đó cần làm rõ trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện 9 nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo. Khi 9 nhiệm vụ, giải pháp được thực hiện, môi trường giáo dục và đào tạo mới được hình thành và vận hành thông suốt thì hằng ngày, hàng giờ hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam mới sẽ không ngừng được truyền bá, được bồi dưỡng để thấm sâu vào từng con người, nhất là học sinh, sinh viên. Môi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục - rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống, giáo dục truyền thống văn hóa...
2- Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp chống lại những tác nhân làm tha hóa con người, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó trên cơ sở sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, các cấp, các ngành phải bổ sung chương trình hành động, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chủ yếu của Chiến lược. 
Công tác gia đình là một nội dung quan trọng trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành, các địa phương, các cơ quan, doanh nghiệp, do đó các cấp, các ngành, các địa phương, các cơ quan doanh nghiệp phải gắn chặt thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm với thực hiện các nội dung trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt, nắm vững mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp khi triển khai thực hiện Chiến lược phát triển gia đình cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tổ chức giáo dục, tuyên truyền nhằm trang bị kiến thức cơ bản về gia đình cho nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phối hợp chặt chẽ với Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... để chủ động tổ chức tốt các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, chống bạo lực gia đình, thực hiện bình đẳng giới.
Thứ hai, tăng cường và tổ chức hiệu quả các hoạt động tuyên truyền và thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình, Chính sách Dân số và phát triển, Luật Bình đẳng giới, phong trào xây dựng gia đình văn hóa... nhằm thực hiện đầy đủ các quyền, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ; trách nhiệm của các gia đình trong việc dành thời gian chăm sóc dạy bảo con cháu, tạo điều kiện cho con cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần.
Thứ ba, các ngành phối hợp chặt chẽ với các hội để tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai, tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt là đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo.
Như vậy, khi các nhiệm vụ của Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được tích cực triển khai gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được kết quả tích cực của mối quan hệ biện chứng là mỗi bước tăng trưởng, phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội sẽ gắn liền với sự phát triển gia đình theo hướng ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.
3- Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu cơ chế này được xây dựng, hoàn thiện và hoạt động thông suốt sẽ là môi trường, điều kiện có ý nghĩa quyết định để hình thành, phát triển các phẩm chất tốt đẹp cho mọi người lao động, như tính tích cực, năng động sáng tạo, tính thực tế, tính hiệu quả, tính cạnh tranh lành mạnh, tính chủ động liên kết hợp tác và ý thức thượng tôn pháp luật.
Do đó cần tập trung xây dựng môi trường kinh tế mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu đến năm 2020 hoàn thiện một bước đồng bộ hơn thể chế này theo các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, trong đó cơ bản phải tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Cơ bản hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường (thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường văn hóa, thị trường tài chính, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường lao động). Cơ bản hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng - an ninh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện cơ chế đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
4- Xây dựng môi trường văn hóa trong các cơ quan, đơn vị của hệ thống chính trị phải coi trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể. Đây là giải pháp quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, là điều kiện cơ bản để bồi dưỡng, giáo dục, huấn luyện xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân.
5- Xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật là xây dựng và phát triển một lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân - thiện - mỹ của con người, là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.
Để tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới cần quán triệt sâu sắc 3 quan điểm chỉ đạo để thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp trong Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16-6-2008, của Bộ chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, phấn đấu xây dựng văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, cần thực sự chăm lo phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ có tài năng có tâm huyết gắn bó với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Phát triển mạnh mẽ hoạt động lý luận phê bình đồng hành, thẩm định và định hướng cho sáng tạo và tiếp nhận của công chúng. Với nền văn học, nghệ thuật phát triển sẽ là môi trường rất tốt đẹp trực tiếp bồi dưỡng tâm hồn tình cảm xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân thiện mỹ của các tầng lớp nhân dân, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Đào Duy Quát 
PGS, TS, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2018/51559/Nam-vung-tinh-quy-luat-cua-su-hinh-thanh-chu-dong-xay.aspx

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...