Kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội (KH-XH), với củng cố quốc phòng, an
ninh (gọi tắt là kết hợp kinh tế với quốc phòng) là quan điểm, chủ trương của
Đảng ta và đã triển khai thực hiện qua nhiều kỳ đại hội.
Quan điểm này xuất phát từ truyền thống dựng
nước phải đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hình thành từ hàng nghìn
năm qua và được trao truyền từ thời đại này sang thời đại khác, từ thế hệ này
qua thế hệ khác. Chính từ sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng đã
giúp cho đất nước ta luôn ổn định về chính trị, giữ vững độc lập, chủ quyền,
bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội, không ngừng mở rộng các quan hệ đối
ngoại... Đó là cơ sở để đưa nước ta từ một nước lạc hậu, kém phát triển, trở
thành một nước đang phát triển, với mức thu nhập trung bình như hiện nay.
Những năm gần đây, với sự nỗ lực của các cấp,
các ngành, các địa phương, sự tham mưu đúng, trúng của các cơ quan, đơn vị
thuộc LLVT, công tác kết hợp kinh tế với quốc phòng từ cấp vĩ mô đến vi mô đã
thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Qua tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc cho thấy: Việc kết hợp
kinh tế với quốc phòng đã được nhiều bộ, ngành, địa phương chú trọng thực hiện.
Ở các bộ, ngành đã nhận thức rõ công tác quốc phòng không phải là chỉ riêng
LLVT tiến hành, nên đã có những đóng góp tích cực từ việc tham mưu với Đảng,
Nhà nước hoạch định chính sách, đường lối, cho đến trực tiếp phối hợp với các
cơ quan, đơn vị thuộc LLVT triển khai thực hiện các dự án, đề án về kết hợp
kinh tế với quốc phòng trên khắp các vùng miền, biên giới, hải đảo. Do đó thế
trận phòng thủ trên bộ, trên không, trên biển không ngừng được củng cố, góp
phần giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, giữ vững không phận và chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Đối với các địa phương, nhận thức của đội ngũ
cán bộ chủ trì cũng đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản lãnh
đạo, chỉ đạo việc phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, an ninh đã
được ban hành có tính thường kỳ. Nhiều địa phương đã cố định một tỷ lệ ngân
sách, bố trí diện tích tự nhiên để xây dựng các công trình quân sự, quốc phòng,
xây dựng căn cứ chiến đấu trong khu vực phòng thủ. Tổng hợp tất cả các yếu tố
lại chúng ta có thể thấy, hệ thống khu vực phòng thủ trên địa bàn cả nước đang
dần được hình thành và có sự liên kết khá vững chắc cả trên bộ, trên không,
trên biển; tiềm lực quân sự trong khu vực phòng thủ đang được tăng cường, có
thể đáp ứng được yêu cầu tác chiến khi có chiến tranh xảy ra.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế cũng thấy nổi lên
một số vấn đề, đó là vẫn còn một số người cho rằng hiện nay chỉ cần tập trung
phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập là được, còn chiến tranh chưa xảy ra nên
chưa cần đầu tư nhiều nguồn lực vào công tác quốc phòng. Nguyên nhân dẫn đến
nhận thức sai lệch này là do hiểu không đúng về vai trò, mối quan hệ của kinh
tế đối với quốc phòng, quốc phòng đối với kinh tế trong một quốc gia độc lập,
thống nhất có chủ quyền. Do đó họ muốn tách rời quan hệ kinh tế với quan hệ
quốc phòng, tách rời việc tạo tiềm lực kinh tế với tạo tiềm lực quốc phòng. Một
phần nữa là do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, cho rằng đã làm
kinh tế thì chỉ quan tâm đến lợi nhuận, lợi ích cá nhân hoặc lợi ích cục bộ.
Chính từ nhận thức trên đã dẫn đến những hiện tượng, hành vi có tác động xấu
tới việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong thực tiễn, đó là:
Trước hết, việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về đầu tư phát triển KT-XH ở một số địa phương đã có những dấu hiệu
chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ của ngành mình, địa phương
mình hoặc của một nhóm người; không chú trọng đến tính liên kết, đồng bộ trong
phát triển của các lĩnh vực, vùng miền. Điều này một phần xuất phát từ cái gọi
là “tư duy nhiệm kỳ” đang tồn tại trong một số cán bộ. Việc làm đó đã khiến nguồn
lực đầu tư đổ dồn vào chỗ có thể sinh lợi, còn các nơi khác thì không, kể cả
vùng trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Hệ lụy của nó là tạo ra sự mất cân đối
về nguồn lực giữa các vùng miền, nới rộng khoảng cách giàu nghèo, làm ảnh hưởng
đến việc xây dựng thế trận quốc phòng, thế trận lòng dân. Việc ban hành văn bản
nhằm vào lợi ích cục bộ là một hiện tượng rất đáng báo động, bởi đây cũng là
gốc rễ sinh ra sự thiếu công bằng trong xã hội, là một phần nguyên nhân của
hiện tượng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, và điều nguy hại là nó sẽ gây ra những
hệ lụy rất khó khắc phục trong thực tiễn.
Thứ hai là, hiện nay đang tồn tại hiện tượng
cố tình làm sai các hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan chức năng và cơ quan cấp
trên trong lĩnh vực kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Có những địa
phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, mặc dù đã được cơ quan chức năng hướng
dẫn kỹ càng, đầy đủ trước khi thực hiện các dự án, đề án, nhưng trong tổ chức
thực hiện đã cố tình làm sai, làm trái. Vấn đề này thể hiện rất rõ trong lĩnh vực
xây dựng cơ bản, lĩnh vực khai thác du lịch, khoáng sản... Có khá nhiều công
trình sai phép, trái phép về độ cao, về phạm vi, diện tích xây dựng, hoặc vị
trí, quy mô xây dựng không đúng quy hoạch... Vì vậy, nhiều công trình khi xây
dựng lên đã uy hiếp sự an toàn của mục tiêu cần bảo vệ (công trình số 8B phố Lê
Trực, Ba Đình, Hà Nội là một điển hình và công trình này đang bị UBND TP Hà Nội
yêu cầu tháo dỡ, bảo đảm đúng so với thiết kế và giấy phép xây dựng). Trong
thực hiện, vì lợi ích kinh tế nên có những địa phương đã cấp phép cho các doanh
nghiệp xây dựng và khai thác dịch vụ du lịch vào các vị trí quan trọng trong
thế trận phòng thủ ở địa phương. Có những khu du lịch chiếm cứ toàn bộ một dải
bờ biển, hoặc chiếm toàn bộ khu vực có thể tạo nên trận địa phòng ngự tại một
điểm cao, sau đó xây dựng các công trình, phá vỡ địa hình tự nhiên, làm ảnh
hưởng tới kế hoạch tác chiến phòng thủ của địa phương, trong đó khu lịch sinh
thái biển Tiên Sa thuộc bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng có thể gọi là một ví dụ điển
hình. Rất may là khu resort này đã bị cơ quan chức năng và chính quyền địa
phương đình chỉ thi công. Trong cả nước còn có khá nhiều dự án xây dựng, khai
thác khoáng sản trái phép, hoặc sai phép, xuất phát từ lợi ích của một nhóm
người, nhưng lại làm phương hại đến lợi ích của cộng đồng và lợi ích quốc gia,
làm ảnh hưởng tới khả năng cơ động lực lượng, làm sai lệch kết cấu của thế trận
phòng thủ, không đúng quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng.
Thứ ba là, có hiện tượng cán bộ nhận thức lơ
mơ cả về lý luận và thực tiễn đối với quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Do đó khi thực hiện nhiệm vụ đã không thể làm tròn trách nhiệm, hoặc không biết
mình làm sai. Nguyên nhân của hiện tượng này là do cán bộ không chịu học tập,
nghiên cứu về chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực kết hợp kinh tế với
quốc phòng, nên không hiểu được căn nguyên, gốc rễ vấn đề, làm việc theo cảm
tính, thiếu căn cứ lý luận và không phù hợp với thực tiễn. Một phần khác là do
các thế lực thù địch lôi kéo, gây nhiễu loạn thông tin, khiến cho một số cán bộ
không phân biệt được lợi và hại, chỉ nhìn một chiều, nên khi hoạch định chính
sách, triển khai chính sách phát triển KT-XH, hoặc giám sát thực hiện... đều dễ
mắc sai lầm, tiến hành các dự án, đề án theo kiểu đơn lẻ, thiển cận, thiếu sự
quan sát, gắn kết có tính tổng quan giữa phát triển KT-XH với củng cố quốc
phòng, an ninh.
Trong nhân dân thì còn một bộ phận thiếu hiểu
biết về pháp luật, cộng với lòng tham nên thừa lúc công tác quản lý còn lỏng
lẻo, đã cố ý lấn chiếm các khu vực quân sự, quốc phòng, biến đất quốc phòng
thành đất của riêng mình. Vì vậy nhiều khu đất đã được quy hoạch thành khu vực
xây dựng công trình quân sự, phục vụ sự nghiệp quốc phòng, nhưng một bộ phận
người dân đã xâm phạm, canh tác hoặc xây dựng các công trình trong khu vực lấn
chiếm. Khi Nhà nước thu hồi thì tỏ thái độ chống đối, chây ỳ, không chịu di dời
trả lại mặt bằng cho Nhà nước, khiến cho việc giải phóng mặt bằng trở nên phức
tạp. Bên cạnh đó đã xuất hiện một số đối tượng có kiến thức về luật pháp, nhưng
lại vào hùa với cái sai hòng trục lợi nên đã hướng lái người dân “cố thủ” trên
các khu vực đã lấn chiếm để đòi hỏi quyền lợi. Việc lấn chiếm đất quốc phòng ở
khu vực sân bay Miếu Môn hiện nay là một ví dụ điển hình.
Khắc phục hiện tượng “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong lĩnh vực kết hợp kinh tế với quốc phòng là việc bắt buộc phải
làm. Cần phải làm cho mọi cán bộ và nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từ đó xác định
rõ trách nhiệm, bổn phận của mình trong thực hiện chủ trương trên. Vì vậy, phải
tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, nêu bật các điển hình tích cực, đồng
thời cũng chỉ rõ các hành vi tiêu cực trong lĩnh vực này. Các cơ quan chức năng
cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cho hệ
thống văn bản này luôn thống nhất với quan điểm, đường lối của Đảng, tạo cơ sở
vững chắc và tính chặt chẽ trong hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ kết hợp kinh tế
với quốc phòng. Các văn bản trước khi ban hành phải được rà soát, loại bỏ mọi
kẽ hở có thể tạo ra lợi ích cục bộ cho một ngành, hoặc một nhóm người. Công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án, đề án phát triển KT-XH cần được
tiến hành nghiêm túc, liên tục, từ khâu xét duyệt cho đến lúc triển khai thực
hiện và hoàn thành, tất cả các khâu, các bước phải luôn gắn kết với yếu tố bảo
đảm quốc phòng, an ninh. Mọi hành vi sai trái, đi ngược lại quan điểm, đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải bị nghiêm trị theo đúng quy định
của pháp luật.
Trên thế giới hiện nay, hầu hết các cường
quốc về kinh tế thì đều là các cường quốc về quân sự, quốc phòng, điều đó chứng
tỏ kinh tế và quốc phòng là hai thực thể không thể tách rời. Việc Đảng ta đề ra
và kiên quyết, kiên trì với quan điểm kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng
cố quốc phòng, an ninh là phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn khách quan.
Kinh tế không phát triển thì không có nguồn lực cho quốc phòng vững mạnh, ngược
lại quốc phòng không vững chắc thì không có chỗ dựa cho KT-XH phát triển. Cha
ông chúng ta từ xa xưa đã dạy “Thái bình nên gắng sức/Non nước vững nghìn thu”,
“giữ nước từ khi nước chưa nguy”... Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương
thực hiện “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, “xây dựng phải đi đôi với bảo vệ”...
Đó chính là những khái quát ở tầm mức cao về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
thời đại ngày nay mà cụ thể hóa nó chính là kết hợp kinh tế với quốc phòng. Do
vậy, không có lý do gì để quan niệm phát triển kinh tế không gắn kết với quốc
phòng, an ninh tồn tại trong tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân
dân Việt Nam.