Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2019

TỔNG BÍ THƯ HỌP BỘ CHÍNH TRỊ VỀ NHIỆM VỤ CỦA BAN CHỈ ĐẠO TW VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG



Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng có quyết tâm rất cao, chỉ đạo quyết liệt, với cách làm khoa học, chặt chẽ, nền nếp, bài bản, phối hợp nhịp nhàng, từng bước chắc chắn.
Ngày 1-11-2019, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì họp Bộ Chính trị để cho ý kiến về Đề án sửa đổi, bổ sung Quy định số 163-QĐ/TW, ngày 1-2-2013 của Bộ Chính trị khóa XI về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Đề án sửa đổi, bổ sung Quyết định số 159-QĐ/TW, ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị khóa XI về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương.
Tham dự cuộc họp có đại diện lãnh đạo các ban đảng, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan.
Sau khi nghe lãnh đạo Ban Nội chính Trung ương báo cáo về những nội dung cơ bản của Đề án, Văn phòng Trung ương Đảng báo cáo tổng hợp ý kiến các cơ quan liên quan và ý kiến phát biểu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao Ban Nội chính Trung ương - Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chuẩn bị công phu, chu đáo, tiếp thu nghiêm túc, kỹ lưỡng ý kiến góp ý của các cơ quan chức năng.
Bộ Chính trị cơ bản tán thành những nội dung đã nêu tại Tờ trình và Đề án, nhất trí những nội dung kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định sau hơn 6 năm thực hiện Quyết định 159 của Bộ Chính trị, Ban Nội chính Trung ương đã triển khai nhiều công việc, khá toàn diện, tích cực, chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất nhiều chủ trương, quan điểm, định hướng lớn của Đảng về công tác nội chính; chủ động, sáng tạo thực hiện tốt nhiệm vụ Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, kiên trì, quyết liệt trong tham mưu, chỉ đạo xử lý những khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm.
Bám sát Quy định 163 của Bộ Chính trị khóa XI, trong hơn 6 năm qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng có quyết tâm rất cao, chỉ đạo quyết liệt, với cách làm khoa học, chặt chẽ, nền nếp, bài bản, phối hợp nhịp nhàng, từng bước chắc chắn, rõ đến đâu xử lý đến đó, công khai, minh bạch.
Nhất là, đã phát huy tốt cơ chế chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế; chỉ đạo phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các khâu trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng từ thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, rồi đến điều tra, truy tố, xét xử, thu hồi tài sản tham nhũng.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung ương đã có những đóng góp quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng và góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế, khó khăn sau hơn 6 năm thực hiện Quy định 163 và Quyết định 159 của Bộ Chính trị khóa XI, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung ương, đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới, Bộ Chính trị thống nhất cao cần thiết phải sửa đổi, bổ sung.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh việc sửa đổi, bổ sung Quy định 163 và Quyết định 159 nhằm khẳng định và làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, đề cao quyền hạn, trách nhiệm trước Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trong lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, nhất là công tác thanh tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận quan tâm; nhiệm vụ của Ban Nội chính Trung ương trong tham mưu, giúp việc cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp; khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác phòng, chống tham nhũng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng yêu cầu Ban Nội chính Trung ương phối hợp Văn phòng Trung ương Đảng tiếp thu ý kiến của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện Đề án và các dự thảo quy định, quyết định, ký ban hành để tổ chức thực hiện.
Cũng tại Hội nghị này, sau khi xem xét Tờ trình của Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Chính trị đã quyết định một số trường hợp nhân sự thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị./.

NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG



Ngày 25-10, trao đổi với phóng viên Báo Hànộimới bên lề kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIV, các đại biểu Quốc hội cho biết, cử tri rất đồng tình, hoan nghênh sự quyết liệt trong công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước thời gian qua. Công tác này cần được tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa để củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Làm tốt công tác cán bộ để phòng, chống tham nhũng
Công tác phòng, chống tham nhũng trong năm 2019 đã có thêm những bước tiến mạnh mẽ, với nhiều chủ trương, giải pháp đột phá, đạt kết quả rõ rệt, không chỉ trong nước mà dư luận quốc tế cũng hoan nghênh. Tuy nhiên, đây là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, vì không phải đấu tranh với bên ngoài, với người khác, mà đấu tranh với chính chúng ta, trong từng con người chúng ta.
Để nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 10-4-2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo; Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22-4-2019 về việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Hiện, Chính phủ đang khẩn trương hoàn thành nghị định quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập và xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập.
Thời gian tới, bên cạnh việc đẩy mạnh các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng đã được Chính phủ nêu trong báo cáo gửi đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIV, các cấp phải làm tốt công tác cán bộ và tổ chức cán bộ. Cơ quan chức năng cần đưa nội dung, tinh thần Quy định số 205-QĐ/TƯ ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về việc “Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” vào các quy định cụ thể trong Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Luật Kiểm toán nhà nước… 
Cần quyết liệt loại bỏ “tham nhũng vặt” 
Công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực với sự vào cuộc quyết liệt của Đảng và Nhà nước. Những vụ việc tham nhũng đã được xử lý đến nơi đến chốn, phát hiện đến đâu xử lý đến đó. Qua công tác tiếp xúc cử tri, tôi nhận thấy, nhân dân rất đồng tình, hoan nghênh.
Tuy nhiên, cử tri còn nhiều băn khoăn về vấn đề thu hồi tài sản do tham nhũng mà có. Đồng thời tình trạng “tham nhũng vặt” vẫn tồn tại. Đây là vấn đề người dân rất quan tâm bởi “tham nhũng vặt” luôn hiện diện trong các lĩnh vực thực thi công vụ, khiến người dân, doanh nghiệp cảm thấy bất an. Mặc dù đã có sự vào cuộc của các cấp nhưng tình trạng này chưa thuyên giảm, có nguy cơ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Đảng và Nhà nước. Do đó, phải có những giải pháp quyết liệt nhằm loại bỏ triệt để “tham nhũng vặt” để củng cố lòng tin của nhân dân.

CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ NỢ CÔNG



Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh, dự báo trong năm 2019 sẽ tăng trưởng vượt mức 6,8%, vào tốp 20 nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng GDP của toàn cầu. Thế nhưng, vẫn có những thông tin không khách quan, xuyên tạc, thổi phồng về nguy cơ nợ công của nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy, cán bộ, đảng viên cần nhìn nhận đúng vấn đề, từ đó tuyên truyền cho quần chúng nhân dân, tránh nhận thức lệch lạc, sai trái.
Nợ công đang trong tầm kiểm soát
Nợ công của Việt Nam vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát. Cụ thể, chiều 21-10, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2019, dự toán NSNN và phân bổ ngân sách Trung ương năm 2020. Theo đó, thu NSNN 9 tháng đạt 77,5% dự toán, mức cao nhất so với cùng kỳ một số năm gần đây và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2018. Ước thực hiện thu cả năm 2019 vượt 3,3%, khoảng 46.000 tỷ đồng so với dự toán. Thu ngân sách Trung ương là năm thứ hai liên tiếp vượt dự toán. 
Về cân đối ngân sách, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, bội chi ngân sách năm 2019 khoảng 3,4% GDP. Nợ công là 56,1% GDP, nợ Chính phủ 49,2% GDP và nợ nước ngoài quốc gia là 48,5% GDP. Như vậy, với quy mô GDP năm 2019 khoảng 6,2 triệu tỷ đồng (266,5 tỷ USD) thì quy mô nợ công tương ứng 3,48 triệu tỷ đồng. 
Hiện nay trên thế giới, các nghiên cứu về bền vững nợ tuy không chỉ ra ngưỡng nợ nào là an toàn, áp dụng chung cho tất cả các nước nhưng có sự đồng thuận chung rằng, mức nợ công cao đến hơn 100% tổng sản phẩm nội địa (GDP) được coi là mức đáng báo động và tiềm ẩn nhiều rủi ro, mất khả năng trả nợ. Tuy nhiên, cũng có những nước nợ công rất cao, ví như Nhật Bản, mặc dù là nền kinh tế trong tốp đầu thế giới, dự trữ ngoại hối dồi dào, có hoạt động cho vay, cung cấp hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn trên toàn cầu, thị trường vốn trong nước rất phát triển, nhưng mức nợ công cao nhất thế giới (hơn 179% GDP), nền kinh tế nước này tiềm ẩn rủi ro.
Bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nhu cầu vay nợ để phát triển. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu vay nợ càng lớn. Theo báo cáo tháng 2-2019, Mỹ đang có số nợ kỷ lục là 22.021 tỷ USD, bội chi ngân sách trong năm tài khóa 2018 của Mỹ là 779 tỷ USD. Tuy nhiên, khả năng vay nợ được cũng chính là thể hiện sức hút và mức độ tín nhiệm của nền kinh tế. Với nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh như Việt Nam thì nhu cầu vay nợ để bảo đảm các nhu cầu cân đối tài chính, có nguồn lực để thúc đẩy phát triển là vô cùng cần thiết. Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào mức độ nợ của một quốc gia mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp tục vay nợ của quốc gia, trong đó mức tín nhiệm quốc gia đóng vai trò hết sức quan trọng để các nhà đầu tư có lòng tin đối với quốc gia vay nợ, tránh được khủng hoảng về tính thanh khoản.
Hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam tăng
Qua các đợt đánh giá bền vững nợ hàng năm, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đều đánh giá cao việc triển khai hiệu quả cam kết củng cố tài khóa và biện pháp tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ nợ công của Chính phủ Việt Nam. Các tổ chức này đánh giá, nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam hiện ở mức bền vững. Yếu tố này cũng góp phần quan trọng để các tổ chức xếp hạng quốc tế liên tục nâng hạng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trong thời gian gần đây.          
Cụ thể, ngày 5-4-2019, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Standard & Poor’s (S&P) nâng hệ số tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên 1 bậc, từ mức BB- lên mức BB, triển vọng "Ổn định". Đây là lần đầu tiên tổ chức này cải thiện xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam kể từ tháng 12-2010. Theo nhận định của S&P, ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế vĩ mô vững chắc trong thời gian dài phản ánh cải thiện rõ rệt về nền tảng thể chế của Việt Nam. S&P dự báo triển vọng tăng trưởng của Việt Nam sẽ được duy trì trong thời gian tới, góp phần cải thiện hồ sơ tín dụng của nước ta. Triển vọng "Ổn định" thể hiện dự báo nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhanh, phản ánh môi trường hoạch định chính sách của nước ta dần được cải thiện. Theo đánh giá của hãng xếp hạng này, nhìn chung, các chỉ tiêu kinh tế đối ngoại của Việt Nam được đánh giá tích cực. Quy mô nợ nước ngoài của Việt Nam được cải thiện.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, công tác quản lý nợ công những năm gần đây đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, ổn định vĩ mô và tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia.
Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn vay với chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý để bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu trong nước. Việc kiểm soát hiệu quả, bảo đảm các chỉ tiêu về nợ nằm trong giới hạn cho phép; với chủ trương thực thi chính sách tài khóa thận trọng, tốc độ tăng quy mô nợ công đã giảm từ mức 18,1% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 8,2%/năm trong giai đoạn 2016-2018; nợ công so với GDP giảm từ mức 63,7% vào năm 2016 xuống còn 56,1% hiện nay. 
Trên cơ sở dự báo tình hình thực hiện vay, trả nợ và các hạn mức nợ, Chính phủ cho rằng đến cuối năm 2019 dự kiến các chỉ tiêu nợ so với GDP duy trì trong các ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép và tiếp tục xu hướng giảm. Chính phủ dự báo đến cuối năm 2020 nợ công còn khoảng 54,3% GDP, nợ Chính phủ khoảng 48,5% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP khoảng 45,5%. Dự báo này được tính toán trên cơ sở dự kiến GDP theo giá hiện hành năm 2020 đạt 6.807 nghìn tỷ đồng. Nợ công năm tới dù tiếp tục giảm về tỷ lệ so với GDP nhưng xét về số tuyệt đối thì vẫn tăng do quy mô GDP của nền kinh tế Việt Nam tăng lên (quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2018 là 5.535,3 nghìn tỷ đồng). 3 nguyên nhân khiến nợ công so với GDP tiếp tục giảm trong năm nay. Đầu tiên là tình hình cân đối NSNN diễn biến thuận lợi, qua đó giảm nhu cầu huy động vốn của Chính phủ để bù đắp bội chi cho đầu tư phát triển. Kế đó, các giải pháp quyết liệt nhằm đẩy mạnh tốc độ giải ngân trong những tháng cuối năm nếu được triển khai hiệu quả sẽ đưa tỷ lệ giải ngân nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài năm 2019 đạt khoảng 78,7% kế hoạch năm. Nguyên nhân thứ ba là dư nợ bảo lãnh Chính phủ tiếp tục giảm do Chính phủ siết chặt.
Theo ông Võ Hữu Hiển, Phó cục trưởng Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), nhằm tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công, Bộ Tài chính đã giảm dần tỷ trọng nợ nước ngoài, tập trung huy động vốn trong nước với lãi suất hợp lý, phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) kỳ hạn dài để giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn. Nhờ đó, thúc đẩy phát triển thị trường TPCP trong nước thông qua đa dạng hóa các sản phẩm và mở rộng cơ sở nhà đầu tư dài hạn, đồng thời siết chặt việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, hạn chế rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng cho NSNN. Cụ thể, cơ cấu nợ Chính phủ có chuyển biến khả quan theo hướng giảm dần sự phụ thuộc vào các khoản vay nước ngoài. Tỷ trọng dư nợ trong nước hiện nay chiếm khoảng 62% nợ Chính phủ (so với tỷ trọng 40% vào năm 2010). Từ đầu năm 2019 đến nay, kỳ hạn phát hành TPCP bình quân duy trì ở mức rất dài là 13,3 năm, tăng mạnh so với mức bình quân 4,8 năm trong giai đoạn 2011-2015. Lãi suất phát hành giảm đáng kể, góp phần giảm chi phí huy động vốn cho NSNN. Lãi suất phát hành TPCP trong nước giảm từ mức bình quân 12%/năm trong giai đoạn 2011-2015 xuống còn khoảng 4,95%/năm từ đầu năm 2019 đến nay. 
Bố trí đủ nguồn để trả nợ theo cam kết
Trong những năm vừa qua, Chính phủ luôn chủ động bố trí đủ nguồn trong dự toán cân đối ngân sách để trả nợ trong mức đã được Quốc hội phê duyệt, theo đúng cam kết với các nhà đầu tư, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ và hình ảnh của Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ so với thu NSNN được duy trì ở mức hợp lý. Đến cuối năm 2018 đạt khoảng 15,9%, thấp hơn ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép là 25%...
Trong bối cảnh cân đối ngân sách cho chi trả nợ còn nhiều khó khăn, đồng thời để phòng ngừa rủi ro thanh khoản cho danh mục nợ công, trong thời gian tới Bộ Tài chính cho biết, sẽ tiếp tục theo dõi diễn biến thị trường để triển khai các phương án mua lại, hoán đổi TPCP đáo hạn trong năm 2020 và năm 2021 tại các thời điểm trung-dài hạn. Việc quản lý nợ công và tái cơ cấu nợ công từ nay đến cuối giai đoạn 2020 và giai đoạn 5 năm tiếp theo cần được tiếp tục triển khai đồng bộ với việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh; trong đó, có cơ cấu lại NSNN, đầu tư công, khu vực doanh nghiệp nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (TCTD). Bộ Tài chính sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ công. Việc nghiên cứu, đề xuất các ngưỡng an toàn nợ công cho giai đoạn 5 năm tới sẽ được đánh giá hết sức thận trọng, không chỉ tập trung vào quy mô nợ so với GDP mà còn phải phù hợp khả năng chi trả nợ của NSNN, ưu tiên tạo thêm dư địa để bố trí nguồn lực ngân sách cho đầu tư phát triển.
Đối với vốn vay nước ngoài, Bộ Tài chính sẽ thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách lớn trong việc huy động, quản lý và sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi, tập trung cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Đặc biệt, Bộ Tài chính sẽ kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của cơ quan địa phương, hoạt động vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp và TCTD theo hình thức tự vay, tự trả, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, nợ công của Việt Nam vẫn đang được kiểm soát chặt chẽ. Do đó, các cán bộ, đảng viên cần nắm vững tình hình, tuyên truyền cho người thân, bạn bè và quần chúng. Để từ đó củng cố niềm tin về sự phát triển ngày càng bền vững của nền kinh tế nước ta, tránh bị tác động tiêu cực bởi các thông tin không khách quan, xuyên tạc sự thật nhằm mục đích xấu.

CẦN NHẬN THỨC THẤU ĐÁO VỀ KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH



Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội (KH-XH), với củng cố quốc phòng, an ninh (gọi tắt là kết hợp kinh tế với quốc phòng) là quan điểm, chủ trương của Đảng ta và đã triển khai thực hiện qua nhiều kỳ đại hội.
Quan điểm này xuất phát từ truyền thống dựng nước phải đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hình thành từ hàng nghìn năm qua và được trao truyền từ thời đại này sang thời đại khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Chính từ sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng đã giúp cho đất nước ta luôn ổn định về chính trị, giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại... Đó là cơ sở để đưa nước ta từ một nước lạc hậu, kém phát triển, trở thành một nước đang phát triển, với mức thu nhập trung bình như hiện nay.
Những năm gần đây, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương, sự tham mưu đúng, trúng của các cơ quan, đơn vị thuộc LLVT, công tác kết hợp kinh tế với quốc phòng từ cấp vĩ mô đến vi mô đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Qua tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc cho thấy: Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng đã được nhiều bộ, ngành, địa phương chú trọng thực hiện. Ở các bộ, ngành đã nhận thức rõ công tác quốc phòng không phải là chỉ riêng LLVT tiến hành, nên đã có những đóng góp tích cực từ việc tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách, đường lối, cho đến trực tiếp phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc LLVT triển khai thực hiện các dự án, đề án về kết hợp kinh tế với quốc phòng trên khắp các vùng miền, biên giới, hải đảo. Do đó thế trận phòng thủ trên bộ, trên không, trên biển không ngừng được củng cố, góp phần giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, giữ vững không phận và chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Đối với các địa phương, nhận thức của đội ngũ cán bộ chủ trì cũng đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản lãnh đạo, chỉ đạo việc phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, an ninh đã được ban hành có tính thường kỳ. Nhiều địa phương đã cố định một tỷ lệ ngân sách, bố trí diện tích tự nhiên để xây dựng các công trình quân sự, quốc phòng, xây dựng căn cứ chiến đấu trong khu vực phòng thủ. Tổng hợp tất cả các yếu tố lại chúng ta có thể thấy, hệ thống khu vực phòng thủ trên địa bàn cả nước đang dần được hình thành và có sự liên kết khá vững chắc cả trên bộ, trên không, trên biển; tiềm lực quân sự trong khu vực phòng thủ đang được tăng cường, có thể đáp ứng được yêu cầu tác chiến khi có chiến tranh xảy ra.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế cũng thấy nổi lên một số vấn đề, đó là vẫn còn một số người cho rằng hiện nay chỉ cần tập trung phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập là được, còn chiến tranh chưa xảy ra nên chưa cần đầu tư nhiều nguồn lực vào công tác quốc phòng. Nguyên nhân dẫn đến nhận thức sai lệch này là do hiểu không đúng về vai trò, mối quan hệ của kinh tế đối với quốc phòng, quốc phòng đối với kinh tế trong một quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền. Do đó họ muốn tách rời quan hệ kinh tế với quan hệ quốc phòng, tách rời việc tạo tiềm lực kinh tế với tạo tiềm lực quốc phòng. Một phần nữa là do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, cho rằng đã làm kinh tế thì chỉ quan tâm đến lợi nhuận, lợi ích cá nhân hoặc lợi ích cục bộ. Chính từ nhận thức trên đã dẫn đến những hiện tượng, hành vi có tác động xấu tới việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong thực tiễn, đó là:
Trước hết, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư phát triển KT-XH ở một số địa phương đã có những dấu hiệu chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ của ngành mình, địa phương mình hoặc của một nhóm người; không chú trọng đến tính liên kết, đồng bộ trong phát triển của các lĩnh vực, vùng miền. Điều này một phần xuất phát từ cái gọi là “tư duy nhiệm kỳ” đang tồn tại trong một số cán bộ. Việc làm đó đã khiến nguồn lực đầu tư đổ dồn vào chỗ có thể sinh lợi, còn các nơi khác thì không, kể cả vùng trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Hệ lụy của nó là tạo ra sự mất cân đối về nguồn lực giữa các vùng miền, nới rộng khoảng cách giàu nghèo, làm ảnh hưởng đến việc xây dựng thế trận quốc phòng, thế trận lòng dân. Việc ban hành văn bản nhằm vào lợi ích cục bộ là một hiện tượng rất đáng báo động, bởi đây cũng là gốc rễ sinh ra sự thiếu công bằng trong xã hội, là một phần nguyên nhân của hiện tượng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, và điều nguy hại là nó sẽ gây ra những hệ lụy rất khó khắc phục trong thực tiễn.
Thứ hai là, hiện nay đang tồn tại hiện tượng cố tình làm sai các hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan chức năng và cơ quan cấp trên trong lĩnh vực kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Có những địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, mặc dù đã được cơ quan chức năng hướng dẫn kỹ càng, đầy đủ trước khi thực hiện các dự án, đề án, nhưng trong tổ chức thực hiện đã cố tình làm sai, làm trái. Vấn đề này thể hiện rất rõ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, lĩnh vực khai thác du lịch, khoáng sản... Có khá nhiều công trình sai phép, trái phép về độ cao, về phạm vi, diện tích xây dựng, hoặc vị trí, quy mô xây dựng không đúng quy hoạch... Vì vậy, nhiều công trình khi xây dựng lên đã uy hiếp sự an toàn của mục tiêu cần bảo vệ (công trình số 8B phố Lê Trực, Ba Đình, Hà Nội là một điển hình và công trình này đang bị UBND TP Hà Nội yêu cầu tháo dỡ, bảo đảm đúng so với thiết kế và giấy phép xây dựng). Trong thực hiện, vì lợi ích kinh tế nên có những địa phương đã cấp phép cho các doanh nghiệp xây dựng và khai thác dịch vụ du lịch vào các vị trí quan trọng trong thế trận phòng thủ ở địa phương. Có những khu du lịch chiếm cứ toàn bộ một dải bờ biển, hoặc chiếm toàn bộ khu vực có thể tạo nên trận địa phòng ngự tại một điểm cao, sau đó xây dựng các công trình, phá vỡ địa hình tự nhiên, làm ảnh hưởng tới kế hoạch tác chiến phòng thủ của địa phương, trong đó khu lịch sinh thái biển Tiên Sa thuộc bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng có thể gọi là một ví dụ điển hình. Rất may là khu resort này đã bị cơ quan chức năng và chính quyền địa phương đình chỉ thi công. Trong cả nước còn có khá nhiều dự án xây dựng, khai thác khoáng sản trái phép, hoặc sai phép, xuất phát từ lợi ích của một nhóm người, nhưng lại làm phương hại đến lợi ích của cộng đồng và lợi ích quốc gia, làm ảnh hưởng tới khả năng cơ động lực lượng, làm sai lệch kết cấu của thế trận phòng thủ, không đúng quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng.
Thứ ba là, có hiện tượng cán bộ nhận thức lơ mơ cả về lý luận và thực tiễn đối với quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng. Do đó khi thực hiện nhiệm vụ đã không thể làm tròn trách nhiệm, hoặc không biết mình làm sai. Nguyên nhân của hiện tượng này là do cán bộ không chịu học tập, nghiên cứu về chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực kết hợp kinh tế với quốc phòng, nên không hiểu được căn nguyên, gốc rễ vấn đề, làm việc theo cảm tính, thiếu căn cứ lý luận và không phù hợp với thực tiễn. Một phần khác là do các thế lực thù địch lôi kéo, gây nhiễu loạn thông tin, khiến cho một số cán bộ không phân biệt được lợi và hại, chỉ nhìn một chiều, nên khi hoạch định chính sách, triển khai chính sách phát triển KT-XH, hoặc giám sát thực hiện... đều dễ mắc sai lầm, tiến hành các dự án, đề án theo kiểu đơn lẻ, thiển cận, thiếu sự quan sát, gắn kết có tính tổng quan giữa phát triển KT-XH với củng cố quốc phòng, an ninh.
Trong nhân dân thì còn một bộ phận thiếu hiểu biết về pháp luật, cộng với lòng tham nên thừa lúc công tác quản lý còn lỏng lẻo, đã cố ý lấn chiếm các khu vực quân sự, quốc phòng, biến đất quốc phòng thành đất của riêng mình. Vì vậy nhiều khu đất đã được quy hoạch thành khu vực xây dựng công trình quân sự, phục vụ sự nghiệp quốc phòng, nhưng một bộ phận người dân đã xâm phạm, canh tác hoặc xây dựng các công trình trong khu vực lấn chiếm. Khi Nhà nước thu hồi thì tỏ thái độ chống đối, chây ỳ, không chịu di dời trả lại mặt bằng cho Nhà nước, khiến cho việc giải phóng mặt bằng trở nên phức tạp. Bên cạnh đó đã xuất hiện một số đối tượng có kiến thức về luật pháp, nhưng lại vào hùa với cái sai hòng trục lợi nên đã hướng lái người dân “cố thủ” trên các khu vực đã lấn chiếm để đòi hỏi quyền lợi. Việc lấn chiếm đất quốc phòng ở khu vực sân bay Miếu Môn hiện nay là một ví dụ điển hình.
Khắc phục hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực kết hợp kinh tế với quốc phòng là việc bắt buộc phải làm. Cần phải làm cho mọi cán bộ và nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từ đó xác định rõ trách nhiệm, bổn phận của mình trong thực hiện chủ trương trên. Vì vậy, phải tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, nêu bật các điển hình tích cực, đồng thời cũng chỉ rõ các hành vi tiêu cực trong lĩnh vực này. Các cơ quan chức năng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cho hệ thống văn bản này luôn thống nhất với quan điểm, đường lối của Đảng, tạo cơ sở vững chắc và tính chặt chẽ trong hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng. Các văn bản trước khi ban hành phải được rà soát, loại bỏ mọi kẽ hở có thể tạo ra lợi ích cục bộ cho một ngành, hoặc một nhóm người. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án, đề án phát triển KT-XH cần được tiến hành nghiêm túc, liên tục, từ khâu xét duyệt cho đến lúc triển khai thực hiện và hoàn thành, tất cả các khâu, các bước phải luôn gắn kết với yếu tố bảo đảm quốc phòng, an ninh. Mọi hành vi sai trái, đi ngược lại quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải bị nghiêm trị theo đúng quy định của pháp luật.
Trên thế giới hiện nay, hầu hết các cường quốc về kinh tế thì đều là các cường quốc về quân sự, quốc phòng, điều đó chứng tỏ kinh tế và quốc phòng là hai thực thể không thể tách rời. Việc Đảng ta đề ra và kiên quyết, kiên trì với quan điểm kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh là phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn khách quan. Kinh tế không phát triển thì không có nguồn lực cho quốc phòng vững mạnh, ngược lại quốc phòng không vững chắc thì không có chỗ dựa cho KT-XH phát triển. Cha ông chúng ta từ xa xưa đã dạy “Thái bình nên gắng sức/Non nước vững nghìn thu”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”... Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, “xây dựng phải đi đôi với bảo vệ”... Đó chính là những khái quát ở tầm mức cao về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời đại ngày nay mà cụ thể hóa nó chính là kết hợp kinh tế với quốc phòng. Do vậy, không có lý do gì để quan niệm phát triển kinh tế không gắn kết với quốc phòng, an ninh tồn tại trong tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...