Dưới góc độ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, Hồ Chí Minh đã phân tích, luận giải khá đầy đủ về suy thoái về phẩm chất,
đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đó là trong mỗi con người
xuất hiện và tồn tại các mặt đối lập - mặt tích cực và mặt tiêu cực. Trong
những điều kiện nhất định mặt tiêu cực phát triển và chiếm ưu thế và trở nên
thắng thế so với mặt tích cực. Quá trình đấu tranh giữa mặt tích cực và mặt
tiêu cực diễn ra từ từ, chậm chạp bên trong mỗi con người qua những giai đoạn
từ thấp đến cao, từ tư tưởng đến hành động. Quá trình đó cũng giống như quá
trình xuất hiện của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
1. Quan niệm Hồ Chí
Minh về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”
Thuật ngữ “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” (TDB, TCH) chỉ thực sự xuất hiện gần đây sau chiến lược
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống các nước XHCN và các nước
có khuynh hướng tiến bộ không theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Lần đầu tiên
được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI đó là: “Trong nội
bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”(1). Đại hội lần thứ XII tiếp tục chỉ
rõ hơn nguyên nhân và đối tượng chịu ảnh hưởng của TDB, TCH, đó là: “Tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức”(2). Tuy nhiên, TDB, TCH đã được Hồ Chí Minh đề phòng ngay từ những ngày
đầu xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhưng dưới hình thức thể hiện
là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Với cách nhìn biện chứng duy vật, trên bình diện của sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập, Hồ Chí Minh đã phân tích, luận giải khá đầy đủ về
suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Theo Hồ Chí Minh, sự
suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là
một hiện tượng trong đời sống xã hội, nó xảy ra trong mỗi con người, mỗi cán
bộ, đảng viên, khi trong họ còn tồn tại những mầm mống làm nảy sinh những mặt
tiêu cực, mà mặt tiêu cực dần dần lấn át, chiếm ưu thế so với mặt tích cực; khi
mặt tiêu cực chiến thắng thì người cán bộ, đảng viên bước vào giai đoạn suy
thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống. Đối với cán bộ, đảng viên, mặt tích cực
là lý tưởng, là các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN, là các giá trị tốt
đẹp về phẩm chất, nhân cách của người cán bộ cách mạng hay nói cách khác đây
chính là “đạo đức cách mạng” của người cán bộ. Mặt tiêu cực là tư tưởng, lối
sống và văn hóa phong kiến, tiểu tư sản và tư sản, những phản giá trị về đạo
đức, lối sống trong nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Khi có sự tác động
bởi những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi thì những mặt tiêu cực
phát triển lấn át những mặt tích cực.
Theo Hồ Chí Minh,
chúng ta xây dựng CNXH từ trong lòng của xã hội cũ nên chưa “gột sạch” hết
những dấu vết của xã hội đó để lại. Dấu vết chủ yếu và trực tiếp nhất chính là
chủ nghĩa cá nhân: “Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong
mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, thói quen...
Vết tích xấu xa và chủ yếu nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân”(3). Ngay từ
đầu chủ nghĩa cá nhân đã là kẻ địch hung ác của CNXH. Vì khi gặp những điều
kiện thuận lợi cả về khách quan lẫn chủ quan thì nó “ngóc đầu dậy” sinh sôi,
nảy nở và phát triển thành các mặt tiêu cực, nó là nguồn gốc của những “căn
bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hóa Đảng. Đây là sự nguy
hiểm tiềm tàng làm cho Đảng mất dần tính cách mạng, tính trí tuệ, tính đạo đức,
tính nhân dân... Chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân thì cách mạng còn gặp rất
nhiều khó khăn. Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản
còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc
dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy”(4).
Điều kiện khách quan
và chủ quan là do công tác xây dựng đảng chưa hiệu quả, chưa tạo được cơ chế
kiểm tra giám sát chặt chẽ, nên chưa tạo ra môi trường chính trị thuần khiết và
cơ chế hoạt động chặt chẽ. Do đó, để cho những người thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
thiếu “cúc cung tận tụy”, thiếu trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với
nhân dân... nắm giữ các vị trí lãnh đạo của chính quyền; để cho những người cơ
hội, thực dụng có điều kiện để xa hoa, lãng phí, đục khoét tài sản công, biến
tài sản công thành tài sản tư, lợi dụng chức quyền để tham ô, hủ hóa. Khi đã có
chính quyền trong tay, tức là khi đã có quyền lực, quyền lợi, tuy còn hạn chế,
một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bắt đầu có những biểu hiện lợi dụng chức quyền
để tư lợi từ việc nhỏ đến việc lớn cho cá nhân mình và cho gia đình mình. Chính
vì vậy, từ những ngày đầu khi vừa giành được độc lập, trong “Thư gửi các đồng
chí tỉnh nhà”, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cần đề phòng cán bộ “hủ hóa”, “lên mặt
làm quan cách mạng hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư”(5). Sau
đó, trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra 6 lỗi lầm chính của cán bộ là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia
rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những biểu hiện xa lạ của một số cán bộ có
chức, trong khi nước nhà còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đó là: “Ăn muốn
cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử
hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh
liêm, đạo đức. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy
viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu? ”(6).
Như vậy, quá trình
phát triển của chủ nghĩa cá nhân làm cho đạo đức cách mạng của người cán bộ bị
lấn át, đảng viên bị phai mờ. Đây cũng chính là quá trình xuất hiện các dấu
hiệu suy thoái - là căn nguyên của các biểu hiện TDB và TCH bên trong mỗi cán
bộ, đảng viên. Trong đó các dấu hiệu của TCH là sự nối tiếp của quá trình TDB,
nhưng ở cấp độ cao hơn. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra quá trình chủ nghĩa cá nhân phát
triển và “đẻ ra” những mặt tiêu cực dẫn tới xuất hiện các biểu hiện sự suy
thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên: “Do cá
nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa
hoa... tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành... tự cao tự đại, coi thường
tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền... mất đoàn kết, thiếu
tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng của
nhân dân”(7).
Chủ nghĩa cá nhân là
nguyên nhân đẻ ra các mặt tiêu cực; là nguồn gốc sâu xa của sự suy thoái về
phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đấu tranh phòng,
chống những sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên, theo Hồ Chí Minh chính là đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Phải
tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa cá nhân mới hết nguy cơ bị suy thoái. Vì theo Người:
“Nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển để
che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng”(8). Cho nên, “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của
chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(9). Tuy nhiên, cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân vô cùng khó khăn và phức tạp. Vì: “Chủ nghĩa cá
nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc,
mà xuống dốc thì dễ hơn lên dốc”(10). Nên cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, đồng nghĩa với đấu tranh chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối
sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên phải triệt để, đồng bộ nhiều biện pháp,
nhưng cũng lâu dài phức tạp. Trong cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải bảo vệ lợi
ích chính đáng của cán bộ, đảng viên, không phủ nhận vai trò của cá nhân trong
lao động sáng tạo, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời phải chống lại
cái lỗi thời, lạc hậu của chủ nghĩa cá nhân gây hại cho sự nghiệp của Đảng, của
dân tộc. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là nhằm kết hợp hài hoà giữa lợi ích
chính đáng của cá nhân với lợi ích của tập thể; chăm lo đến lợi ích của cá
nhân, chú trọng xây dựng tính tập thể, tính cộng đồng; tạo điều kiện để cán bộ,
đảng viên phát triển đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với thực tiễn, bảo
đảm cho họ được thụ hưởng kết quả của công cuộc đổi mới.
Trong mỗi con người
đều có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vì vậy, phương châm đấu tranh chống sự suy
thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên của Hồ
Chí Minh là: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như
hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”(11).
Theo đó, để sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên không xảy ra, phải khống chế sự phát triển của mặt tiêu cực, phải làm
cho mặt tích cực chiếm ưu thế. Phải làm cho mặt tích cực tăng dần lên, nhiều
lên về số lượng và chất lượng và mặt tiêu cực mất dần đi; phải làm cho những
mặt tích cực có đủ thế, lực và sức mạnh để có thể thắng lợi trong cuộc đấu
tranh với mặt tiêu cực; phải tạo ra chất kháng thể bên trong mỗi con người để
có thể tự ngăn chặn sự phát triển của các mặt tiêu cực... Tức là, phải nâng cao
đạo đức cách mạng, vì đạo đức cách mạng là cái gốc của người cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan
trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách
mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân
dân”(12). Người có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không
rụt rè, lùi bước; khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; có đạo
đức cách mạnh thì họ sẽ lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Như
vậy, phải “nâng cao đạo đức cách mạng” mới có thể “quét sạch chủ nghĩa cá
nhân”.
Sự suy thoái về phẩm
chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên xảy ra không phải chỉ
do nguyên nhân chủ quan từ phía mỗi cán bộ, đảng viên, mà còn do công tác quản
lý, giáo dục đảng viên của các tổ chức đảng chưa hiệu quả kịp thời và có chất
lượng. Nên phòng, chống các sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một
bộ phận cán bộ, đảng viên theo Hồ Chí Minh: không những đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân mà “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(13). Mục
đích là tạo ra môi trường chính trị thuần khiết, tạo địa bàn và điều kiện thuận
lợi, từ đó tạo ra thế và lực có lợi, bảo đảm cho sự thắng lợi của mặt tích cực
trong cuộc đấu tranh với mặt tiêu cực bên trong mỗi con người, mỗi tập thể. Vì
vậy, trước hết là xây dựng Đảng cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Thực hiện
phương châm “chống và xây”, “xây và chống”, “nói đi đôi với làm”. Trong công
tác xây dựng Đảng, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản về tổ chức và sinh
hoạt Đảng. Thực hiện dân chủ rộng rãi đi đôi với coi trọng kỷ cương, kỷ luật,
đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ,
bản vị, “địa phương chủ nghĩa” trong công tác cán bộ.
Song song với đó,
phải tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ chủ trương, đường lối,
quan điểm, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ đội ngũ cán bộ,
đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nhưng vấn đề cốt lõi
nhất là giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, theo Người phải: “giữ gìn đoàn
kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(14). Có như thế
mới tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường “sức đề
kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập,
chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù
địch và đối tượng khác. Nhờ có sự đoàn kết thống nhất trong Đảng sẽ nâng cao
khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên trước sự tác động chuyển hóa từ
bên ngoài và bên trong. Trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn
chặn sự suy thoái trong nội bộ, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi nguy cơ xuất hiện sự suy thoái về phẩm chất, đạo
đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra, theo Hồ Chí
Minh, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình cũng là cách để đấu tranh chống sự
suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây
là cách tạo ra cơ chế bảo đảm cho sự thắng lợi của mặt tích cực với mặt tiêu
cực. Người cho rằng, nếu biết cách tự phê bình và phê bình sẽ làm cho những
khuyết điểm “lòi ra” và mất dần đi, người cán bộ đảng viên sẽ tẩy sạch khuyết
điểm cũng như “tẩy giun sán trong người”, qua đó làm cho các mặt tiêu cực mất
đi và mặt tích cực nhiều lên. Theo đó, tự phê bình và phê bình là việc phải làm
thường xuyên và có hiệu quả như “rửa mặt hàng ngày” của mỗi cán bộ, đảng viên;
biết khéo léo đưa các khuyết điểm ra trước tập thể, biết khuyến khích và bảo vệ
mọi người phê bình những khuyết điểm đó; khéo léo nhưng phải kiên quyết trong
phê bình mới làm cho mặt tiêu cực mất dần đi và mặt tích cực tăng dần lên.
2. Giải pháp chủ yếu
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay
Một là, tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh. Xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh sẽ tạo môi trường chính trị thuần khiết, để tu dưỡng rèn luyện đảng viên,
chống lại các tác động tiêu cực từ bên ngoài, ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện TDB, TCH
trong nội bộ đảng và trong từng cán bộ đảng viên. Theo đó, Văn kiện Đại hội XII
xác định: “Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị”(15), tập trung thực hiện mục
tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền
trong Đảng, xây dựng văn hóa lãnh đạo, cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền
của Đảng. Bên cạnh đó cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; xây dựng
và thực hiện văn hóa tự phê bình và phê bình trong tình hình mới.
Hai là, đổi mới mạnh
mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ nội bộ. Làm tốt công tác này
chính là xây dựng được thể chế để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề cập việc đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ,
góp phần thiết thực phòng, chống những biểu hiện TDB, TCH trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, quản lý, đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ
chiến lược. Vì đây là đội ngũ cán bộ đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan,
đơn vị. Họ có vai trò quan trọng đặc biệt. Bởi lẽ, người đứng đầu chịu
trách nhiệm cao nhất trong lãnh đạo, quản lý đơn vị mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân giao cho; là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cấp trên việc lãnh đạo,
quản lý, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh, giáo dục và rèn luyện
cán bộ, nhân viên thuộc quyền. Theo đó, cần “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ”(16). Đối với công tác bảo vệ nội bộ phải gắn với công tác xây dựng, chỉnh
đốn đảng, đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện cục bộ, bè phái, “lợi ích
nhóm”, xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên vi phạm các quy định của Đảng, đấu
tranh có hiệu quả với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch.
Ba là, đổi mới công
tác tư tưởng, lý luận. Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quan trọng hàng
đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Đấu tranh làm thất bại
các âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chủ động
ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch; đấu
tranh vạch trần các hành vi tha hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên, định
hướng tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên. Theo đó, Đảng ta xác định vai trò của công tác tư tưởng lý luận đối với
việc phòng, chống TDB, TCH: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn
đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(17).
Bốn là, đẩy mạnh việc
tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Việc tu dưỡng rèn luyện của cán bộ,
đảng viên có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến việc ngăn chặn và đẩy lùi những
biểu hiện TDB, TCH ngay chính trong bản thân họ. Thực hiện việc tự tu dưỡng,
rèn luyện của cán bộ, đảng viên, Đại hội XII chú trọng đến việc: “Tăng cường
rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng”(18).
Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Biết tự đánh giá bản thân để lựa chọn
con đường, biện pháp rèn luyện phù hợp; có thái độ nghiêm khắc trong tự phê
bình, lắng nghe ý kiến nhận xét của quần chúng, cấp trên, cấp dưới và đồng cấp
về bản thân mình. Tích cực chủ động phát huy ưu điểm, khắc phục sửa chữa sai
lầm, khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện bản thân... Đối với cấp ủy, tổ
chức đảng, người đứng đầu tổ chức các cấp cần xây dựng và thực hiện tốt các quy
định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối
sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên.
Năm là, quan tâm đến
đời sống và lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên. Hiện nay, trong điều kiện
Đảng cầm quyền, đảng viên là cán bộ, công chức nhà nước có điều kiện chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Do đó, đời sống được
bảo đảm, quyền lợi vật chất chính đáng được bảo vệ, chính là điều kiện để mỗi
người gắn bó với công việc; yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống. Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng
góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện “đẩy
mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán
bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng”(19); công bằng
giữa các khu vực, nhất là khu vực hành chính sự nghiệp, với khu vực doanh
nghiệp nhà nước là nguyện vọng chính đáng của đảng viên, công chức, viên chức.
Bảo đảm sự bình đẳng, công bằng giữa khu vực công và khu vực tư, thực hiện
chính sách công bằng và tiến bộ đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
____________________
(1) ĐCSVN: Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.185.
(2), (15), (16),
(17), (18), (19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.51, 199, 51, 200-201, 202, 213.
(3), (4), (8), (9),
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tr. 601-602, 602, 606, 611, 602.
(5), (6) Sđd, t.4,
tr.20, 65.
(7), (11), (13),
(14) Sđd, t.15, tr.547, 672, 616, 622.
(12) Sđd, t.14,
tr.400.
TS Nguyễn Hồng Điệp
Trường Đại học Chính
trị,
Bộ Quốc phòng