Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2019

PHÒNG, CHỐNG NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HOÁ” TRONG MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH



Dưới góc độ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Hồ Chí Minh đã phân tích, luận giải khá đầy đủ về suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đó là trong mỗi con người xuất hiện và tồn tại các mặt đối lập - mặt tích cực và mặt tiêu cực. Trong những điều kiện nhất định mặt tiêu cực phát triển và chiếm ưu thế và trở nên thắng thế so với mặt tích cực. Quá trình đấu tranh giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực diễn ra từ từ, chậm chạp bên trong mỗi con người qua những giai đoạn từ thấp đến cao, từ tư tưởng đến hành động. Quá trình đó cũng giống như quá trình xuất hiện của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
1. Quan niệm Hồ Chí Minh về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Thuật ngữ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (TDB, TCH) chỉ thực sự xuất hiện gần đây sau chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống các nước XHCN và các nước có khuynh hướng tiến bộ không theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Lần đầu tiên được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI đó là: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”(1). Đại hội lần thứ XII tiếp tục chỉ rõ hơn nguyên nhân và đối tượng chịu ảnh hưởng của TDB, TCH, đó là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức”(2). Tuy nhiên, TDB, TCH đã được Hồ Chí Minh đề phòng ngay từ những ngày đầu xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhưng dưới hình thức thể hiện là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Với cách nhìn biện chứng duy vật, trên bình diện của sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Hồ Chí Minh đã phân tích, luận giải khá đầy đủ về suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Theo Hồ Chí Minh, sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là một hiện tượng trong đời sống xã hội, nó xảy ra trong mỗi con người, mỗi cán bộ, đảng viên, khi trong họ còn tồn tại những mầm mống làm nảy sinh những mặt tiêu cực, mà mặt tiêu cực dần dần lấn át, chiếm ưu thế so với mặt tích cực; khi mặt tiêu cực chiến thắng thì người cán bộ, đảng viên bước vào giai đoạn suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống. Đối với cán bộ, đảng viên, mặt tích cực là lý tưởng, là các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN, là các giá trị tốt đẹp về phẩm chất, nhân cách của người cán bộ cách mạng hay nói cách khác đây chính là “đạo đức cách mạng” của người cán bộ. Mặt tiêu cực là tư tưởng, lối sống và văn hóa phong kiến, tiểu tư sản và tư sản, những phản giá trị về đạo đức, lối sống trong nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Khi có sự tác động bởi những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi thì những mặt tiêu cực phát triển lấn át những mặt tích cực.
Theo Hồ Chí Minh, chúng ta xây dựng CNXH từ trong lòng của xã hội cũ nên chưa “gột sạch” hết những dấu vết của xã hội đó để lại. Dấu vết chủ yếu và trực tiếp nhất chính là chủ nghĩa cá nhân: “Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, thói quen... Vết tích xấu xa và chủ yếu nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân”(3). Ngay từ đầu chủ nghĩa cá nhân đã là kẻ địch hung ác của CNXH. Vì khi gặp những điều kiện thuận lợi cả về khách quan lẫn chủ quan thì nó “ngóc đầu dậy” sinh sôi, nảy nở và phát triển thành các mặt tiêu cực, nó là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hóa Đảng. Đây là sự nguy hiểm tiềm tàng làm cho Đảng mất dần tính cách mạng, tính trí tuệ, tính đạo đức, tính nhân dân... Chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân thì cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn. Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy”(4).
Điều kiện khách quan và chủ quan là do công tác xây dựng đảng chưa hiệu quả, chưa tạo được cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ, nên chưa tạo ra môi trường chính trị thuần khiết và cơ chế hoạt động chặt chẽ. Do đó, để cho những người thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu “cúc cung tận tụy”, thiếu trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với nhân dân... nắm giữ các vị trí lãnh đạo của chính quyền; để cho những người cơ hội, thực dụng có điều kiện để xa hoa, lãng phí, đục khoét tài sản công, biến tài sản công thành tài sản tư, lợi dụng chức quyền để tham ô, hủ hóa. Khi đã có chính quyền trong tay, tức là khi đã có quyền lực, quyền lợi, tuy còn hạn chế, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bắt đầu có những biểu hiện lợi dụng chức quyền để tư lợi từ việc nhỏ đến việc lớn cho cá nhân mình và cho gia đình mình. Chính vì vậy, từ những ngày đầu khi vừa giành được độc lập, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cần đề phòng cán bộ “hủ hóa”, “lên mặt làm quan cách mạng hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư”(5). Sau đó, trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra 6 lỗi lầm chính của cán bộ là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những biểu hiện xa lạ của một số cán bộ có chức, trong khi nước nhà còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đó là: “Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu? ”(6).
Như vậy, quá trình phát triển của chủ nghĩa cá nhân làm cho đạo đức cách mạng của người cán bộ bị lấn át, đảng viên bị phai mờ. Đây cũng chính là quá trình xuất hiện các dấu hiệu suy thoái - là căn nguyên của các biểu hiện TDB và TCH bên trong mỗi cán bộ, đảng viên. Trong đó các dấu hiệu của TCH là sự nối tiếp của quá trình TDB, nhưng ở cấp độ cao hơn. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra quá trình chủ nghĩa cá nhân phát triển và “đẻ ra” những mặt tiêu cực dẫn tới xuất hiện các biểu hiện sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa... tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành... tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền... mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng của nhân dân”(7).
Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân đẻ ra các mặt tiêu cực; là nguồn gốc sâu xa của sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đấu tranh phòng, chống những sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, theo Hồ Chí Minh chính là đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Phải tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa cá nhân mới hết nguy cơ bị suy thoái. Vì theo Người: “Nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”(8). Cho nên, “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(9). Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vô cùng khó khăn và phức tạp. Vì: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc, mà xuống dốc thì dễ hơn lên dốc”(10). Nên cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đồng nghĩa với đấu tranh chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên phải triệt để, đồng bộ nhiều biện pháp, nhưng cũng lâu dài phức tạp. Trong cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên, không phủ nhận vai trò của cá nhân trong lao động sáng tạo, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời phải chống lại cái lỗi thời, lạc hậu của chủ nghĩa cá nhân gây hại cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là nhằm kết hợp hài hoà giữa lợi ích chính đáng của cá nhân với lợi ích của tập thể; chăm lo đến lợi ích của cá nhân, chú trọng xây dựng tính tập thể, tính cộng đồng; tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên phát triển đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với thực tiễn, bảo đảm cho họ được thụ hưởng kết quả của công cuộc đổi mới.
Trong mỗi con người đều có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vì vậy, phương châm đấu tranh chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên của Hồ Chí Minh là: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”(11). Theo đó, để sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên không xảy ra, phải khống chế sự phát triển của mặt tiêu cực, phải làm cho mặt tích cực chiếm ưu thế. Phải làm cho mặt tích cực tăng dần lên, nhiều lên về số lượng và chất lượng và mặt tiêu cực mất dần đi; phải làm cho những mặt tích cực có đủ thế, lực và sức mạnh để có thể thắng lợi trong cuộc đấu tranh với mặt tiêu cực; phải tạo ra chất kháng thể bên trong mỗi con người để có thể tự ngăn chặn sự phát triển của các mặt tiêu cực... Tức là, phải nâng cao đạo đức cách mạng, vì đạo đức cách mạng là cái gốc của người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”(12). Người có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước; khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; có đạo đức cách mạnh thì họ sẽ lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Như vậy, phải “nâng cao đạo đức cách mạng” mới có thể “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên xảy ra không phải chỉ do nguyên nhân chủ quan từ phía mỗi cán bộ, đảng viên, mà còn do công tác quản lý, giáo dục đảng viên của các tổ chức đảng chưa hiệu quả kịp thời và có chất lượng. Nên phòng, chống các sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên theo Hồ Chí Minh: không những đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân mà “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(13). Mục đích là tạo ra môi trường chính trị thuần khiết, tạo địa bàn và điều kiện thuận lợi, từ đó tạo ra thế và lực có lợi, bảo đảm cho sự thắng lợi của mặt tích cực trong cuộc đấu tranh với mặt tiêu cực bên trong mỗi con người, mỗi tập thể. Vì vậy, trước hết là xây dựng Đảng cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Thực hiện phương châm “chống và xây”, “xây và chống”, “nói đi đôi với làm”. Trong công tác xây dựng Đảng, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản về tổ chức và sinh hoạt Đảng. Thực hiện dân chủ rộng rãi đi đôi với coi trọng kỷ cương, kỷ luật, đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, bản vị, “địa phương chủ nghĩa” trong công tác cán bộ.
Song song với đó, phải tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ chủ trương, đường lối, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nhưng vấn đề cốt lõi nhất là giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, theo Người phải: “giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(14). Có như thế mới tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch và đối tượng khác. Nhờ có sự đoàn kết thống nhất trong Đảng sẽ nâng cao khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên trước sự tác động chuyển hóa từ bên ngoài và bên trong. Trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái trong nội bộ, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi nguy cơ xuất hiện sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình cũng là cách để đấu tranh chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là cách tạo ra cơ chế bảo đảm cho sự thắng lợi của mặt tích cực với mặt tiêu cực. Người cho rằng, nếu biết cách tự phê bình và phê bình sẽ làm cho những khuyết điểm “lòi ra” và mất dần đi, người cán bộ đảng viên sẽ tẩy sạch khuyết điểm cũng như “tẩy giun sán trong người”, qua đó làm cho các mặt tiêu cực mất đi và mặt tích cực nhiều lên. Theo đó, tự phê bình và phê bình là việc phải làm thường xuyên và có hiệu quả như “rửa mặt hàng ngày” của mỗi cán bộ, đảng viên; biết khéo léo đưa các khuyết điểm ra trước tập thể, biết khuyến khích và bảo vệ mọi người phê bình những khuyết điểm đó; khéo léo nhưng phải kiên quyết trong phê bình mới làm cho mặt tiêu cực mất dần đi và mặt tích cực tăng dần lên.
2. Giải pháp chủ yếu phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay
Một là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh sẽ tạo môi trường chính trị thuần khiết, để tu dưỡng rèn luyện đảng viên, chống lại các tác động tiêu cực từ bên ngoài, ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện TDB, TCH trong nội bộ đảng và trong từng cán bộ đảng viên. Theo đó, Văn kiện Đại hội XII xác định: “Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị”(15), tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền trong Đảng, xây dựng văn hóa lãnh đạo, cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Bên cạnh đó cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; xây dựng và thực hiện văn hóa tự phê bình và phê bình trong tình hình mới.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ nội bộ. Làm tốt công tác này chính là xây dựng được thể chế để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề cập việc đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, góp phần thiết thực phòng, chống những biểu hiện TDB, TCH trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, quản lý, đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ chiến lược. Vì đây là đội ngũ cán bộ đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.  Họ có vai trò quan trọng đặc biệt. Bởi lẽ, người đứng đầu chịu trách nhiệm cao nhất trong lãnh đạo, quản lý đơn vị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho; là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cấp trên việc lãnh đạo, quản lý, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh, giáo dục và rèn luyện cán bộ, nhân viên thuộc quyền. Theo đó, cần “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(16). Đối với công tác bảo vệ nội bộ phải gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện cục bộ, bè phái,  “lợi ích nhóm”, xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên vi phạm các quy định của Đảng, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Ba là, đổi mới công tác tư tưởng, lý luận. Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Đấu tranh làm thất bại các âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch; đấu tranh vạch trần các hành vi tha hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên, định hướng tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Theo đó, Đảng ta xác định vai trò của công tác tư tưởng lý luận đối với việc phòng, chống TDB, TCH: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(17).
Bốn là, đẩy mạnh việc tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Việc tu dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến việc ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện TDB, TCH ngay chính trong bản thân họ. Thực hiện việc tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, Đại hội XII chú trọng đến việc: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng”(18). Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Biết tự đánh giá bản thân để lựa chọn con đường, biện pháp rèn luyện phù hợp; có thái độ nghiêm khắc trong tự phê bình, lắng nghe ý kiến nhận xét của quần chúng, cấp trên, cấp dưới và đồng cấp về bản thân mình. Tích cực chủ động phát huy ưu điểm, khắc phục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện bản thân... Đối với cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tổ chức các cấp cần xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên.
Năm là, quan tâm đến đời sống và lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên. Hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên là cán bộ, công chức nhà nước có điều kiện chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Do đó, đời sống được bảo đảm, quyền lợi vật chất chính đáng được bảo vệ, chính là điều kiện để mỗi người gắn bó với công việc; yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện “đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng”(19); công bằng giữa các khu vực, nhất là khu vực hành chính sự nghiệp, với khu vực doanh nghiệp nhà nước là nguyện vọng chính đáng của đảng viên, công chức, viên chức. Bảo đảm sự bình đẳng, công bằng giữa khu vực công và khu vực tư, thực hiện chính sách công bằng và tiến bộ đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
____________________
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.185.
(2), (15), (16), (17), (18), (19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.51, 199, 51, 200-201, 202, 213.
(3), (4), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 601-602, 602, 606, 611, 602.
(5), (6) Sđd, t.4, tr.20, 65.
(7), (11), (13), (14)  Sđd, t.15, tr.547, 672, 616, 622.

(12)  Sđd, t.14, tr.400.
TS Nguyễn Hồng Điệp
Trường Đại học Chính trị,
Bộ Quốc phòng

“GIÁO DỤC 4.0” VÀ NHỮNG YÊU CẦU, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY


“Giáo dục thông minh” hay “Giáo dục 4.0” đã và đang ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến giáo dục đại học nói chung, giáo dục lý luận chính trị (GDLLCT) nói riêng để đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động mới. Trên cơ sở tận dụng thế mạnh của công nghệ thông tin (CNTT), nhiều cơ sở giáo dục đại học trên thế giới đã và đang đổi mới toàn diện và theo đó “Giáo dục 4.0” - Mô hình phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Vì thế, việc nhận diện những biểu hiện và tác động của giáo dục 4.0 đối với GDLLCT để tiến hành đổi mới kịp thời, hiệu quả là vấn đề có tính tất yếu và cấp thiết hiện nay đối với các cơ sở đào tạo đại học ở nước ta hiện nay.
1. Giáo dục 4.0 - Khái niệm, đặc trưng và tác động của nó đến giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục 4.0 được hiểu là giáo dục thông minh (Smart Education). Chữ Smart không chỉ chứa đựng hàm ý “thông minh”, mà cụm từ viết tắt S-M-A-R-T còn được diễn giải nhiều nghĩa hơn: S (Self-directed là Tự định hướng); M (Motivated là Có động cơ); A (Adaptive là Có khả năng tương thích); R (Resource enriched là Có nguồn học liệu phong phú); T (Technology embedded là Có áp dụng công nghệ). Như vậy, giáo dục thông minh là nền giáo dục có sự hỗ trợ rất nhiều của công nghệ, cung cấp cho người học chương trình học tập “mọi lúc, mọi nơi”, phù hợp với nhiều đối tượng đào tạo khác nhau (khả năng thích nghi cao), cá nhân hóa nội dung đào tạo. Giáo dục thông minh có sự ứng dụng rộng rãi công nghệ trong mọi hoạt động đào tạo, NCKH, công tác quản lý, phương pháp dạy học hiện đại...
Mô hình giáo dục thông minh cần sự liên kết chặt chẽ giữa “3 nhà” đó là nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo để không ngừng làm gia tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động trong nền kinh tế tri thức. Theo đó, mô hình Giáo dục 4.0 cũng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên; tạo điều kiện cho sự hợp tác giữa giáo dục đại học với sản xuất; gắn kết cùng các nỗ lực phát triển kinh tế khu vực và địa phương... Nó giúp cho hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc, mọi nơi, giúp cho người học có thể cá nhân hóa và hoàn toàn chủ động quyết định nội dung, phương thức học tập theo nhu cầu của bản thân. Nó cũng giúp thay đổi tư duy cũng như cách tiếp cận đối với mô hình đại học theo hướng: nhà trường không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Không gian “nhà trường” không còn giới hạn trong các bức tường của giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà được mở rộng kết hợp với doanh nghiệp và thị trường lao động để trở thành “hệ sinh thái giáo dục”.
Độ phức tạp của đời sống xã hội hay của “thế giới bên ngoài” được phản ánh thông qua những chuẩn đầu ra (chuẩn hóa đầu ra) trong nội dung, chương trình đào tạo và chuẩn hóa đi đôi với đơn giản hóa quá trình đào tạo.
Sự “cá biệt hóa” cần thiết cho sinh viên trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện ở đại học được dựa trên năng lực tự tổ chức của cả cá nhân lẫn tập thể sinh viên (tổ, nhóm, lớp) thông qua việc xác định rõ mục đích học tập của riêng mình - điều kiện tiên quyết cho phát triển năng lực của mỗi sinh viên.
Trước thách thức là “tính liên môn” và “tính xuyên suốt các môn học” tăng lên làm cho hàng loạt môn học, ngành học ngày càng lỗi thời, nên trong quá trình học tập, mỗi sinh viên cần thấy được cấu trúc tổng quát của chương trình học tập để chủ động tích hợp kiến thức cần thiết cho riêng mình.
Trong quá trình học tập, nhất là tự học, cần phải trang bị công cụ để mỗi sinh viên có thể tự trắc nghiệm kiến thức của mình thông qua việc giải quyết những bài tập, câu hỏi trắc nghiệm hay những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Trước những thông tin cần thiết cho sinh viên đang có sẵn ở khắp nơi (sách, bài báo, tạp chí, website...) thì thách thức đặt ra là làm sao để khai thác và sử dụng một cách hiệu quả những kênh thông tin này bằng các công cụ, phương tiện hiện đại hiện có.
Khái niệm “Học” (learning) được coi là một loại hình hoạt động xã hội. Khái niệm “Học từ xa” hay “Học trực tuyến” (E-learning) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Học suốt đời” (Long live WE-learning ). Do vậy, phải mở rộng tối đa khuôn viên nhà trường để mọi sinh viên sử dụng không gian này làm chỗ gặp mặt, cọ sát, đọ sức, thảo luận, giao lưu và kết nối; phải tạo ra môi trường, bối cảnh xã hội thích hợp, dân chủ hơn để sinh viên tranh luận và giải quyết các vấn đề thực tế đang tồn tại, mâu thuẫn đặt ra trong cuộc sống.
Mô hình chuyển giao kiến thức theo cách độc thoại giữa giảng viên với sinh viên ngày càng không tạo ra giá trị gia tăng. Điều đó cho thấy cách giảng bài truyền thống kém hiệu quả hơn so với các hình thức dạy - học tích cực. Yếu tố “môi trường học tập” ngày càng trở nên quan trọng cho quá trình nhận thức của sinh viên, nên cần phải thiết kế và bố trí những không gian làm việc riêng cho sinh viên (tạo sự độc lập tương đối khi học tập, nghiên cứu), điều đó sẽ tạo thuận lợi cho những tư duy mới, tư duy đột phá, tư duy sáng tạo ra đời.
Với những đặc trưng cơ bản nêu trên, giáo dục thông minh đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động của các trường đại học, trong đó có giáo dục lý luận chính trị (GDLLCT). Nó làm cho GDLLCT bảo đảm tính toàn diện cả về kiến thức và kỹ năng để sinh viên tốt nghiệp có thể đáp ứng được ngay và lâu dài nhu cầu của thị trường lao động; làm cho hoạt động GDLLCT trong trường đại học luôn có sự đổi mới kịp thời về cả mục tiêu, nội dung, chương trình, mô hình, phương pháp giáo dục; làm cho mô hình hợp tác giữa đào tạo - nghiên cứu - kinh doanh ngày càng phát triển; làm cho hoạt động dạy - học ngày một tích cực hơn, chú trọng xây dựng ý thức tự học, ý thức học tập suốt đời và các kỹ năng mềm cho sinh viên; làm cho trình độ khoa học công nghệ và kỹ năng công nghệ thông tin của đội ngũ cán bộ, giảng viên được nâng lên tương xứng với hệ thống trang, thiết bị công nghệ hiện đại và đồng bộ được bảo đảm trong môi trường dạy - học thông minh.
2. Những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học hiện nay
Sự tác động của giáo dục 4.0 đến hoạt động GDLLCT trong các trường đại học hiện nay ở nước ta đang đặt ra những yêu cầu bức thiết cần phải giải quyết, đó là:
Thứ nhất, phải củng cố niềm tin, giữ vững ổn định chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới nảy sinh.
Trước sự tác động mạnh mẽ từ CMCN 4.0 đến mọi mặt của đời sống xã hội, rất nhiều vấn đề mới nảy sinh theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực, nhiều thành tựu KHCN mới xuất hiện, nhiều ngành nghề mới ra đời trong chương trình đào tạo của các trường đại học,... nên rất dễ làm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên (nhất là những người trình độ chuyên môn hạn chế, tư duy thủ cựu, sống an phận) và sinh viên đại học bị “choáng” trước sức mạnh của “công nghệ”, dẫn đến xu hướng hoặc là cường điệu hóa vai trò của máy móc, robot, công nghệ, chạy theo thuyết “kỹ trị” mà không hiểu được bản chất của kỹ thuật, công nghệ chỉ là công cụ để con người tồn tại và phát triển; hoặc do tư tưởng bảo thủ, trì trệ mà e dè, sợ sệt, không dám tìm hiểu, nghiên cứu những công nghệ mới nên dần đánh mất niềm tin vào khả năng của chính bản thân mình, không tin vào sức mạnh trí tuệ của con người; hoặc là bị hoang mang, dao động do bị nhiễu loạn thông tin trên không gian mạng thông qua các công cụ truyền thông, các mạng xã hội...; hoặc do tâm lý a dua, hội chứng đám đông, tư tưởng chạy theo phong trào mà không cần quan tâm tìm hiểu rõ bản chất của nó ra sao, nguyên lý hoạt động của nó như thế nào, để từ đó xử lý hay có sự lựa chọn của riêng mình cho phù hợp. Do vậy, hoạt động GDLLCT trong các trường đại học cần tập trung củng cố niềm tin, giữ vững sự ổn định về chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới nảy sinh cho cả chủ thể lẫn đối tượng giáo dục trong các trường đại học kịp thời.
Thứ hai, góp phần xây dựng con người mới với những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp.
Triết lý giáo dục của phương Tây đã khẳng định: Sự thiếu hụt (khiếm khuyết) về tài năng hoàn toàn có thể bù đắp bởi đạo đức, song sự thiếu hụt (khiếm khuyết) về đạo đức thì không thể bù đắp bởi tài năng. Còn đối với văn hóa phương Đông, trải qua bề dày mấy ngàn năm lịch sử, tư tưởng Nho giáo đã trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, ăn sâu, bám rễ vào đời sống nhân dân thì vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho con người rất được chú trọng, đề cao vì nó luôn được coi là nền tảng để hình thành nhân cách. Trong xã hội hiện đại đang tồn tại một nghịch lý là khi kinh tế phát triển, đời sống ngày một được nâng lên thì đạo đức của con người dường như lại lại càng ngày càng bị suy thoái, xuống cấp; niềm tin giữa con người với con người ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, GDLLCT với chức năng của mình cần phải tích cực góp phần xây dựng con người mới với những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp (đạo đức công dân, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp) cho cả cán bộ, giảng viên và sinh viên. Bởi vì, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, sự phát triển “nóng” của nền kinh tế thị trường khi “chủ nghĩa cá nhân” hay “dục vọng” của con người được “kích hoạt” thì họ có thể tìm mọi cách để lách luật, vượt luật với rất nhiều mánh khóe, thủ đoạn (nhất là khi được sự hậu thuẫn, hỗ trợ về mặt công nghệ hiện đại một cách rất tinh vi) để lừa lọc, biến của công thành của tư, lũng đoạn kinh tế, làm giàu bất chính... mà gần như luật pháp không thể can thiệp được, song đạo đức lại hoàn toàn có thể điều chỉnh được một cách hiệu quả dựa trên sự tự nhận thức, tự giác ngộ để từ đó đánh thức lương tâm, danh dự, trách nhiệm của mỗi người.
Thứ ba, trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực, đẩy mạnh hoạt động tự nghiên cứu, gắn chặt đào tạo với nghiên cứu một cách hiệu quả.
Trước tác động mạnh mẽ, đa chiều của giáo dục 4.0 đến hoạt động đào tạo của các trường đại học, ngoài việc củng cố thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho sinh viên thì cũng rất cần có sự cập nhật, đổi mới kịp thời về phương pháp GDLLCT đối với cả người dạy và người học để phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hoạt động NCKH bằng cách trang bị cho sinh viên phương pháp nghiên cứu và những công cụ cần thiết, tạo môi trường thuận lợi để họ có thể chủ động sáng tạo ra những tri thức mới, góp phần bổ sung, phát triển lý luận và nâng cao chất lượng, hiệu quả GDLLCT cũng như đào tạo.
Thứ tư, phải cập nhật thường xuyên, kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ nói chung, CNTT nói riêng cho cán bộ, giảng viên LLCT và sinh viên để họ có đủ công cụ, phương tiện dạy và học một cách thông minh hơn.
Cơ sở của Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự kết hợp giữa hai thế giới thật - ảo thông qua hệ thống phần mềm tương ứng của các thiết bị CNTT, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy những kiến thức và kỹ năng về CNTT, kỹ thuật số, ngôn ngữ giao tiếp với máy tính và ngoại ngữ có vai trò rất quan trọng đối với các cơ sở đào tạo đại học cũng như mỗi sinh viên - vì đây là những công cụ hiện đại hỗ trợ đắc lực cho hoạt động giáo dục, đào tạo nói chung, cũng như GDLLCT nói riêng trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Do vậy, nhiệm vụ rất quan trọng của các cơ sở đào tạo đại học hiện nay là phải đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên và kịp thời những kiến thức liên quan nêu trên cho đội ngũ cán bộ, giảng viên LLCT (những người vốn ít có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với khoa học công nghệ) và cho lực lượng sinh viên (tạo ra động lực, phát huy tính tích cực, chủ động của người học) để họ có đủ công cụ, phương tiện để có thể giảng dạy và học tập một cách thông minh trong môi trường Cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ năm, phải chỉ ra xu thế phát triển của thời đại cùng với đó là dự báo về sự chuyển dịch cơ cấu lao động để định hướng cho hoạt động đào tạo đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp mà xã hội cần và giúp cho sinh viên tốt nghiệp có khả năng thích nghi với sự biến động thường xuyên về việc làm trong tương lai.
Vấn đề “việc làm” và “thất nghiệp” là những vấn đề thường trực và mang tính thời sự trong Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là giai đoạn đầu khi lực lượng lao động chưa thích nghi và đáp ứng được ngay những điều kiện mới với yêu cầu khắt khe hơn của mỗi ngành nghề, cũng như sự dịch chuyển lớn về cơ cấu lao động giữa các ngành nghề. Thực tế đã cho thấy, cùng với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo thì rôbốt đã bắt đầu tham gia tích cực vào thị trường lao động để thực hiện các công việc phổ thông hay những công việc nguy hiểm thay cho con người. Với nguồn học liệu gần như vô tận khai thác từ cơ sở dữ liệu siêu việt thì rôbốt có thể đảm nhiệm công việc của một giảng viên khi giảng dạy một số môn học như văn hóa, địa lý, lịch sử... Và ở các lĩnh vực nghề nghiệp như tư vấn pháp luật, kế toán và tư vấn thuế cũng có thể bị thay thế hoàn toàn bởi các rôbốt thông minh trong tương lai không xa. Vì thế, GDLLCT trong các trường đại học với chức năng hướng nghiệp, phải chỉ ra cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên thấy được xu thế phát triển của thời đại cùng với đó là dự báo về sự chuyển dịch cơ cấu lao động để định hướng cho hoạt động đào tạo đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp mà xã hội cần, tăng khả năng thích nghi và khả năng sáng tạo ra những nghề mới. Phải giúp cho sinh viên luôn có một tâm thế mở, biết biến thách thức thành cơ hội, biến ý tưởng thành hiện thực, luôn chủ động đổi mới, sáng tạo trong công việc tương lai trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
3. Kiến nghị một số giải pháp đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học thời gian tới
Từ những yêu cầu đặt ra đối với GDLLCT trong các trường đại học dưới tác động của nền giáo dục 4.0, để có thể đổi mới hoạt động này trong thời gian tới, thiết nghĩ cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp mang tính đột phá sau:
Thứ nhất, về nội dung GDLLCT. Hiện nay chủ trương tách môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trả lại thành ba môn học như trước (Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, CNXH khoa học) là phù hợp với thực tiễn khách quan vì mặc dù đều chứa đựng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, song vốn dĩ nó là ba môn học thuộc ba bộ môn khoa học khác nhau nên có đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu riêng. Tuy nhiên, trên tinh thần đổi mới, đề nghị Hội đồng Lý luận Trung ương và các bộ, ban ngành cần nghiên cứu kỹ về tính phù hợp của từng nguyên lý trong điều kiện thực tiễn Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay xem quan điểm lý luận nào đã bị thực tiễn vượt qua để bổ sung, phát triển nhằm bảo đảm “sức sống” cho lý luận Mác - Lênin. Mặt khác, trong từng môn học cụ thể nên điều chỉnh nội dung theo hướng vừa bảo đảm giữ được những vấn đề có tính nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa bổ sung thêm những vấn đề lý luận mới đã được thực tiễn kiểm nghiệm và đúc kết qua hơn 30 năm đổi mới của Đảng nhưng không làm ảnh hưởng đến việc giảm tải về chương trình (rút ngắn thời gian học tập LLCT cũng như tổng thời gian đào tạo).
Thứ hai, về chương trình GDLLCT. Do tính khái quát hóa, trừu tượng hóa của triết học rất cao, nên hầu hết sinh viên đều thấy khó tiếp thu và hiểu được bản chất vấn đề khi học tập môn Triết học Mác - Lênin (vì nó được bố trí học ngay từ học kỳ đầu tiên trong chương trình đại học, cao đẳng đối với khối không chuyên về khoa học xã hội) trong khi sinh viên mới bước vào trường đại học chưa có sự trải nghiệm thực tiễn nhiều, chưa có phương pháp học tập khoa học. Do vậy, để bảo đảm tính lôgíc trong quy luật nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” của sinh viên, trong thiết kế nội dung, xây dựng chương trình GDLLCT nên bố trí cho sinh viên học những môn có tính thực tiễn cao, tính lý luận thấp trước, sau đó dần dần giảm tính thực tiễn và tăng tính lý luận ở những môn học sau sẽ hiệu quả hơn. Theo đó, thứ tự học các môn LLCT trong chương trình GDLLCT ở bậc đại học, cao đẳng nên sắp xếp lại theo trật tự từ: Pháp luật đại cương, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (hay Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam), Tư tưởng Hồ Chí Minh, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Triết học Mác - Lênin.
Thứ ba, về phương pháp GDLLCT. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu, song thực tế hiện nay đa số sinh viên các trường (nhất là sinh viên năm đầu) vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về phương pháp học tập, nghiên cứu ở bậc đại học, cao đẳng. Trong khi đó, trong chương trình đào tạo nói chung, chương trình GDLLCT nói riêng của các nhà trường thì nội dung này mới chỉ lồng ghép vào phần mở đầu của mỗi môn học, bài học chứ hầu như chưa bố trí đưa vào chương trình đào tạo chính. Do vậy, để bảo đảm trang bị cho sinh viên phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học phù hợp, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trong môi trường giáo dục 4.0 thì nên đưa môn học “Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học” vào chương trình GDLLCT và thực hiện ở ngay học kỳ đầu tiên của chương trình đào tạo đại học, cao đẳng.
Thứ tư, về hình thức thi đánh giá kết quả GDLLCT. Theo nguyên tắc thi thế nào sẽ học thế nấy, hơn nữa chất lượng và hiệu quả GDLLCT thường được thể hiện qua kết quả thi của từng học phần, tín chỉ. Nếu như trước đây việc tổ chức thi chủ yếu để đánh giá kiến thức mà học viên, sinh viên thu lượm được, thì ngày nay các kỹ năng cần thiết (nhất là các kỹ năng mềm và kỹ năng về CNTT) để sinh viên tốt nghiệp có thể hoàn thành nhiệm vụ theo chuyên môn được đào tạo chính là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng để tạo ra đột phá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động GDLLCT. Để đánh giá kiến thức và kỹ năng về LLCT của sinh viên một cách toàn diện, cần chuyển đổi hình thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm khách quan hoặc kết hợp trắc nghiệm với tự luận thông qua việc sử dụng các phần mềm ứng dụng CNTT, hệ thống máy tính kết nối mạng LAN hoặc internet, các phòng thi bằng máy vi tính... Nói cách khác là phải đặt hoạt động thi, đánh giá trong môi trường CNTT triệt để nhất để phục vụ việc thi, đánh giá kết quả GDLLCT một cách khách quan, chính xác, nhanh chóng, thuận tiện nhất.
Thứ năm, về bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ GDLLCT. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những yêu cầu rất cao đối với nguồn nhân lực, trong đó sinh viên các trường đại học, cao đẳng là lực lượng chủ yếu để bổ sung cho nguồn lực này. Trong khi đó, môi trường đại học thông minh chính là nơi học tập, nghiên cứu, thử nghiệm của nguồn nhân lực chất lượng cao, mà với môi trường đại học thông minh thì CNTT là yếu tố cốt lõi, cơ bản nhất. Do vậy, để có thể ứng dụng CNTT vào hoạt động GDLLCT một cách hiệu quả, bảo đảm sự tương tác, trao đổi thông tin giữa giảng viên - giảng viên, giữa giảng viên - sinh viên, giữa sinh viên - sinh viên được thường xuyên, đầy đủ, kịp thời và bảo đảm tổ chức triển khai hoạt động GDLLCT được thông suốt thì mỗi nhà trường nên kịp thời đầu tư, xây dựng hệ thống hạ tầng CNTT (internet, wifi, thiết bị phần cứng, camera, cảm biến...) cho phù hợp, hiện đại, đồng bộ để có thể kết nối vạn vật, dạy - học online, hội thảo trực tuyến... trước hết trong từng khoa, từng trường. Đồng thời, nên thường xuyên tổ chức đào tạo, hướng dẫn, tập huấn về kỹ năng quản lý, khai thác, sử dụng các trang thiết bị CNTT, nhất là công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, cũng như cập nhật những công nghệ mới cho cán bộ, giảng viên, sinh viên để họ không bị “tụt hậu” trong cuộc đua KHCN hiện nay.
Trong xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ cho hoạt động GDLLCT cần chú trọng phát triển hệ thống sách điện tử, kho dữ liệu số để đồng bộ với hệ thống CNTT nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu khai thác cơ sở dữ liệu, sách điện tử cho người học, ngoài những công cụ mạnh hiện đang sử dụng và phát huy tác dụng như internet, truyền hình, phát thanh, báo chí... cũng cần quan tâm xây dựng và phát huy tác dụng của các mạng xã hội như Facebook, Zalo, Twi74tter,... để vừa bảo đảm tính đa dạng trong công cụ tuyên truyền, vừa tranh thủ được sức mạnh lan tỏa của các mạng xã hội hiện đang rất thịnh hành, phát triển ở cả trong và ngoài nước.
Như vậy, nền giáo dục 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến môi trường đại học, nó đặt ra những yêu cầu mới cho GDLLCT trong các trường đại học (với chức năng định hướng tư tưởng - chính trị, hướng nghiệp, củng cố đạo đức cách mạng cho cán bộ, giảng viên, nhất là sinh viên...) nhằm góp phần xây dựng ý thức chính trị, trách nhiệm công dân, bản lĩnh dân chủ, kỹ năng cần thiết cho mỗi sinh viên, giúp họ hoàn thiện nhân cách để trở thành những chủ nhân của đất nước, những “công dân toàn cầu” trong tương lai không xa.
________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Tạ Việt Dũng, Trần Anh Tú: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học” đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống nhà trường Quân đội”, 2018.
2. Trần Thanh Điện - Nguyễn Thái Nghe: Các mô hình E-Learning hỗ trợ dạy và học”, Tạp chí Khoa học - Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề CNTT 2017.
3. Ngô Vũ Thu Hằng: “Giáo dục dựa vào bối cảnh: Một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 3-2016.
4. Đàm Quang Minh - Phạm Hiệp: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và nguy cơ “thua trắng” của đại học truyền thống”, Báo Tuổi trẻ điện tử, ngày 7-9-2016.
5. Học viện Kỹ thuật quân sự: Đại học thông minh, Chuyên san số ra tháng 8-2018.
6. Ngô Xuân Lịch: “Xây dựng nhà trường thông minh, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội trước tác động từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Báo Quân đội nhân dân, số 20700, ngày 19-11-2018.
7. TS Lê Đông Phương: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng đến giáo dục đại học Việt Nam” đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống nhà trường Quân đội”, 2018.
8. TS Phan Quang Trung - Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng: “Giáo dục đại học phải làm gì trước thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0?”, Báo điện tử giaoduc.net.vn số ra ngày 22-7-2017.
9. GS Phan Văn Trường - Cố vấn của Chính phủ Pháp về thương mại quốc tế: “Ngành giáo dục “đón đầu” cuộc Cách mạng 4.0 ra sao?”, Báo điện tử baoquocte.vn, ngày 14-4-2017.

10. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự: Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học, 2017.

ThS Vũ Tuấn
Học viện Kỹ thuật quân sự,
Bộ Quốc phòng


TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI NÂNG CAO MỨC SỐNG DÂN CƯ: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM



Để nâng cao mức sống dân cư (MSDC), ngoài điều kiện cần là tăng trưởng kinh tế (TTKT), thì việc điều tiết phân phối kết quả TTKT của chính phủ đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong thời gian qua, những thành tựu TTKT đã góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều thách thức đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải có những biện pháp cụ thể, thích hợp để bảo đảm vừa thúc đẩy TTKT, vừa nâng cao mức sống dân cư.
1. Vai trò của tăng trưởng kinh tế với nâng cao mức sống dân cư
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm tổng giá trị gia tăng (GDP) của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Khi GDP được tạo ra ở năm sau lớn hơn GDP được tạo ra ở năm trước (tính theo giá so sánh), thì đó là sự TTKT.
Mức sống dân cư (MSDC)là một phạm trù kinh tế - xã hội được xác định bằng mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội. Khi mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần cho dân cư tăng lên, tức là MSDC được nâng cao. Có 4 nhóm chỉ tiêu đánh giá MSDC, đó là:
(1) Các chỉ tiêu phản ánh đặc điểm và điều kiện lao động như: mức độ bảo đảm việc làm cho người lao động; độ dài thời gian làm việc bình quân trong ngày; thời gian nghỉ ngơi; cường độ lao động; tỷ trọng công việc được cơ giới hóa, tự động hóa; bảo hộ lao động và an toàn, vệ sinh lao động; sinh hoạt văn hóa, tinh thần nơi làm việc; phương tiện đi lại đến nơi làm việc của người lao động.
(2) Các chỉ tiêu phản ánh mức tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội như: thu nhập bình quân đầu người; mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm thiết yếu; điều kiện nhà ở (diện tích bình quân, loại nhà ở...); đồ dùng lâu bền.
(3) Các chỉ tiêu phản ánh điều kiện sinh hoạt văn hóa, tinh thần và bảo đảm sức khỏe như: sự phát triển của hệ thống giáo dục- đào tạo; trình độ học vấn phổ thông của dân cư; tình trạng chăm sóc sức khỏe nhân dân; sự phát triển của các công trình văn hóa; hệ thống giao thông công cộng; tình hình vệ sinh môi trường.
(4) Các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả tác động giữa các yếu tố như: tuổi thọ trung bình của dân số; chỉ số phát triển con người HDI; mức độ tham gia quản lý xã hội của dân cư.
Muốn nâng cao MSDC, trước hết phải có TTKT (hay gia tăng thu nhập của nền kinh tế), bởi thu nhập của dân cư phụ thuộc vào tổng thu nhập của nền kinh tế (hay kết quả của quá trình TTKT). Ngoài ra, để gia tăng MSDC, thì mức tăng tổng thu nhập của nền kinh tế phải lớn hơn mức tăng quy mô dân số. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang phát triển, tốc độ tăng trưởng dân số cao, thì tốc độ TTKT cần cao hơn tốc độ tăng trưởng dân số.
Tuy nhiên, trên thực tế, có những nước có mức thu nhập bình quân đầu người khá cao, nhưng tỷ lệ dân số đói nghèo, không được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục lại cao hơn so với các nước có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn. Thí dụ: năm 2007, Brazil có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 1,24 lần của Trung Quốc và 2,73 lần của Việt Nam, nhưng tỷ lệ nghèo của Brazil là 21,5%, cao hơn nhiều so với Trung Quốc (4,6%) và Việt Nam (khoảng 14%). Tỷ lệ người lớn biết chữ của Brazil là 88,6%, thấp hơn của Trung Quốc (90,9%) và Việt Nam (90,3%). Tuổi thọ bình quân của Brazil là 71,7 tuổi, trong khi của Trung Quốc là 72,5 tuổi và Việt Nam là 73,7 tuổi(1).
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định là TTKT chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ để nâng cao MSDC.
Để nâng cao MSDC, ngoài điều kiện cần là TTKT, phải có điều kiện đủ, đó là vai trò điều tiết phân phối kết quả TTKT của chính phủ. Cụ thể là việc chính phủ giải quyết các mối quan hệ sau:
- Quan hệ giữa tiêu dùng cuối cùng với tích lũy, tái đầu tư. Trong điều kiện TTKT có hạn, nếu chính phủ ưu tiên mạnh cho mục tiêu tích lũy, tái đầu tư với kỳ vọng tăng thêm tiềm lực kinh tế để đạt TTKT cao, dài hạn trong tương lai thì trước mắt MSDC sẽ không được nâng lên và ngược lại.
- Quan hệ giữa tiêu dùng cá nhân (nâng cao MSDC), với tiêu dùng chính phủ (cho an ninh, quốc phòng, ngoại giao...). Trong điều kiện TTKT có hạn, nếu chính phủ ưu tiên hơn cho mục tiêu an ninh, quốc phòng... thì phải giảm mục tiêu nâng cao MSDC và ngược lại.
- Chính sách phân phối thu nhập của chính phủ: Trong nền kinh tế thị trường có 2 hình thức phân phối thu nhập là: (i) Phân phối theo sự đóng góp của các yếu tố nguồn lực hay phân phối lần đầu, nghĩa là người lao động hưởng tiền lương, người có đất đai hưởng tiền thuê đất, người có vốn góp hưởng lợi nhuận và người có tiền gửi hưởng lãi suất cho vay. Hình thức phân phối này huy động và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế, các thành viên trong xã hội lại sở hữu số lượng và chất lượng các nguồn lực rất khác nhau. Do đó, nếu chỉ thực hiện hình thức phân phối này, thì có thể dẫn đến phân hóa giàu nghèo, làm cho tình trạng bất bình đẳng về thu nhập tăng lên, ảnh hưởng xấu đến nâng cao MSDC. (ii) Phân phối lại thu nhập. Hình thức phân phối này có thể thực hiện bằng 2 cách. Một là, phân phối lại trực tiếp, tức là nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân) để điều chỉnh thu nhập, san sẻ bớt từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp thông qua trợ cấp thường xuyên hay đột xuất. Hai là, phân phối lại gián tiếp, thực chất là chính sách ưu tiên trong việc tiếp cận các dịch vụ công cho người nghèo, vùng nghèo, những người yếu thế. Trong thực tế, việc thực hiện phân phối lại thu nhập nếu không đi cùng với nâng cao năng lực sản xuất cho người nghèo, vùng nghèo; nâng cao lòng tự tôn, tự lực, ý chí thoát nghèo... thì có thể làm tăng sự ỷ lại của người nghèo vào chính phủ, làm mất động lực thúc đẩy TTKT.
2. Tăng trưởng kinh tế với nâng cao mức sống dân cư ở Việt Nam
a. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện nâng cao mức sống dân cư ở Việt Nam
Trong 2 thập niên (1991-2010), Việt Nam đạt tốc độ TTKT bình quân tương đối cao, khoảng 7,3%/năm. Nhờ đó, quy mô GDP tăng khá nhanh, từ 7,94 tỷ USD năm 1991 lên 101,6 tỷ USD năm 2010 (gấp 12,8 lần năm 1991). GDP bình quân đầu người  theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam tăng từ 118 USD năm 1991, lên 1.168 USD năm 2010 (gấp 9,9 lần năm 1991). Thành tựu  này đã góp phần đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp từ năm 2008.
Giai đoạn 2011-2018, mặc dù có nhiều khó khăn, song nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao, khoảng 6,08%/năm. Quy mô GDP năm 2018 ước đạt 240,5 tỷ USD, gấp 2,17 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người tăng lên khoảng 2.540 USD (gấp 6,3 lần năm 2000)(2).
Trên nền tảng những thành tựu đạt được trong TTKT (điều kiện cần), Chính phủ Việt Nam đã giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa tiêu dùng cuối cùng với tích lũy, tái đầu tư; giữa tiêu dùng cá nhân (nâng cao MSDC) với tiêu dùng chính phủ (cho an ninh, quốc phòng, ngoại giao...) và áp dụng phù hợp các hình thức phân phối thu nhập, đồng thời kết hợp với các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và thực hiện an sinh xã hội... nên MSDC của Việt Nam được nâng lên rõ rệt, thể hiện trên các mặt sau:
Một là, thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng lên
Nếu như năm 1999, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ ở mức 295 nghìn đồng/người/tháng, thì đến năm 2018 đã tăng lên đạt 3.760 nghìn đồng/người/tháng (tăng gấp 12,74 lần). Tính đến năm 2016, Đông Nam Bộ là vùng có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng cao nhất cả nước (4.662 nghìn đồng), tiếp đến là vùng đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và thấp nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc (1.963 nghìn đồng).
Hai là, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh
Năm 1998, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 37,4%, năm 2010 giảm xuống còn 14,2% và giảm mạnh xuống 5,8% năm 2016(3). Tỷ lệ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2017 là 9,2% và năm 2018 ước khoảng 6,8%(4). Thành tựu giảm nghèo đạt được trên phạm vi cả nước, từ thành thị tới nông thôn và trên tất cả các vùng. Năm 1998, thành thị có 9% hộ nghèo, đến năm 2016 chỉ còn 2%, tương ứng ở khu vực nông thôn tỷ lệ này là 49,9% và 7,5%. Việt Nam nằm trong nhóm 18 quốc gia sớm đạt được Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, hướng tới mục tiêu giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015.
Ba là, mức tiêu dùng của cải vật chất của dân cư được nâng lên
Cùng với việc thu nhập bình quân đầu người tăng lên, chất lượng nhà ở và mức độ sở hữu các hàng hóa tiêu dùng lâu bền, khả năng tiếp cận điện và nước sạch của người dân cũng tăng lên đáng kể. Ngoài việc bảo đảm chi tiêu cho đời sống hàng ngày, nhiều hộ gia đình còn mua sắm và tích lũy tài sản, xây dựng nhà ở, chất lượng cuộc sống đã được nâng lên rõ rệt.
Bốn là, điều kiện y tế, giáo dục của dân cư tăng lên
Nhìn chung, điều kiện y tế và giáo dục của người dân ngày một tăng lên. Năm 1995, số bác sỹ trên 1 vạn dân là 4,3 bác sỹ, đến năm 2016 đã tăng lên 8,4 bác sỹ; tương tự, số giường bệnh trên 1 vạn dân tăng từ 17,8 giường lên 27,8 giường. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ khá cao, đạt 95,1% năm 2017, cao hơn so với các nước có thu nhập trung bình (90,0%).
Năm là, tỷ lệ lao động trong độ tuổi bị thất nghiệp giảm xuống
 Tỷ lệ này ở khu vực thành thị giảm từ 6,7% năm 2000 xuống 3,18% năm 2017; ở khu vực nông thôn giảm từ 2,3% năm 2010 xuống 1,78% năm 2017.
b. Một số hạn chế trong nâng cao mức sống dân cư ở Việt Nam
Bên cạnh những thành công trên, còn nhiều thách thức đặt ra cho Việt Nam trong việc nâng cao mức sống dân cư như:
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp và tăng chậm so với nhiều nước
Tính đến năm 2018, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 2.500 USD. Ngay cả khi đạt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người là 3.000 USD vào năm 2020 thì Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp, kém xa so với thành tựu phát triển của Hàn Quốc. Năm 1962, mức thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc là 87 USD, đến năm 1996 đã tăng lên 10.548 USD. Năm 1996, Hàn Quốc chính thức trở thành nước công nghiệp, là nền kinh tế lớn thứ 11 và trở thành thành viên thứ 29 của nhóm các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Thành công này có được là vì trong khoảng thời gian từ 1963-1996, Hàn Quốc đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao; trung bình 8,7%/năm. Trong khi đó, giai đoạn 1991-2018, Việt Nam chỉ đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm khoảng 6,5%.
Bất bình đẳng thu nhập dẫn tới bất bình đẳng trong tiếp cận nhà ở, điều kiện vệ sinh và các dịch vụ y tế, giáo dục có xu hướng tăng lên
Hệ số Gini của Việt Nam đã tăng nhẹ từ 0,42 năm 2002 lên 0,431 năm 2016 và chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số giàu nhất với nhóm 20% dân số nghèo nhất tăng từ 6,99 lần vào năm 1995 lên 9,2 lần năm 2010 và 9,8 lần năm 2016. Sự gia tăng chênh lệch về thu nhập dẫn tới sự gia tăng khoảng cách chênh lệch về mặt xã hội như chênh lệch về tỷ lệ nhập học bậc trung và đại học; chênh lệch về khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng cao. Thực tế cho thấy các hộ giàu thường chi tiêu nhiều hơn cho việc đi học của con cái, đặc biệt là việc học thêm. Với việc đầu tư như vậy, con cái các hộ khá giả thường có thành tích học tập tốt hơn con hộ nghèo. Nhóm các hộ nghèo thường bị bệnh tật nhiều hơn, nhưng họ lại sử dụng các dịch vụ y tế ít hơn các hộ giàu.
Tốc độ tăng HDI có xu hướng giảm xuống
Giai đoạn 2000-2005, tốc độ tăng HDI đạt 1,39%/năm, sang giai đoạn 2006-2010 giảm xuống còn 1,17%/năm và giai đoạn 2011-2015 chỉ đạt khoảng 0,49%/năm.
Số năm đi học bình quân của Việt Nam tăng chậm hơn so với nhiều nước trong khu vực
Năm 1960, số năm đi học bình quân của người Việt Nam cao hơn của Trung Quốc, Malaysia (Việt Nam 3 năm, Trung Quốc 2,3 năm, Malaysia 2,8 năm), nhưng đến năm 2010, hai quốc gia này đã vượt khá xa so với nước ta (Việt Nam 6,4 năm, Trung Quốc 8,2 năm, Malaysia 10,1 năm). Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ tiêu này của Việt Nam đứng sau nhiều nước trong khu vực ASEAN.
3. Một số khuyến nghị
Những phân tích trên cho thấy, để vừa thúc đẩy TTKT vừa bảo đảm nâng cao MSDC, Chính phủ cần:
(1) Duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trên cơ sở đó thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình TTKT, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
(2) Thực hiện phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Cần có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối mức đầu tư cho các vùng miền, cũng như các ngành hoạt động khác nhau. Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết nhằm tạo ra những “đầu tàu” tăng trưởng để kéo “đoàn tàu” kinh tế Việt Nam đi lên. Bên cạnh đó, cần đầu tư hợp lý cả về kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng, miền khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng.
(3) Gia tăng cơ hội cho nhóm dân số có thu nhập thấp tham gia và hưởng lợi nhiều hơn từ tiến trình CNH, HĐH đất nước. Mở rộng khả năng tích lũy tài sản cho người dân để nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững.
(4) Kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua điều tiết hợp lý thu nhập trong các tầng lớp dân cư với việc xây dựng và kiện toàn hệ thống an sinh xã hội nhiều tầng nấc. Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, các đối tượng của chính sách xã hội là rất đa dạng, do đó cần xây dựng, củng cố và ngày càng kiện toàn hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc.
_____________________
(1) Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP): Báo cáo phát triển con người 2007/2008, tr.236, 244.
(2) Báo cáo “Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
(3) Tổng cục thống kê.

(4) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:  Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2017, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, và Tổng cục thống kê, Tổng quan tình hình kinh tế -xã hội năm 2018, http://www.gso.gov.vn.

PGS,TS Nguyễn Thị Thơm
Viện Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...