Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2019

CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN KHÔNG THỂ LỖI THỜI



Thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng, trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời. Bởi vậy, chúng ta không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh trên nền tảng của học thuyết lỗi thời đó. Câu hỏi đặt ra là, chủ nghĩa Mác-Lênin có thật là đã lỗi thời không khi xem xét dưới mọi bình diện, từ ý nghĩa khoa học, mục tiêu xã hội đến ý nghĩa thực tiễn? Nếu nó là lỗi thời thì nguyên nhân và cơ sở nào quy định, ngược lại nếu không lỗi thời thì tại sao và do đâu?
Những người cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời thường dựa chủ yếu vào 4 lý do sau đây: Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Thứ hai, CNXH hiện thực được xây dựng theo học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin ở Liên Xô, các nước Đông Âu đã bị sụp đổ. Hiện thực sụp đổ có nghĩa là lý thuyết sai lầm. Thứ ba, điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường XHCN, chứng tỏ CNTB là ưu việt. Và thứ tư, một loạt sai lầm, khuyết điểm mà các nước đi theo con đường XHCN, trong đó có nước ta đã và đang mắc phải, chứng tỏ lý luận về CNXH là sai lầm và lỗi thời.Trong bài viết này, chúng tôi xin trao đổi về các lý do đó.
Về lý do thứ nhất, đúng là học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời từ giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện những mâu thuẫn của CNTB đã trở nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của nó cùng với sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán toàn bộ những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là kinh tế - chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức và CNXH không tưởng Pháp. Những học thuyết về giá trị lao động của Ađam Xmít và Đavít Ricácđô, phương pháp biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơbách, những tư tưởng tiến bộ về xã hội của các nhà tư tưởng Pháp như Sanh Simông, Phuriê cũng đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng vào quá trình hình thành học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen. Cũng cần phải nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Đây chính là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến tới CNCS qua một giai đoạn quá độ là CNXH.
V.I.Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi CNTB đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I.Lênin có nhiều đóng góp vào phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen. Đặc biệt, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt; xây dựng học thuyết về một chính đảng mác xít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng XHCN thắng lợi và vận dụng học thuyết của Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga và Liên bang Xô viết.
Đến giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam, đánh thắng những đế quốc to, những kẻ thù hung bạo để giành độc lập tự do cho dân tộc, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Điều hiển nhiên và không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa họcvề những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng XHCN và con đường xây dựng, phát triển đi tới CNCS. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những tác giả của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán CNTB, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời. Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu hết các nhà nghiên cứu xã hội thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào. Từ sự phê phán CNTB đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và từ cả thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới ách áp bức, bóc lột của CNTB, C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế CNTB.
Cần nói rằng, những gì CNTB hiện đại đang thể hiện vẫn không đi ra ngoài tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, một mặt tăng thêm tiềm lực cho CNTB. Mặt khác, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của lực lượng sản xuất, dẫn đến những thay đổi chóng mặt về quy mô, tính chất của quan hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối của cải xã hội. Quá trình toàn cầu hóa xuất phát trước tiên từ nền kinh tế TBCN, nói cho cùng cũng như cái “áo” trong khung khổ từng quốc gia đã quá chật hẹp, buộc phải nới ra trên phạm vi toàn thế giới. Sự áp bức bóc lột của CNTB theo đó cũng mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Sự bóc lột ấy, về bản chất, chẳng khác gì hành vi xâm lược thuộc địa của các đế quốc - TBCN trước đây, chỉ có điều nó được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.
Càng giàu mạnh, các thế lực tư bản càng hung hăng, tìm mọi cách để chiếm đoạt các nguồn tài nguyên, của cải của thế giới, quy phục các quốc gia nghèo khó, yếu thế nhằm phục vụ cho lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh Irắc đã đẩy một quốc gia hòa bình vào cuộc chiến đẫm máu, huynh đệ tương tàn suốt hơn một thập niên, đến nay vẫn chưa thấy lối ra. Lý do để phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền, độc lập cách xa nước Mỹ hàng vạn cây số là tàng trữ “vũ khí giết người hàng loạt”, nhưng từ sau chiến dịch Bão táp sa mạcđến giờ người ta đã đào bới, xới lộn cả nước Irắc mà không tìm thấy cái gì là “vũ khí giết người hàng loạt”. Nhưng thực tế thì chính nước Mỹ đang tàng trữ lượng vũ khí hạt nhân đủ phá hủy nhiều lần cuộc sống của nhân loại trên toàn cầu. Đất nước Libia hòa bình cũng trở thành hỗn loạn sau khi Mỹ và các đồng minh phương Tây can thiệp lật đổ chính quyền dân cử Mohamet Cadaphi. Cho dù Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh đã xin lỗi nhưng điều ấy có nghĩa gì khi đất nước Irắc và Libia đã tan hoang, hàng vạn người dân lành đã chết, hàng triệu người dân đang sống trong những điều kiện tồi tệ nhất(1). Ngay với nước Mỹ, hàng chục nghìn thanh niên đã bỏ xác ở Irắc, ở Trung Đông một cách vô nghĩa. Chắc chắn trong số những thanh niên Mỹ đã chết vô ích ấy không và không thể có con cái các nhà tư bản, các ông chủ ngân hàng. Vậy, lý do cuộc chiến Irắc là gì nếu không phải là dầu mỏ và lợi ích của những ông chủ, các nhà tư bản Mỹ? Một loạt cuộc cách mạng màu do bàn tay Mỹ và các nước phương Tây phát động ở Libia, Siry, Ai Cập... đều có chung một hình thái bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên trong và hậu quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở Irắc.
Mặt khác, nếu nhìn nhận từ góc độ nhân vănthì CNXH là ước vọng ngàn đời của tất cả những người dân lao động, của những con người có lương tâm cùng tình thương nhân loại, muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển CNXH từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng CNTB. Như vậy, CNXH là phù hợp và hợp lý cả về phương pháp luận khoa học và tính mục đích nhân văn.
Với tính chất là một học thuyết khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội XHCN tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã trả lời hàng loạt vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: thế nào là giai cấp công nhân và đảng cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân với đảng cộng sản; hiểu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; mối quan hệ ra sao giữa giai cấp công nhân, dân tộc và quốc tế; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng XHCN,... Chính Ph.Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh CNXH từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, “...chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”.
Trong rất nhiều tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa CNXH, CNCS. Trong Lời đề tựa cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: “...chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”(2). Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn luôn được V.I.Lênin quán triệt vận dụng trong nhiều nhận thức thực tiễn giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính sách Kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I.Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về CNXH mà lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑= chủ nghĩa xã hội”(3). Nhận định của V.I.Lênin từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với chúng ta hiện nay, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa.
Vậy thì tại sao có thể nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Xin thưa rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ cho CNTB và quyền lợi của một nhóm người tư bản hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của CNTB. Nếu có lỗi thời chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng CNXH mà thôi. Tuyệt nhiên không thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin!
Về lý do thứ hai, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu phải chăng như một bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng CNXH? Phải chăng có một lôgic thực tế là CNXH hiện thực sụp đổ do lý thuyết về CNXH sai lầm?
Trước hết, cần phải nói rằng mô hình CNXH hiện thực trên thực tế đã mang lại sự thay đổi rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thể phủ nhận ở Liên xô, Đông Âu và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh to lớn mà trước đó không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng cả những lực lượng to lớn của liên minh các thế lực tư bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng như đội quân phát xít tàn bạo của trục ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng thực tế sinh động tốt đẹp trên các đất nước xây dựng CNXH, nó đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn trái đất. Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã giành được độc lập tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các nước XHCN do Liên Xô dẫn đầu. Chính CNXH và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động lực thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế quốc phải, một mặt thừa nhận quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ thống thuộc địa rộng lớn của CNTB thực dân, đế quốc. Một mặt, tạo thành sức ép, buộc các thế lực tư bản có những cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động ở chính quốc. CNXH đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà lý luận tư sản phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận đắng cay của Henry Kitsingiơ, Brêginxki thời kỳ những năm 60, 70 thế kỷ XX vẫn còn nguyên đó trong các cuốn sách, bài báo của họ.
Tất nhiên, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã là một bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân loại tiến bộ. Đó là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận thức và đổi mới các chính sách cũng như những giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn như những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm do những người cộng sản ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây mắc phải do không nhận thức đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính biện chứng và quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN, đã do cố chấp và thiên kiến mà bỏ qua bài học phương pháp luận quý báu của V.I.Lênin, không “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài” để xây dựng, phát triển chế độ XHCN.
Mặt khác, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH cụ thể không hơn, không kém. Tuyệt nhiên đó không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu ngay cận kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng CNXH theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở chính châu Âu, nhất là Bắc Âu đã và đang lấy CNXH làm mục đích và cảm hứng để xây dựng, phát triển đất nước mình. Không phải không có lý do, khi họ tự gọi mình là mô hình CNXH phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng hiện hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát triển.
Từ tất cả thực tế ấy, không thể nói rằng mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước khác sụp đổ trong những năm cuối thế kỷ trước có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về CNXH là sai lầm và lỗi thời! Ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng CNTB đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính CNTB đang đứng trước những thánh thức đầy nguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản chất của CNTB đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh chỉ là một dấu hiệu đầu tiên và tất yếu của sự khục khặc từ chính trong lòng của nó khi CNTB ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước XHCN. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực TBCN. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện ngay trung tâm của châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn của chế độ TBCN. Vụ khủng bố ở thành phố Nice giữa đêm Quốc khánh nước Pháp làm hơn 80 người chết và vụ khủng bố bằng phương thức như thế được lặp lại ở Berlin, thủ đô nước Đức ngày 18-12-2016  làm 12 người chết, gần năm chục người bị thương, không chỉ báo hiệu mối nguy lớn về an ninh của châu Âu. Nó còn là hệ quả tất yếu cho chính sách sai lầm, vụ lợi của CNTB trong cách hành xử với các nước nghèo, các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông.
Về lý do thứ ba, sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi theo con đường XHCN hiện nay, phải chăng đã minh chứng cho tính ưu việt của CNTB? Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước TBCN phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và phía trước của sự phát triển ấy là gì.
Trước hết, cần phải nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà có. CNTB đã có nhiều trăm năm phát triển. Trên con đường phát triển của CNTB, bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại cần lao, thống khổ trên khắp các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”(4), đó là lời tự thú có tính chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học giả người Anh. Chỉ cần giở lại các trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha... sẽ thấy ngay những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của mình. Những kẻ thực dân từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên hàng nghìn năm của các bộ tộc người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm, súng và cả sự tra tấn dã man, rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da đầu. Trong cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria(Late Victorian Holocausts), học giả người Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Braxin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán và dịch bệnh vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở chính các nước tư bản giàu có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp. Hàng chục triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có cách chờ tử thần khi mắc bệnh. Ở bang Caliphoócnia, quá nửa nam giới người da đen có ít nhất một lần trong đời phải đi tù...
Làm sao, là người Việt Nam mà ai đó có thể quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta trong đêm trường nô lệ hơn 80 năm dưới ách đô hộ của CNTB thực dân Pháp? Bao nhiêu người dân Việt Nam đã chết trong các xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, các bến tàu. Những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Yên Bái, Xô viết Nghệ - Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. Thực dân Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận xương tủy, vơ vét hết vàng, than, sắt, đồng... mang về làm giàu cho chính quốc. Gần 20 năm, đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp thiết lập ách thống trị, dày xéo đất nước ta. Những nhà tù địa ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú Quốc..., những vụ tàn sát ở Thái Bình (Bình Định) năm 1966, Bình Hòa (Quảng Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968..., vụ B52 ném bom rải thảm khu phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), phải chăng đó không phải là tội ác thấu trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng, không phải nhìn đâu xa, chính những trang lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ để cho các thế hệ chúng ta và con cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ nghĩa tư bản! Vậy mà lạ lùng thay, vẫn có người bước ra khỏi biên giới đã hết lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa Tây Âu. Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết rằng, những thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng bằng sức lao động và của cải của bao thế hệ người lao động và cả của cải bóc lột từ các thuộc địa mang về.
Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc rất khó, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn và các điều kiện không thể thiếu khác. Theo như C.Mác, CNXH chỉ có thể thành công ở một loạt nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Nó như là tất yếu thay đổi quan hệ sản xuất xã hội khi lực lượng sản xuất dưới chế độ TBCN đã phát triển, xã hội hóa cao độ, không thể tiếp tục tồn tại trong khuôn khổ quan hệ sản xuất TBCN. Đối với Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là các nước tư bản có trình độ phát triển thấp hoặc trung bình. Thời gian xây dựng chế độ XHCN hầu như còn rất ngắn. Liên bang Xô Viết (Liên Xô) được thành lập và bắt tay xây dựng CNXH năm 1921, khi vừa ra khỏi cuộc nội chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình xây dựng, Liên Xô đã phải trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự tàn phá vô cùng nặng về sức người và sức của. Hơn 20 triệu người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ biên giới với Ban Lan cho đến phía Tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945, Liên Xô chỉ có hơn 30 năm xây dựng trong hòa bình, đồng thời phải đối mặt với cuộc chạy đua vũ trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các nước XHCN ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm xây dựng. Nhưng những thành tựu mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả Mỹ và các nước tư bản Tây Âu. Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện nhanh chóng về nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế giới về khoa học công nghệ vũ trụ. Vào thời hoàng kim, CHDC Đức là quốc gia bảo đảm điều kiện sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể không nhắc tới, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã trở thành đối thủ chính trị không đội chung trời của CNTB ở các nước phương Tây. Người dân các nước phương Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước XHCN như tấm gương, niềm hy vọng cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập, đòi dân chủ, dân sinh. Các thế lực TBCN nhìn vào đó như mục tiêu phá hoại phải loại bỏ bằng được. Cho đến hôm nay, khi Chiến tranh lạnhđã lùi xa hơn 25 năm, nhưng hầu như cách ứng xử trước đây vẫn còn nguyên trong những trừng phạt kinh tế mà các nước tư bản phương Tây nhằm vào nước Nga.
Đối với Việt Nam, chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước thống nhất theo con đường XHCN sau cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Ngay sau đó, chúng ta lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất nước chỉ ra khỏi cuộc chiến từ năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước từ con số không khi tất cả những gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn thế nữa, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề. Hàng vạn thương, bệnh binh, người già, trẻ em không nơi nương tựa. Đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc dù chưa phải đã được như mong đợi. Đương nhiên là không thể so sánh với các nước tư bản đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy sinh của lớp lớp người lao động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính quy luật của nó, không thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt cháy giai đoạn.
Như vậy, rõ ràng là sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển để so sánh, đánh giá tính ưu việt của chế độ TBCN so với chế độ XHCN. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất của sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết được những thành công và đóng góp to lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.Về lý do thứ tư, phải chăng sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin?
Trước hết, chúng ta không hề giấu giếm những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi... Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm...”(5). Đảng cũng nghiêm khắc thừa nhận rõ rằng, tình trạng trên có những nguyên nhân khách quan nhưng “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là những hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v..
Việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước là khó tránh khỏi. Xây dựng CNXH là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không phải từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe XHCN như trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống phá. Trong điều kiện ấy, những thành tựu mà công cuộc đổi mớiđạt được là đặc biệt quan trọng. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5% năm trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ 80USD đã tăng lên mức trên 2.100USD. Đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước cơ bản. Những điều đó là không thể phủ nhận và mặc nhiên đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.
Để có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu, rồi chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một Nhà nước xây dựng theo mô hình nền chuyên chính vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước khối XHCN là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên Hợp quốc, trong đó có 2 đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực.
Từ thực tế ấy, không thể có lý gì để nói rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp hay định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về CNXH và xây dựng CNXH, cũng như không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Tóm lại, sự sai lầm của những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở, lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây, hoặc là có sự hiểu nhầm về tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là biết nhưng vẫn cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin với định kiến và mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH bằng một lý thuyết khác, bằng một mô hình xã hội khác. Mục đích ấy đơn thuần để phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nào đó, hoàn toàn không phải vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, không phải vì lợi ích chung của dân tộc.
Việc nghiên cứu, chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc đối với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần là để bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó còn là sự cảnh báo, là lý do để những người cộng sản cảnh giác với nhận thức của mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc đề ra đường lối, hoạch định chính sách xây dựng, phát triển đất nước.


__________________

(1) Ngày 10-4-2016, khi trả lời phỏng vấn Hãng tin Fox New, Tống thống Mỹ Ôbama đã thừa nhận rằng, sai lầm tồi tệ nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông là đã không chuẩn bị một kế hoạch lâu dài cho Libia sau khi lật đổ Tổng thống Mohamet Cadaphi, để gây nên tình trạng hỗn loạn ở nước này. Năm 2015, cựu Thủ tướng Anh Tony Ble cũng đã thừa nhận sai lầm và xin lỗi về việc đưa quân đội Anh tham gia cuộc chiến ở Irắc.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.128.

(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.684.

(4) Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng?, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.40.

(5) ĐCSCN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.60-61.

CHỦ ĐỘNG NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI HIỂM HỌA TỪ MẶT TRÁI CỦA MẠNG XÃ HỘI



Ngày nay, với khả năng giúp con người tạo dựng những mối quan hệ vượt ra ngoài giới hạn không gian và thời gian để giao lưu, chia sẻ, mạng xã hội đã trở thành một thứ “quyền lực” trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ vai trò, mục đích của người sử dụng, mạng xã hội phát huy được một số tính năng ưu việt và cũng sớm bộc lộ một số hạn chế cốt tử, có thể đẩy tới hiểm họa, tác động tiêu cực tới sự phát triển xã hội, con người.
Thống kê từ các khảo sát cho biết, hiện tổng lượng truy cập internet (in-tơ-nét) trên toàn cầu tập trung vào khoảng 150 công ty, chủ yếu là của Mỹ, như Facebook, Google, Yahoo, Twitter. Còn tại các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển, mạng xã hội lại trở thành thách thức đối với quản lý hành chính và kỹ thuật. Thực tế cho thấy, khi mạng xã hội được sử dụng vì lợi ích chung của xã hội sẽ đem lại nhiều hiệu ứng tích cực, giúp kết nối mọi người; cũng là một kênh ma-két-tinh, kinh doanh hiệu quả, giúp nắm bắt thông tin, và là một kênh giải trí hữu ích. Đáng chú ý, với sự ưu việt của các thiết bị thông tin cá nhân (như điện thoại thông minh - smartphone), mạng xã hội có khả năng tiếp cận từng cá thể ở mọi lúc, mọi nơi, có thể tạo nên “bản sao” của đời sống thực trên “không gian ảo”.
Trên phương diện nhất định, mạng xã hội đã làm hình thành một lớp công dân mạng làm truyền thông qua việc tự đăng tải thông tin, chia sẻ, bình luận, giúp nâng cao nhận thức, kỹ năng, phát triển trí tuệ… Song, từ các nguyên nhân khác nhau mà bên cạnh mặt tích cực, mạng xã hội cũng sớm bộc lộ nhiều bất cập, tác động tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt của đời sống. Chỉ riêng về chính trị - xã hội, mạng xã hội đã làm phức tạp, gây tai họa cho nhiều quốc gia. Chẳng hạn, các biến động chính trị xã hội ở Bắc Phi, Trung Đông đều có sự tham gia, hoặc chủ động, hoặc bị động của các tổ chức, cá nhân sử dụng mạng xã hội làm công cụ để truyền bá thông tin, liên lạc và tổ chức hoạt động. Những người tham gia cuộc bạo động đường phố vào tháng 8-2011 ở Anh, cuộc xuống đường “chiếm phố Wall” ở Mỹ, biểu tình ở Hồng Công (Trung Quốc) gần đây, và hoạt động tương tự tại nhiều nước khác đều sử dụng Facebook, Twitter như “vũ khí” lợi hại để quảng bá cái gọi là “giá trị dân chủ”, thúc đẩy “cách mạng mầu”, tổ chức lật đổ hoặc thay đổi thể chế ở một số nước.

Với Việt Nam, gần đây, mạng xã hội như đã trở thành môi trường để một số người truyền bá luận điệu sai trái, đưa ra thông tin xấu độc, gây hại, công bố phát ngôn gây thù hận; đồng thời bị một số người lợi dụng để thể hiện hành vi phản văn hóa, vi phạm thuần phong mỹ tục, sử dụng ngôn từ tục tĩu để thóa mạ, chửi bới người không có cùng quan điểm. Một số trường hợp, khi đến với công chúng, mạng xã hội còn làm cho thông tin chính thống bị nhiễu loạn, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an ninh xã hội. Có thể nói, mạng xã hội đang giống như “mê hồn trận”, làm cho con người khó phân biệt đâu là tin thật, đâu là tin giả... Và nổi lên trong đó là việc một mặt các thế lực thù địch lợi dụng mạng xã hội để hô hào tụ tập đông người phản đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cố gắng kích động dư luận, biến bức xúc thành bạo động, khiến sinh hoạt xã hội trở nên phức tạp; mặt khác, họ triệt để lợi dụng mạng xã hội để hình thành cái gọi là “truyền thông độc lập”, tách khỏi sự quản lý của Nhà nước; thực hiện các thủ đoạn tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động tâm lý hoài nghi với chính quyền, thổi bùng bức xúc trong nhân dân để tạo điều kiện, môi trường thực hiện “cách mạng mầu”; đồng thời cổ xúy cho các luận điệu dân chủ, nhân quyền, đòi tự do biểu tình, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do tôn giáo theo quan điểm phương Tây để phục vụ cho “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do đó, chủ động ngăn chặn hiểm họa từ mặt trái của mạng xã hội đã trở thành yêu cầu cấp thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, hiệu quả... Cụ thể như:
Một là, tuyên truyền, giáo dục nâng cao trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật cho mỗi người khi sử dụng mạng xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định, vì sự lệch lạc trong nhận thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ dẫn đến ngộ nhận, sai lầm trong hành vi và làm cho an ninh, trật tự có thể chứa đựng mối nguy hiểm tiềm tàng. Do đó, cần chủ động, tích cực tuyên truyền, giáo dục, giúp mọi người nhận thức được tác động tiêu cực từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, không vô tình tiếp tay cho hoạt động chống phá, và các hành vi tiêu cực, phản cảm, thiếu văn hóa trên mạng xã hội.
Quá trình tuyên truyền, giáo dục nâng cao trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật khi sử dụng mạng xã hội cần gắn chặt với tuyên truyền, thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư T.Ư Đảng (khóa X) về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; và một nội dung quan trọng được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là: “Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên”; đồng thời tăng cường giám sát và phát hiện thông tin sai phạm; đổi mới phương thức tuyên truyền của hệ thống truyền thông; cung cấp cập nhật, thường xuyên các văn bản pháp luật cùng quan điểm chính thức của Đảng và Nhà nước trên các phương tiện truyền thông đại chúng giúp định hướng người sử dụng mạng xã hội trước các vấn đề nhạy cảm; xây dựng ý thức công dân và phong cách văn hóa khi tham gia mạng xã hội.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp để quản lý internet trên cơ sở hành lang pháp lý là Luật An ninh mạng và các luật, bộ luật liên quan. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của internet, nhất là mạng xã hội, luôn có thể xuất hiện một (những) vấn đề mới, dễ làm cho một số quy định pháp luật trở nên lạc hậu, bất cập hoặc không còn phù hợp, vì vậy cần thường xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá, nếu cần thiết phải kịp thời điều chỉnh, bổ sung, để hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách,... giúp quản lý hiệu quả, vừa phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt xã hội và cộng đồng, vừa theo kịp sự phát triển của mạng xã hội với các vấn đề mới của nó. Sự tiến bộ, hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật ở nước ta cần phải tạo ra khung pháp lý thể hiện qua các biện pháp quản lý đồng bộ đối với trang điện tử, mạng xã hội; thắt chặt việc tạo tài khoản cá nhân; có điều luật xử lý người lợi dụng internet để hoạt động chống chính quyền, lừa đảo kinh tế, tiến công các tổ chức, cá nhân... Đáng chú ý, bên cạnh việc biểu dương, ủng hộ người tốt, đưa thông tin tốt, cũng cần phải phê phán, răn đe người không tốt, xử lý người đưa tin xấu, độc...
Ba là, hoạch định các giải pháp kỹ thuật bảo đảm chủ động, kịp thời, hiệu quả trong quản lý truyền thông mạng xã hội. Giải pháp về công nghệ đưa tới các biện pháp kỹ thuật phù hợp, theo kịp sự phát triển của internet, khuyến khích phát triển mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước, khuyến khích các cơ quan, tổ chức xây dựng mạng xã hội nội bộ. Giải pháp về công cụ giúp quản lý, thu thập, phòng ngừa và cảnh báo; định lượng truy cập mạng xã hội làm căn cứ để đánh giá, xây dựng và thực hiện các chính sách quản lý nhà nước. Giải pháp về công cụ lọc giúp phát hiện tin giả, tin sai sự thật… từ đó chủ động ngăn chặn sự lan truyền, cảnh báo tin giả ngay từ khi xuất hiện trên mạng xã hội. Giải pháp về cơ chế phối hợp giữa các đơn vị quản lý và doanh nghiệp giúp vào việc ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu độc trên internet, trực tiếp là mạng xã hội. Do đặc điểm “không có biên giới rõ ràng” của môi trường mạng xã hội cho nên cần có phối hợp giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước và các định chế quốc tế, các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội lớn từ nước ngoài như Facebook, Google, Twitter để kịp thời ngăn chặn, xử lý, loại trừ những nguy cơ, hiểm họa có thể xảy ra.
Bốn là, xây dựng và nâng cao khả năng đấu tranh của lực lượng nòng cốt chuyên sâu, bởi căn cốt của vấn đề là vai trò của con người, và đây là lực lượng quan trọng đặc biệt, là yếu tố quyết định hiệu quả phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên internet. Vì thế, mỗi công dân, nhất là cán bộ, đảng viên, cần thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực toàn diện; có kiến thức chuyên môn cao khi khai thác, sử dụng internet; có năng lực tư duy phản biện với khả năng diễn đạt, luận chiến tốt; nhiệt huyết và dũng khí, quyết tâm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, cần đa dạng hóa hình thức và phương pháp đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các website, blog, diễn đàn, đăng tải những bài viết sâu sắc về lý luận - thực tiễn; chủ động cung cấp thông tin, phối hợp các cơ quan báo chí để viết bài đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên internet, trực tiếp là mạng xã hội… Qua đó, vừa vô hiệu hóa các trang mạng “độc hại”, vừa góp phần hướng dẫn dư luận xã hội.
Việt Nam được xem là quốc gia có tốc độ phát triển rất nhanh về internet và tính đến nay đã có hơn 60 triệu người sử dụng Facebook, chưa kể các mạng xã hội khác, đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ người dân sử dụng internet và là một trong 10 nước có người dùng Facebook, YouTube cao nhất thế giới. Vì vậy, việc chủ động đẩy lùi hiểm họa từ mặt tiêu cực của mạng xã hội cần huy động sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, với sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức, trước hết là cấp ủy và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, kết hợp phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng. Và khi tham gia mạng xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên,... cần xác định trách nhiệm giữ vai trò nòng cốt, tự giác trong đăng tải, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực, trực diện đấu tranh với thông tin xấu độc, tạo thành phong trào rộng khắp cùng hướng tới một văn hóa internet, trong đó có mạng xã hội, ngày càng tích cực, lành mạnh.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...