Thứ Tư, 30 tháng 8, 2023

Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 Sau hơn 35 năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng khẳng định rõ năng lực và bản lĩnh của một Đảng cầm quyền; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín như ngày nay. Bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Tình trạng tham nhũng, tiêu cực vẫn đáng lo ngại, “vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” (1). Trong tình hình hiện nay cần phải đẩy mạnh nghiên cứu, quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giúp chúng ta có định hướng tư tưởng đúng đắn, có cơ sở, căn cứ khoa học để xác định chủ trương giải pháp đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí quan liêu được phản ánh trong nhiều bài nói, bài viết, cùng với hoạt động thực tiễn phong phú của Người trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, đặc biệt là trong 24 năm đứng đầu Đảng, Nhà nước Việt Nam, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một chính phủ liêm khiết, trong sạch. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc. Người không chỉ làm rõ nguồn gốc, bản chất, mối quan hệ giữa tham ô, lãng phí với quan liêu mà còn xác định rõ yêu cầu, chủ trương, giải pháp phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ, kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta” (2). Phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là một cuộc đấu tranh cách mạng. Đó là “một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là tệ tham ô, lãng phí, quan liêu”(3). Chính vì vậy, phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân ta, phải được tiến hành thường xuyên, kiên quyết, triệt để; kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, chăm lo xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, xây dựng đội ngũ đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”, đồng thời chủ động đấu tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân.

Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại Chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ảnh tư liệu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu đã được quán triệt, vận dụng trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mỗi thành tựu đạt được trong đấu tranh, khắc phục tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đều gắn liền với tư duy nhận thức, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành trong nghiên cứu, quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Trong tình hình hiện nay cần đẩy mạnh nghiên cứu, quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, tạo sức mạnh mới để đấu tranh, ngăn ngừa, khắc phục một cách toàn diện, đồng bộ, hiệu quả tình trạng tham nhũng, tiêu cực.

Một là, tập trung quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, tạo sự chuyển biến, thống nhất cao trong nhận thức của các tổ chức, các lực lượng về đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Cần đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các tổ chức, các lực lượng về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập, quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Tiến hành đồng thời việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng, của hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên. Tạo sự chuyển biến, thống nhất của các tổ chức, các lực lượng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh; phòng, chống tham nhũng gắn liền với phòng, chống tiêu cực với nội dung chính là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, phát huy tốt vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chủ động đấu tranh, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện Đảng cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, đồng thời Đảng phải chủ động, kiên quyết đấu tranh khắc phục những căn bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; có tư tưởng trong sạch, lập trường vững vàng, chế độ sinh hoạt phải nghiêm túc, kỷ luật Đảng phải nghiêm minh, công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ, tự phê bình và phê bình chân tình, thẳng thắn, nghiêm túc, chú trọng sửa đổi lề lối làm việc, tác phong quan liêu.

Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực theo tư tưởng Hồ Chí Minh
 Gần gũi quần chúng luôn là tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ba là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ đức, đủ tài trong đó đức là gốc; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, dựa vào sức mạnh của nhân dân để phòng, chống có hiệu quả tình trạng tham nhũng, tiêu cực.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đội ngũ cán bộ phải có đủ đức, đủ tài mới hoàn thành được trọng trách mà Đảng và nhân dân giao cho. Đạo đức cách mạng đối với người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh ví như “mạch nguồn của dòng sông”, như “gốc, rễ” của cây cối; có đạo đức cách mạng được xem như có “nguồn sức mạnh” để gánh được nặng và đi được xa. Trong tình hình hiện nay, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “coi trọng cả đức lẫn tài", trong đó đức là gốc, phải được quán triệt, vận dụng đúng đắn trong việc xác định tiêu chuẩn cán bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm phát triển phẩm chất, năng lực toàn diện theo yêu cầu chức trách, nhiệm vụ của cán bộ trong tình hình mới.

Trong khi khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trên thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Trong tình hình hiện nay, cần quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, sớm bổ sung nội dung, phương thức đánh giá cán bộ trong mối quan hệ mật thiết với nhân dân, phân biệt rõ những cán bộ tiêu biểu, mẫu mực, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, để làm trong sạch nội bộ Đảng và bộ máy Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả với tình trạng tham nhũng, tiêu cực, Đảng phải có chủ trương, giải pháp toàn diện, chặt chẽ để khơi dậy truyền thống trọng đạo lý của dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành dư luận mạnh mẽ và rộng khắp để phát hiện, đấu tranh khắc phục, đẩy lùi tình trạng tham nhũng tiêu cực, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.

Nguồn: Báo QĐND

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh

 Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, vẫn còn một số người có nhận thức chưa đúng, thậm chí những kẻ cơ hội, bất mãn chính trị đã phê phán, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần nhận diện, bác bỏ những luận điệu sai trái này.

Thứ nhất, cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng.

Một số người bị dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Sinh thời, tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”(1). Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tổ chức UNESCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”(2). Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này.

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
 Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang, tháng 3-1961. Ảnh tư liệu

Thứ hai, cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng.

Một số người có nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Hai quan điểm này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người.

Về quan điểm thứ nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Về quan điểm thứ hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin từng có giá trị nhưng đã bị lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt qua thì Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Từ đó họ cho rằng, nên đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin thì bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn như vốn có.

Bên cạnh đó, một số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” như trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.

Từ đó, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng, khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(3).

Vậy mà, khi Đảng kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết là Đảng ta “đấu đá nội bộ”, “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực”. Họ làm ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu” để đánh giá, phán xét Đảng.

Danh nghĩa là họ đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Thứ ba, phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Một số người đã có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”, “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại.

Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi”(4).

Những người này đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo” một cách máy móc để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai”. Do đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.

Nguồn: Báo QĐND

Phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, chống quan điểm sai trái để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới

 Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ thống tư tưởng mang ý nghĩa và giá trị thời đại, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Vấn đề này luôn là cốt yếu nhằm thống nhất những nhận thức chưa đúng, đồng thời phản bác sự xuyên tạc nhằm hạ thấp, phủ nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dù vậy, vẫn còn những nhận thức chưa đúng, hiểu chưa thấu đáo, nhất là việc các thế lực thù địch lợi dụng tự do, dân chủ, lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí, một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đã vào hùa với sự xuyên tạc này.

Họ tìm mọi cách, dùng mọi lý lẽ khi nói và viết: Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép, máy móc Chủ nghĩa Mác-Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, cần từ bỏ nó để kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi-con đường tư bản chủ nghĩa...

Phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, chống quan điểm sai trái để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới

Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Họ xuyên tạc rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng của Người không được coi là một hệ thống. Dựa vào những luận điểm của Người có tính bổ sung, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và bao hàm sự kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nền cộng hòa Pháp và Mỹ, họ quy kết rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản.

Họ đưa ra một góc nhìn phiến diện rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, không mang bản chất mác-xít, thậm chí đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ quan điểm chống phá sai trái ấy, họ đã sử dụng nhiều thủ đoạn để cố tình khiến dư luận có cái nhìn sai bản chất.

Những ý kiến trên là nhận thức rất sai trái và là sự xuyên tạc vô căn cứ. Cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, là sự kết hợp nhuần nhuyễn Chủ nghĩa Mác-Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Chính Chủ nghĩa Mác-Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam. Giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ “trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc...” như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.

Phát triển lý luận gắn với tổng kết thực tiễn

Trong cuộc đấu tranh quyết liệt bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phát triển và làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam; bảo vệ uy tín của Đảng cũng như các quan điểm, đường lối của Đảng trong tiến trình cách mạng. Bởi thế, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới hiện nay.

Đến nay, công tác nghiên cứu và việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại. Tuy vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào học trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề chưa đạt hiệu quả cao, chưa tạo được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo học sinh, sinh viên và chưa có chương trình thích hợp trong các bậc học phổ thông.

Riêng trong hệ thống giáo dục phổ thông và cao đẳng, đại học, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chưa gây được ấn tượng sâu sắc cho học sinh, sinh viên. Chương trình giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số trường học, bậc học còn có sự lồng ghép với các môn học khác... Hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở các bậc học sau chương trình giáo dục phổ thông tuy có giáo trình song chưa có sự thống nhất giữa các cơ sở đào tạo...

Do tính chất học tập, giáo dục và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh ở các bậc học có ý nghĩa quan trọng, bởi thế cần xác định đúng vị trí, vai trò các nội dung học tập về tư tưởng Hồ Chí Minh, không được cắt xén chương trình học tập. Giáo trình học tập phải giúp học sinh, sinh viên có thể tự nghiên cứu được, phải đầy đủ và sâu sắc về kiến thức, nội dung, giải đáp được những điều còn chưa rõ, chưa hiểu và học hỏi lẫn nhau.

Để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, chúng ta cần rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là các chuyên gia đầu ngành trong hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Bản thân những nhà nghiên cứu mác-xít, những người làm công tác lý luận cũng phải nghiên cứu nghiêm túc và kỹ lưỡng lý luận mác-xít, những tác phẩm nguyên bản của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin... từ đó phát hiện những vấn đề mới, cách tiếp cận mới để giải quyết bài toán thực tiễn của xã hội hiện đại đang đặt ra; tránh lối nghiên cứu “tầm chương trích cú”, kinh viện, áp dụng lý luận vào thực tiễn một cách máy móc, thiếu sáng tạo, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng bị xơ cứng, xa rời thực tiễn.

Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn không chỉ tập trung trực diện vào các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà cần chú ý tới những vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh và xây dựng xã hội mới.

Trong mục tiêu xuyên tạc, phủ định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực phản động, cơ hội không chỉ trực diện hướng tới phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng mà họ còn thông qua hình thức, biện pháp gián tiếp để thực hiện ý đồ của mình. Họ tập trung phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi xấu lãnh đạo, phủ định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước...

Bên cạnh đó, họ “ca tụng” các giá trị dân chủ, nhân quyền, văn hóa theo lối sống phương Tây... Tất cả những chiêu bài đó nhằm cố minh chứng việc chúng ta lựa chọn sai con đường, sai mô hình do xuất phát từ học thuyết và tư tưởng lỗi thời, ảo tưởng. Thực chất mục tiêu của họ suy cho cùng là phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng, kêu gọi theo con đường mới, từ bỏ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bởi vậy, song song với việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận như trên thì cũng rất cần việc thường xuyên đánh giá, tổng kết thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn, đồng thời có phương cách bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Thực tế hiện nay cũng cho thấy, những nhận thức sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng tinh vi. Họ liên kết, tán phát thông tin sai trái hòng phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.

Họ thông qua các phương thức như: Gửi đơn thư góp ý, khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử và các cơ quan ngôn luận; thông qua các tổ chức dưới dạng tài liệu, sách truyền tay, thông tin truyền miệng; thông qua hội nghị, hội thảo, tổ chức các sự kiện chuyên đề; lập các trang web của nhiều tổ chức, cá nhân để đăng thông tin; thông qua mạng xã hội tán phát các thông tin và liên kết tạo thành đợt tấn công theo chuyên đề, theo các sự kiện.

Từ thực tiễn đó, để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi chúng ta cũng phải vận dụng các phương thức thông tin phù hợp, sáng tạo để phản bác lại những quan điểm xuyên tạc, sai trái, đồng thời chủ động, kịp thời định hướng thông tin, đưa thông tin chính thống đến dư luận, người dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm môi trường ổn định cho phát triển.

Nguồn: báo QĐND

Sự phi lý của luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”

Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ xác đáng, hữu hiệu để bác bỏ luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”.

Sự phi lý của một luận điệu

Độc lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chính vì thế, độc lập, tự chủ là vấn đề mang tính nguyên tắc, nhất quán trong hệ thống các quan điểm của Đảng ta, có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Trong điều kiện của thế giới hiện nay, Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là phương châm chỉ đạo và tổ chức thực hiện; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những mối quan hệ quan trọng đặc biệt cần giải quyết trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, với bản chất thâm độc, các thế lực thù địch cho rằng, chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam là hão huyền, phi thực tế. Chúng cho rằng "không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế được"; "đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ". Đồng thời, chúng còn cho rằng thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế, với một đảng duy nhất cầm quyền càng không thể hội nhập quốc tế.

Toàn cầu hóa là tất yếu khách quan kéo theo quá trình cả thế giới theo dòng thời cuộc hội nhập quốc tế. Đó cũng là quá trình nước nào cũng phải tìm mọi cách thức để tự bảo vệ mình. Vậy nên hội nhập quốc tế là xu thế khách quan thì việc mỗi nước phải giữ được tố chất của mình cũng là một nhu cầu và nhiệm vụ tất yếu. Nhưng nếu xem xét một cách sâu xa hơn thì có thể thấy ngay được luận điệu “Không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam” thực chất là sự hằn học của thế lực thù địch. Chúng ta có đủ luận cứ về lý luận và chứng cứ về thực tiễn để bác bỏ hoàn toàn luận điệu phi lý này.

Sự phi lý của luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”
 Ảnh minh họa: tapchicongsan

Hiệu quả hội nhập quốc tế hiện diện trên mọi mặt đời sống xã hội

Sau hơn 30 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã xác nhận nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải xử lý đúng đắn, hiệu quả, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.

Trong Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu của hội nhập quốc tế là: “Củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo toàn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Quan điểm và chủ trương của Đảng nêu bật việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, tiền đề để giữ độc lập, tự chủ trên mọi mặt đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Quán triệt và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong công tác đối ngoại, những năm qua, chúng ta đã thu được những thành quả khả quan.

Trong lĩnh vực chính trị. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: Chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất cả trong kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.

Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á-Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất những sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trên cộng đồng quốc tế.

Trong lĩnh vực kinh tế. Chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương.

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ USD. Đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký hơn 400 tỷ USD, năm 2022 đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương.

Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế đất nước phát triển, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội. Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn.

Từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hóa ngay tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hóa-xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng, an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh, quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào những hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh, quân sự toàn cầu.

Tiếp tục kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Tình hình thế giới ngày càng có những biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường, trong khi hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh dẫn tới những thách thức to lớn trong quá trình bảo vệ độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Trước những vấn đề mới đặt ra, Đảng ta đã xác định rõ những nguyên tắc, phương châm, mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng lớn cho quá trình hội nhập quốc tế.

Để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết cần xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị-đối ngoại, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế.

Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc và của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cần chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi dụng các kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao.

Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào những mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa.

Cùng với đó, cần nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Đổi mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước lớn. Nghiên cứu đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả.

Giải pháp có ý nghĩa căn cơ là tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênintư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng.

Có thể khẳng định rằng, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nhằm góp phần hiện thực hóa phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ thể hóa nội dung của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới và khu vực. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ, bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về vấn đề này.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...