Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

CÓ CÁN BỘ TỐT, VIỆC GÌ CŨNG XONG

 


I. Loại bỏ “sâu mọt” ra khỏi hàng ngũ cán bộ

II. Cán bộ tốt và một số yêu cầu đặt ra hiện nay

Thực tiễn cho thấy, mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, yêu cầu cụ thể về phẩm chất, năng lực đối với đội ngũ cán bộ có sự khác nhau, nhưng dù giai đoạn nào, cấp, ngành nào, lĩnh vực, địa phương nào,... thì cán bộ và công tác cán bộ cũng giữ vai trò quyết định. Hơn 90 năm qua, do Đảng ta luôn quan tâm, đặt đúng vị trí và lãnh đạo làm tốt công tác cán bộ, nên ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều xuất hiện những cán bộ, đảng viên tiêu biểu, tỏ rõ bản lĩnh chính trị, anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích vẻ vang, rạng danh non sông, đất nước. Trước diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực hiện nay, nhiệm vụ cách mạng nước ta đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải xử lý, giải quyết phù hợp, hiệu quả để giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển bền vững. Tình hình đó, đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực và đòi hỏi mỗi cán bộ phải thường xuyên học tập, tu dưỡng, rèn luyện: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”1, v.v. Theo đó, cùng với việc tự giác phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, công tác cán bộ ở mỗi cấp, ngành, lĩnh vực và mỗi địa phương cần tiếp tục rà soát, bổ sung hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình,... cụ thể hóa, công khai chi tiết các tiêu chí về phẩm chất, trình độ, năng lực phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương mình để mỗi cán bộ dù đã, đang, hoặc sẽ được bổ nhiệm giữ cương vị, trọng trách, chức danh nào đều thực sự: “sáng về tâm”, “xứng về tầm”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Để đáp ứng yêu cầu đó, trong phạm vi bài viết, tác giả xin đề xuất một số vấn đề sau.

1. Về phẩm chất

Tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc, triệt để tiêu chuẩn chung của cán bộ được quy định trong các nghị quyết của Đảng và tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII do Hội nghị Trung ương 12 (khóa XII) đã thống nhất thông qua. Mỗi cán bộ, dù ở cương vị nào, cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương nào cũng đều phải: có tinh thần yêu nước sâu sắc, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức, lối sống trong sáng, gương mẫu, tận tuỵ với công việc, nói đi đôi với làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động; dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, đất nước và dân tộc; gắn bó mật thiết với nhân dân, biết lắng nghe, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, được tập thể và nhân dân tín nhiệm; không tham vọng quyền lực, cơ hội, vụ lợi, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, phản bác các quan điểm thù địch, sai trái, v.v. Trên cơ sở chức năng, tính chất, yêu cầu nhiệm vụ được giao, mỗi cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương cụ thể hóa, bổ sung hoàn thiện các tiêu chí về phẩm chất cán bộ sát, đúng, phù hợp với thực tiễn để mỗi cán bộ luôn đủ tâm, xứng tầm: “khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn”2. Việc quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm các chức danh cán bộ thường gắn với quy hoạch, xây dựng đội ngũ cấp ủy đảng các cấp; vì thế, công tác nhân sự cán bộ cần thực hiện đúng hướng dẫn của Đảng, tiến hành chặt chẽ, kiên quyết không để lọt những cán bộ: bản lĩnh chính trị không vững vàng; cơ hội, tham vọng quyền lực, xu nịnh, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh. Chuyên quyền, độc đoán, thiếu công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình. Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm. Không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín thấp. Kê khai tài sản không trung thực, giàu nhanh mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính. Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.

2. Về trình độ

Cùng với sự vận động, phát triển nhanh về mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và những đột phá của Cách mạng Công nghiệp 4.0, đòi hỏi người cán bộ phải tích cực học tập, nâng cao trình độ mọi mặt để thích nghi, tránh lạc hậu, phù hợp với xu hướng xây dựng xã hội học tập và “học suốt đời” của nhân loại ở thế kỷ XXI. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng đã và đang thôi thúc người dân Việt Nam cũng như cán bộ phải nỗ lực học tập nâng cao trình độ để phát triển toàn diện. Tự học là cách tốt nhất để tự hoàn thiện và làm giàu tâm hồn, trí tuệ, góp phần xây dựng đất nước hùng cường, xã hội văn minh, hạnh phúc. Theo đó, cùng với những yêu cầu chung nhất về: trình độ lý luận chính trị, trình độ đào tạo (bậc học), ngoại ngữ, tin học,... mỗi cán bộ cần tự chọn và theo đuổi một hay nhiều vùng kiến thức, kỹ năng phù hợp khả năng nhận thức, sở trường của mình, vì: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết gắn lên trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức của nhân loại”3. Thực sự tiêu biểu về trình độ trí tuệ, có kiến thức toàn diện, giỏi về chuyên môn, chuyên ngành đào tạo, biết vận dụng lý luận khoa học vào thực tiễn, có tư duy đổi mới, sáng tạo, tầm nhìn bao quát tương xứng chức trách đảm nhiệm. Cương vị càng cao đòi hỏi trình độ lý luận, nhận thức, tư duy trí tuệ phải tương xứng; trình độ vận dụng lý luận khoa học vào phân tích, dự báo tình hình phải nhuần nhuyễn, chính xác, sát xu hướng vận động phát triển của thực tiễn; đề xuất các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ có tính khả thi cao, hiệu quả. Ở mỗi cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương tiếp tục chuẩn hóa về trình độ đối với mỗi chức danh cán bộ, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo, chủ trì, chủ chốt và kiểm soát thật chặt chẽ tiêu chí này trong quá trình tiến hành công tác cán bộ. Chỉ nên bổ nhiệm cán bộ khi họ hội tụ đầy đủ tiêu chí đã được chuẩn hóa đối với mỗi chức danh; kiên quyết không “cho nợ” trình độ và loại ra khỏi hàng ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị những trường hợp “chạy” bằng cấp, người không đủ tiêu chí trình độ theo quy định đối với chức danh đảm nhiệm.

3. Về năng lực

Đây là yêu cầu quyết định chất lượng công tác của cán bộ trong mọi tiến trình cách mạng. Tuy không có quy chuẩn để “lượng hóa” năng lực cán bộ, nhưng từ những yêu cầu chung nhất trong các nghị quyết, văn bản của Đảng, Luật Cán bộ, công chức, năng lực của mỗi cán bộ, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo, chủ trì, chủ chốt ở mỗi cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương được biểu hiện trên những khía cạnh chủ yếu, như: việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phù hợp, sát yêu cầu, nhiệm vụ cấp mình và kết quả tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện. Qua thực tiễn chứng tỏ là người có năng lực, sáng tạo, làm việc hiệu quả, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có năng lực quy tụ, đoàn kết, tạo sự đồng thuận cao, phát huy được sức mạnh tổng hợp của đội ngũ cán bộ, quần chúng trong lĩnh vực công tác, địa bàn được phân công; lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Thực sự tiêu biểu, mẫu mực về năng lực công tác được thực tiễn kiểm nghiệm, có năng lực tư duy, tầm nhìn chiến lược tương xứng với chức danh đảm nhiệm; thường xuyên phân tích, dự báo, tổng hợp, đề xuất những vấn đề mới, đúng, phù hợp thực tiễn, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả cao. Đồng thời, tiêu biểu về ý thức tổ chức kỷ luật, tính chiến đấu cao; gắn bó mật thiết với nhân dân, có uy tín trước tập thể; biết phát hiện, sử dụng hiệu quả người có đức có tài và thực sự là “công bộc” của nhân dân, v.v. Ngoài ra, còn có năng lực tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên; dám nhận và hoàn thành những nhiệm vụ khó khăn, đột suất; ứng xử văn hóa, văn minh, linh hoạt, kịp thời giải quyết và xử lý hiệu quả mọi tình huống xảy ra.

Như vậy, cán bộ tốt là công dân Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và được pháp luật thừa nhận; có phẩm chất, năng lực và uy tín hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; tích cực đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được thực tiễn kiểm nghiệm. Yếu tố quyết định nhân cách cán bộ tốt là: phẩm chất (đức), năng lực (tài) và phải được thực tiễn kiểm nghiệm; sự thống nhất biện chứng giữa “đức” và “tài” trong mỗi cán bộ tạo nên uy tín của họ. Vì thế, để đánh giá đúng cán bộ cũng như việc tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ phải chú trọng cả đức và tài; không được tách rời, tuyệt đối hóa hay xem nhẹ yếu tố nào: “Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”4. Đây là những yêu cầu chung nhất đối với cán bộ tốt. Căn cứ vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn, mỗi cơ quan, tổ chức ở mỗi cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương cần cụ thể hóa và ban hành những tiêu chí cụ thể, phù hợp, toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, uy tín, hiệu quả công tác,... để: “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công,… Không có cán bộ tốt thì hỏng việc”5.

____________

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. XXVII.

2 - Sđd, Tập 5, tr. 315.

3 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 41, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 362.

4 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 345-346.

5 - Sđd, Tập 6, tr. 356.

http://tapchiqptd.vn/vi/bao-ve-to-quoc/co-can-bo-tot-viec-gi-cung-xong/15987.html

NƠI NÀO GIAN KHỔ NHẤT THÌ BỘ ĐỘI PHẢI CÓ MẶT

 


Sáng 12-9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương, đã chủ trì cuộc làm việc của tập thể Bộ Chính trị với Thường vụ Quân ủy Trung ương, cho ý kiến về dự thảo văn kiện và công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội Đại biểu quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025.

Sau khi nghe Thường vụ Quân ủy Trung ương báo cáo về dự thảo văn kiện và công tác chuẩn bị nhân sự, Bộ Chính trị đánh giá cao công tác chuẩn bị Đại hội XI Đảng bộ Quân đội đã được tiến hành khoa học, công phu, nghiêm túc, trách nhiệm, đúng quy trình, quy định, bám sát Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị và các văn bản hướng dẫn của trung ương. Các dự thảo văn kiện được xây dựng trên cơ sở khảo sát thực tiễn, hội thảo nhiều lần, xin ý kiến các nhà khoa học, các chuyên gia, các cơ quan - ban - ngành liên quan, các Đảng ủy trực thuộc Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội.

Báo cáo Chính trị phản ánh khá toàn diện những thành tựu, kết quả nổi bật của Đảng bộ Quân ủy trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Đại hội X Đảng bộ Quân đội; làm rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; phân tích, đánh giá, dự báo tình hình, trên cơ sở đó đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và xây dựng Đảng bộ Quân đội 5 năm tới (2020-2025), tầm nhìn đến năm 2030 và từ năm 2030, sát thực tế.

Phát biểu kết luận buổi làm việc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh cần tiếp tục xây dựng lực lượng, xây dựng Đảng bộ Quân đội thực sự trong sạch vững mạnh, mẫu mực nêu gương; không để xảy ra tiêu cực, một số hiện tượng đáng tiếc như thời gian vừa qua; nơi nào khó khăn gian khổ nhất thì bộ đội phải có mặt. Quân đội cần gương mẫu đi đầu, tiếp tục đấu tranh phản bác mạnh hơn nữa trên mặt trận tư tưởng chính trị; giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ, đấu tranh chống tiêu cực ngay trong nội bộ, ngăn chặn và xử lý nghiêm các vụ việc, hiện tượng tiêu cực…

https://baomoi.com/

XÂY DỰNG ĐẢNG MÁC ​- LÊNIN VỮNG MẠNH: BÀI HỌC TỪ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC.

 


 Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - một Đảng Mác - Lênin kiên cường cường, giàu kinh nghiệm, đầy trí tuệ, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, trung thành với những lợi ích sống

Từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta có thể nhận thấy những bài học lịch sử vô cùng quý giá trong công tác xây dựng Đảng Mác - Lênin. Đó là quá trình xây dựng Đảng thống nhất giữa các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặt đúng vị trí của mỗi mặt ấy, đồng thời kết hợp chặt chẽ các mặt ấy với nhau, “tạo nên sức mạnh vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc”[1].  XÂY DỰNG ĐẢNG MÁC - LÊ NIN VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đứng trước những nhu cầu lịch sử mới mà trong kho tàng lý luận Mác - Lênin, cũng như trong kho tàng kinh nghiệm cách mạng Việt Nam đều chưa có sẵn. Những kinh nghiệm trong phong trào khởi nghĩa và kháng chiến chống thực dân Pháp, chưa thể đủ đáp ứng yêu cầu đánh bại một cuộc chiến tranh có quy mô lớn, hiện đại và mức độ tàn bạo gấp hàng chục lần so với chiến tranh chống thực dân cũ Pháp mà chủ nghĩa đế quốc kiểu mới Mỹ muốn áp đặt vào miền Nam Việt Nam.

Làm thế nào để đánh thắng Mỹ? vừa là yêu cầu cấp thiết của cách mạng vừa là thử thách khốc liệt đối với Đảng và nhân dân ta. Nhu cầu lịch sử đòi hỏi Đảng ta phải rất công phu, phải đầu tư trí tuệ và thử nghiệm sáng tạo gấp bội lần. Xuất phát từ hai nguyên tắc cơ bản trong đường lối cách mạng Việt Nam, Đảng đã có những lựa chọn đúng đắn để giải “bài toán” hóc búa đó:

Thứ nhất, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lêninđề ra đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo. Trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, chính xác các nguyên lý cơ bản vào hoàn cảnh cụ thể nước ta; xác định đúng đối tượng, tính chất và đặc điểm của cuộc các mạng. Từ đó, xây dựng lực lượng cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và phương pháp cách mạng phù hợp cho mỗi miền Nam - Bắc trong từng giai đoạn cụ thể. Nét nổi bật và xuyên suốt trong toàn bộ đường lối ấy là Đảng luôn luôn nắm vững hai ngọn cờ: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn liền hai mục tiêu phấn đấu: Vì độc lập dân tộc và vì chủ nghĩa xã hội để động viên rộng rãi mọi lực lượng của giai cấp và của dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên những dòng thác cách mạng “nhấn chìm lũ cướp nước và bán nước”.

Thứ hai, tuyệt đối trung thành những lợi ích thiêng liêng của dân tộc, kết hợp đúng đắn với lợi ích của phong trào cách mạng thế giới. Trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, Đảng càng tỏ rõ mục tiêu phấn đấu, phương hướng chiến lược để đạt mục tiêu đó: “Đảng đoàn kết lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến CNXH”[2]. Ngoài ra, Đảng không có lợi ích nào khác. Cũng: “Có nghĩa là Đảng đã trở thành người lãnh đạo thực tế của toàn xã hội, người đại biểu trung thành lợi ích thiêng liêng của dân tộc” [3].

Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, nắm vững quy luật của chiến tranh nhân dân từ khởi nghĩa đến chiến tranh cách mạng, Đảng ta biết mở đầu chiến tranh và biết kết thúc chiến tranh đúng lúc. Từ đó, giải quyết thành công các vấn đề đường lối và phương pháp cách mạng, đánh bại hoàn toàn cả 5 loại chiến lược chiến tranh và hàng chục, hàng trăm cách đánh của Mỹ qua 5 đời Tổng thống kể từ năm 1954-1975. Trong một cuộc chiến tranh không có tiền lệ trong lịch sử như vậy, việc biết địch cũng như hiểu ta. Không thể chỉ căn cứ từ những kinh nghiệm có sẵn, mà phải trải qua thực trên chiến trường để nhận thức và đánh giá sâu sát, rõ ràng thế và lực của mỗi bên để tiếp cận ngày càng gần với quy luật của cuộc chiến tranh.

Có đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng mới có nội dung, phương hướng chính xác để đưa cách mạng đến thắng lợi. Nghị quyết 15-NQ/TW (1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cách mạng miền Nam chính là sự tìm tòi, kiểm nghiệm để tìm ra đáp số đúng của bài toán được thể hiện ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên khi Đảng mới ra đời: Độc lập dân tộc là trên hết. Trong 5 thời kỳ của cuộc kháng chiến, mỗi thời kỳ là một lần chuyển hướng lớn về nhiệm vụ chính trị của Đảng. Mỗi lần như vậy, là một lần Đảng ta cọ sát với thực tiễn, đấu trí ngoan cường, khôn khéo và sáng tạo với một cuộc chiến tranh không phải chỉ là một cuộc chiến tranh có quy ước, sử dụng một vài loại chiến tranh và một số cách đánh sẵn có. Dựa trên  đường lối, phương hướng đúng, vừa đánh vừa họcvừa làm vừa học, vừa chiến đấu vừa xây dựng, đánh đến đâu, làm đến đấy và xây dựng đến đâu tổng kết kinh nghiệm đến đấy để nâng dần trình độ của Đảng lên ngang tầm đòi hỏi của của nhiệm vụ lịch sử.

XÂY DỰNG ĐẢNG MÁC - LÊNIN VỮNG MẠNH VỀ TƯ TƯỞNG

Dựa trên đường lối chính trị đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc tăng cường xây dựng Đảng về  tư tưởng. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng luôn coi công tác tư tưởng là nền tảng quan trọng, chi phối trong toàn bộ hoạt động của Đảng, như Hồ Chí minh đã từng chỉ ra: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc” [5]. Người chỉ rõ: “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi” [6].

Điều đó, phù hợp với những luận thuyết của Lênin: “Cách mạng phải bắt đầu từ công tác tư tưởng - văn hóa”, Lênin coi tư tưởng - văn hóa mặt trận, là vũ khí sắc bén của Đảng và: “Chỉ đảng nào được một nền tảng lý luận, tư tưởng tiên phong thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”[7]. Làm tốt công tác tư tưởng bao gồm giáo dục, nghiên cứu lý luận, tổng kết, phát triển, truyền bá lý luận vào quần chúng công nhân; bổ sung, hoàn thiện và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng theo sát với thực tiễn cách mạng là một phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện cầm quyền. Khi tư tưởng tích cực được mở rộng, nó sẽ là xu hướng chủ đạo, “đi trước, mở đường” tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc.

Thưc tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho thấy đây là thời kỳ sinh hoạt tư tưởng của Đảng có nội dung phong phú, sôi nổi và hiệu quả nhất. Theo lời hiệu triệu của Đảng và Bác Hồ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trở thành một ý chí thống nhất. Qua 5 lần diễn ra những thay đổi trong chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, Đảng ta đã có những chuyển hướng lớn kịp thời về phương hướng nhiệm vụ chính trị. Thông qua sinh hoạt tư tưởng, Đảng đã xây dựng vững chắc lập trường, quan điểm đối với cán bộ, đảng viên; giáo dục cán bộ, đảng viên, quân và dân thích nghi với nhiệm vụ mới, hoàn cảnh mới, trên cơ sở đường lối cách mạng của Đảng.

Công tác tư tưởng không chỉ tạo nên sự thống nhất hành động mà còn khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc, ngăn chặn kịp thời mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa “hữu” và "tả" trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó cũng chính là thành công của Đảng trong công tác chính trị và xây dựng tổ chức, giúp cho Đảng thực hiện thắng lợi đường lối chính trị; đồng thời, rèn luyện cán bộ, đảng viên trở thành lực lượng tiên phong nhất, kiên định nhất về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, khả năng giải đáp những vấn đề hóc búa về đường lối, phương pháp và tổ chức cách mạng trong chiến tranh. Trong toàn bộ cuộc kháng chiến, truyền thống lịch sử "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức"[8] được phát huy ở tầm cao mới. Công tác tư tưởng đã động viên cao độ nghị lực và lòng dũng cảm, tài năng và trí sáng tạo của cán bộ, đảng viên và của nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến tháng lợi khác. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhờ đó đã huy động trùng trùng, điệp điệp lớp lớp thanh niên ra trận hòa cùng nhịp đập với chiến thắng của đoàn quân cách mạng: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Trải qua quá trình rèn luyện, chiến đấu và hy sinh gian khổ dưới nhiều hình thức khác nhau: Đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, quân sự và chính trị, khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, cải tạo và xây dựng hoà bình... thấm nhuần công tác tư tưởng của Đảng, tinh thần đảng viên đi trước, làng nước đi sau”luôn được phát huy cao độ và trở thành hành động thiết thực. Đảng ta ngày càng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo, bộ tham mưu chính trị, vừa là lực lượng chiến đấu, là đội quân xung kích dẫn đầu và là người tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng; xứng đáng là danh hiệu chiến sĩ tiên phong, đại biểu trung thành lời ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam.

XÂY DỰNG ĐẢNG MÁC - LÊNIN VỮNG MẠNH VỀ TỔ CHỨC

Có thể nói, qua tôi luyện trong lò lửa cách mạng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nêu: “Đảng ta là con nòi của dân tộc”. Sự lãnh đạo kiên cường của Đảng, sự chấp nhận hy sinh vô điều kiện của hàng vạn đảng viên trung kiên để giữ vững tổ chức, cơ sở cách mạng đã tô thắm thêm ngọn cờ tiên phong của Đảng. Trong kháng chiến, từ hậu phương đến chiến trường, mọi đảng viên, tổ chức của Đảng đều nhận thấy rõ, mình đang ở đâu, mình đang và phải là gì? Được chăm lo và rèn luyện ở mức cao nhất, mọi tổ chức đảng và đảng viên đều tuân thủ mệnh lênh, đưa khả năng tổ chức lên ngang tầm với nhu cầu chính trị, đảm bảo thi hành trọn vẹn đường lối, chính sách của Đảng. Điều đó cũng thể hiện rõ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức”[9].

Trong 21 năm kháng chiến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng liên tục được phát triển, mở rộng. Năm 1954, cả nước có chưa đầy 20 ngàn chi bộ, 10 ngàn đảng bộ cơ sở và 65 vạn đảng viên nhưng đến năm 1975 đã có 95.486 chi bộ, 34.545 đảng bộ cơ sở ở khắp các địa phương, các ngành cùng với hơn 1,55 triệu đảng viên (chiếm 3,13% dân số) tăng gấp hai lần số đảng viên năm 1966 (76 vạn người). Qua đấu tranh cách mạng ở cả hai miền, số đông đảng viên biểu lộ phẩm chất, đạo đức và tinh thần cách mạng cao cả. Hàng chục vạn đảng viên cùng với nhân dân hai miền Nam – Bắc sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh cần thiết[10] để xóa bỏ nỗi đau mất nước, xóa bỏ tai họa chia cắt, để có được quyền làm chủ toàn bộ đất nước của mình. Sau chiến tranh, họ đều là những người gương mẫu, luôn nêu cao tinh thần cách mạng, tận tuỵ phấn đấu trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.

Có thể nói, đây là một thời kỳ chói sáng của Đảng ta về tổ chức. Trong đó, sự nhất trí cao về tư tưởng, tổ chức đảm bỏa cho thắng lợi của đường lối chính trị. Sự đảm bảo đó, được tăng cường bằng nguyên tắc của Đảng, bằng kỷ luật thống nhất trong trong toàn Đảng theo mệnh lệnh thời chiến. Trong Đảng, không có chia rẽ chính trị; không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; chủ nghĩa cá nhân được hạn chế thấp nhất; tinh thần cộng sản và quốc tế vô sản được đề cao. Khối đoàn kết, thống nhất của Đảng được củng cố là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng, làm nên sức mạnh vũ bão của dân tộc. Trong chiến đấu gian khổ, toàn Đảng luôn luôn vững vàng, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình thành phong cách lãnh đạo chiến tranh rất sáng tạo và cách mạng. Phương châm ba bám: du kích bám địchcán bộ bám dândân bám đất  truyền thống của Đảng và cách mạng từ thời kỳ chống Pháp, được phát triển lên trình độ mới cao hơn và phổ biến hơn trong thời kỳ chống Mỹ. Có một thực tế, những đảng viên, những tổ chức không làm được theo phương châm đó thì sớm muộn cũng bị phong trào cách mạng đào thải. Cuộc vận động “nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh" được Bộ Chính trị ra Nghị quyết triển khai từ tháng 4-1970 nhằm thực hiên Di chúc của Chủ tịch Hồ CHí Minh, đã củng cố mạnh mẽ tổ chức của Đảng. Qua cuộc vận động đã đưa ra khỏi Đảng hàng vạn người không đủ tư cách đảng viên, góp phần làm cho hàng ngũ Đảng thêm trong sạch, vững mạnh và sức chiến đấu của Đảng được nâng cao.

Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sứ thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tinh thời đại sâu sắc”[11].

Sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, phức tạp đòi hỏi công tác xây dựng Đảng Mác - Lênin phải được nâng lên ở tầm cao mới - tầm cao của lịch sử và thời đại. Dù vậy, những bài học từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) về xây dựng Đảng vẫn còn nguyên giá trị, vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, nóng hổi. Đấy là bài học quý báu về xây dựng Đảng Mác - Lênin chân chính ở Việt Nam. Có một Đảng tiên phong, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, luôn đặt lợi ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc lên trên hết, trước hết, thì không có lý do gì vị thế cầm quyền, năng lực và sức chiến đấu của Đảng bị suy giảm. Đảng ấy, vẫn sẽ là đại biểu trung thành, đội tiên phong dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi đến những thắng lợi mới, huy hoàng trong công cuộc đổi mới đất nước. Và chắc chắn, sẽ không một thế lực cường bạo nào có thể khuất phục được./.

[1] Giáo sư Nâv Sihan - Đại học Goócneạ Mỹ. Trích theo: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1954-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, tr. 731.  

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t. 12, tr.37.

[3] Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới; Nxb. Sự thật, H,1960, tr.156. 

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , H, 2011, t. 15, tr. 623.

[5][6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , H, 2011, t. 8, tr. 280, 133

[7]  V.I.Lênin, Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr.32

[8] Theo: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1954-1975: "Quân thần đồng tâm, huynh đệ hòa mục, quốc gia tính lực, bỉ tự tựu cầm, thiên sử nhiên dã". Hai câu cuối tạm dịch là: địch tự chịu bị bắt, đó là do trời xui nên vậy. Sđd, tr. 675.  

[9]  V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.171,

[10] Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), theo thống kệ của Bộ Lao động, Thương và Xã hội tháng 10-1993, con số hy sinh và thiệt hại của nhân dân ta như sau: 1,1 triệu liệt sĩ; 600.000 thương, bệnh binh; 300.000 người mất tích; gần 2.000.000 dân bị địch giết hại; 2.000.000 người dân tàn tật; 2.000.000 người bị nhiễm hóa chất độc (khoảng 50.000 trẻ em dị dạng). Số người bị Mỹ và Việt Nam cộng hòa bắt và cầm tù, chưa tổng hợp đầy đủ. Nguồn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1954-1975: Sđd, tr.736. 

[11] Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t. 37, tr.471.

http://www.tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/xay-dung-dang-mac-lenin-vung-manh-bai-hoc-tu-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-127873

CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO HIỆN ĐẠI, HÀNH ĐỘNG

 


Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy công tác tư tưởng có rất nhiều đổi mới so với trước. Và, như một lẽ tất nhiên, những năm tới, nhiệm vụ của công tác tư tưởng cũng sẽ tiếp tục không ngừng “mới và khác”, cao hơn và khó hơn. Nhiệm vụ nặng nề hơn, bối cảnh phức tạp hơn, đòi hỏi ngành tuyên giáo phải phấn đấu cao hơn, đổi mới mạnh mẽ hơn cả về nội dung, phương pháp và phương thức.

ĐI NHANH VÀ HIỆN ĐẠI

Chúng ta phải đối đầu với những thách thức ngày càng gay gắt hơn, quyết liệt hơn rất nhiều so với trước trên lĩnh vực tư tưởng. Quá trình hội nhập sâu và trực tiếp vào đời sống kinh tế quốc tế cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nhất là cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm cho mọi khoảng cách bị thu hẹp, thậm chí là “không còn khoảng cách”. Sự cọ xát, đấu tranh tư tưởng diễn ra hàng ngày. Các trào lưu, các khuynh hướng tư tưởng, các loại thông tin đa chiều, trái chiều theo nhiều hình thức không ngừng xâm nhập vào đất nước ta, tác động trực tiếp hàng ngày, hàng giờ vào tư tưởng, tâm lý, tình cảm, lối sống của con người Việt Nam. Sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước ngày càng điên cuồng, ác độc và tinh vi hơn. Chúng đã, đang và sẽ tiếp tục tăng cường cuộc chiến tranh tâm lý - thông tin nhằm tấn công Đảng Cộng sản, nhằm đánh sập niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phân hóa, chia rẽ nội bộ ta.

Do đó, yêu cầu bảo vệ trận địa tư tưởng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đặt ra thường xuyên, rất quyết liệt và trực tiếp, đòi hỏi công tác tư tưởng phải nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vững vàng, tin tưởng.

Muốn hoàn thành nhiệm vụ, người làm công tác tuyên giáo phải nhanh nhạy dự báo, nắm bắt đầy đủ các nguồn thông tin, tỉnh táo xử lý thông tin, đủ tầm để định hướng thông tin. Trước vô vàn các hướng thông tin, các loại thông tin rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, cán bộ, đảng viên, nhân dân rất cần biết đâu là thông tin đúng, tin cậy, đâu là thông tin sai, thông tin giả cần cảnh giác. Trách nhiệm của người làm tuyên giáo là phải giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu đúng bản chất các vấn đề, các sự kiện quan tâm bằng các thông tin chuẩn xác, đầy sức thuyết phục. Như vậy, kiên định, vững vàng thôi chưa đủ, phải thiết kế và làm chủ các phương pháp thông tin, các phương tiện thông tin mới nổi, tập hợp nhanh nhất các nguồn thông tin, xử lý và cung cấp kịp thời thông tin định hướng tới công chúng. Bí quyết thành công là ở đó, cái mới của tuyên giáo là ở đó. Cán bộ tuyên giáo trong thời đại bùng nổ thông tin không chỉ cần vững vàng, kiên định về lập trường tư tưởng, mà phải đi nhanh và hiện đại.

TUYÊN GIÁO HÀNH ĐỘNG

Ở trong nước, cùng với sự phát triển ngày càng sâu kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng với hội nhập ngày càng trực tiếp vào kinh tế thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, đã, đang và sẽ xuất hiện một xu thế khách quan là sự phân hóa về thu nhập, tiến tới sự phân hóa về lợi ích và sự phân hóa về xã hội. Nếu chúng ta không có những giải pháp thật sự khoa học để điều tiết hiệu quả, sẽ dẫn đến sự hình thành các nhóm xã hội khác nhau. Mà sự hình thành các nhóm lợi ích khác nhau, các nhóm xã hội khác nhau chính là tiền đề để hình thành các khuynh hướng, các xu thế tư tưởng khác nhau. Đây là một thách thức rất lớn đối với vấn đề củng cố khối đại đoàn kết, sự đồng thuận xã hội. Công tác tư tưởng phải nhận lãnh trách nhiệm đi tiên phong, góp phần giải quyết vấn đề này.

Bên cạnh những tác động mang tính chất truyền thống như thông tin nhiễu, thông tin trái chiều..., những tác động tiêu cực tới tâm trạng, tư tưởng của xã hội, cán bộ, Đảng viên và nhân dân xuất phát từ chính thực tiễn của đời sống, đặc biệt trên một số lĩnh vực như: giải phóng mặt bằng, đền bù đất đai; ô nhiễm môi trường; khai thác tài nguyên, an toàn thực phẩm, điều kiện học tập, khám, chữa bệnh... Giải quyết những công việc cụ thể không mang lại lợi ích cho người dân, hoặc chưa rõ lợi ích cho người dân sẽ dẫn tới nảy sinh tư tưởng và bức xúc.

Để đáp ứng được những đòi hỏi rất mới đó, công tác tư tưởng nhất thiết phải gắn bó chặt chẽ với hiện thực đời sống, lấy thực tiễn là cái gốc. Đồng thời cán bộ tư tưởng phải tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết những vấn đề đang bức xúc. Công tác tư tưởng nếu thoát ly khỏi hoạt động thực tiễn thì hiệu quả sẽ rất thấp, bởi vì làm tư tưởng bây giờ không phải làm ở hội nghị mà là ở đời sống thực tiễn hàng ngày. Những hội nghị vẫn là cần thiết nhưng chưa đủ. Công tác tư tưởng phải đi vào đời sống và không dừng lại ở việc bám sát thực tiễn, mà phải chủ động tham gia vào quá trình giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Kinh tế tăng trưởng; nhà ở cho công nhân được xây dựng; thu nhập được cải thiện; sức khỏe được chăm lo; học hành của con cái được quan tâm; môi trường và thực phẩm được an toàn... những cái đó có tác dụng làm công tác tư tưởng nhiều hơn những hội nghị bàn về công tác tư tưởng. Chính vì vậy, người làm công tác tư tưởng không thể đứng ngoài cuộc, phải tham gia trực tiếp vào thực tiễn, biến tư tưởng thành một mắt xích, một khâu quan trọng trong cả một quy trình vận động kinh tế - xã hội của đất nước.

Sau Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về “Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới”, ban tuyên giáo các cấp đã triển khai ký quy chế phối hợp công tác với các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và cử cán bộ tham gia vào việc triển khai các chương trình, các dự án. Công tác tư tưởng không thể đi sau mà phải đi trước, đi cùng với công tác tổ chức hoạt động thực tiễn, nhằm: một là, làm tốt công tác tư tưởng; hai là, từ đó phát hiện những vấn đề cần phải sơ kết, tổng kết, cần phải bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tế. Hơn 10 năm triển khai Quyết định 221-QĐ/TW ngày 27/4/2009 của Ban Bí thư khoá X về “Ban hành Quy chế phối hợp giữa ban tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân”, đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với việc triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc trong nhân dân. Mối quan hệ giữa ban tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả.

NHỮNG KINH NGHIỆM THIẾT THỰC

Chúng ta đã đúc kết những bài học quý báu nhân các dịp tổng kết hoặc kỷ niệm Ngày truyền thống ngành. Nhiều việc đã làm được, làm tốt, làm hay, nhưng cũng còn không ít việc chưa làm được hoặc làm dở, làm kém. 90 năm truyền thống ngành, nhìn lại quá trình nỗ lực không ngừng nghỉ của đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo, trong tình hình mới, có thể “gút” lại một số kinh nghiệm thiết thực.

Một là, thời hiện đại, đời sống đất nước, khu vực, quốc tế diễn biến rất mau lẹ, tiềm tàng những nhân tố khó lường, công tác tuyên giáo phải nhạy bén nắm bắt thông tin đa chiều, bám sát sự vận động của thực tiễn, đánh giá và dự báo đúng tình hình để làm tốt công tác tham mưu, định hướng tư tưởng.

Hai là, kinh tế thị trường đi vào chiều sâu, hội nhập quốc tế trong một thế giới phẳng ngày càng trực tiếp, sâu rộng... các nhân tố tác động đến tư tưởng, tình cảnh, tâm trạng con người và cộng đồng trở nên vô cùng đa dạng, phức tạp, từ nhiều chiều, đặc biệt là những va chạm, xung đột về lợi ích và sự bùng nổ tới mức hỗn độn các luồng, kênh, loại thông tin, nhất là thông tin trên Internet, mạng xã hội. Công tác tuyên giáo phải mở rộng diện phủ sóng, cập nhật thông tin, tỉnh táo và vững vàng, chủ động đi trước, đi cùng những biến thiên, các sự kiện và sự việc của đời sống. Thụ động, đi sau thực tiễn là bất lực và thất bại. Như trên đã nêu, tuyên giáo đổi mới phải là tuyên giáo nhập thế - cập nhật, hiện đại và hành động.

Ba là, muốn thành công, công tác tuyên giáo phải phát huy được đồng bộ sức mạnh của hệ thống chính trị, trước hết là sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, trực tiếp là đồng chí bí thư cấp ủy, sự vào cuộc và phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; sự tham gia tự giác, sâu rộng của nhân dân. Chủ động thiết kế, thường xuyên duy trì, bồi đắp, phát huy hiệu quả quan hệ phối hợp rộng, bền, thực chất với các cơ quan chức năng trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của nhân dân là gốc thắng lợi của công tác tuyên giáo.

Thời kỳ mới, yêu cầu mới. Cán bộ tuyên giáo phải đổi mới, phải tự vươn lên, vượt lên thành người cán bộ tuyên giáo hiện đại và hành động./.

http://www.tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/cong-tac-tuyen-giao-hien-dai-hanh-dong-128939

NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

 


Để làm sáng rõ hơn những mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ở nước ta như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đề cập và nhấn mạnh trong bài viết "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới"TCTG đăng tải bài viết của PGS. TS. Vũ Văn Hiền, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương xoay quanh việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.

Gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và gần 35 năm đổi mới, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã nhận rõ nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải giải quyết, xử lý đúng đắn, hiệu quả. Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng lại nhấn mạnh và cụ thể hơn là mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ đó, Đảng đã chỉ rõ nguyên tắc và phương châm, phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng nghiên cứu dự báo xu hướng phát triển của của đất nước và thế giới, những diễn biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta trên cả hai mặt thuận lợi và khó khăn, tích cực và tiêu cực để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách thức và nguy cơ, tôn trọng quy luật khách quan, “không phiến diện, cực đoan, duy ý chí(1) 

1. BẢN CHẤT, NỘI HÀM CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 

Trước hết, cần xác định đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình chúng ta đổi mới, phát triển đất nước và mở cửa, hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu được xử lý tốt sẽ tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất vừa thúc đẩy nhau trong việc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt, hai mặt của mối quan hệ này sẽ hạn chế, cản trở lẫn nhau. Để giải quyết thật tốt mối quan hệ này, trước hết cần thấy rõ bản chất và nội hàm của nó thể hiện rõ trên những điểm cơ bản sau:Độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện:

Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài, không đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, tự lựa chọn con đường phát triển, tự quyết định mô hình phát triển của quốc gia, dân tộc. Tự chủ là năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết dân tộc trên thực tế. Độc lập, tự chủ bao gồm độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,v.v. Do đó, không có độc lập, tự chủ thì không thể nói tới hội nhập quốc tế chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. 

Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực… hội nhập quốc tế. Qua gần 35 năm đổi mới cho thấy, đường lối độc lập, tự chủ của Đảng đã định hướng đúng cho tiến trình hội nhập từ việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, xác định lộ trình hội nhập phù hợp... Ban đầu, chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sau đó cùng với hội nhập kinh tế, đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và quốc tế. Do vậy, quan hệ đối ngoại của nước ta được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Quan điểm và chính sách kiên trì độc lập, tự chủ của Đảng ta luôn luôn được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong lựa chọn, đề xuất các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích, xử lý thông tin để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực, mới chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế. 

Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn chế tối đa những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, đang phát triển như Việt Nam do quá trình toàn cầu hóa gây ra. Để thích ứng với tiến trình toàn cầu hóa, tận dụng được những cơ hội vàng do toàn cầu hóa đem lại, ngăn ngừa và khắc phục những thách thức do toàn cầu hóa gây ra thì các quốc gia phải chủ động, độc lập, tự chủ và nỗ lực cùng nhau hợp tác không phân biệt giàu nghèo, to nhỏ. Nhưng sự hợp tác đó phải trên tinh thần bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng luật pháp quốc tế. Do vậy, các quốc gia, dân tộc chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ thì mới có hiệu quả. 

Năm là, độc lập, tự chủ sẽ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát triển. Chẳng hạn, chúng ta có lợi thế về các sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, may mặc, giày da… Chúng ta chỉ có thể xuất khẩu được những mặt hàng có lợi thế so sánh này khi hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Nhưng nếu không độc lập, tự chủ thì lợi thế so sánh trong hội nhập sẽ bị các nước lớn mạnh lái theo ý họ. Có độc lập, tự chủ thì mới cân đối được, làm chủ được quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu, tránh nhập siêu quá giới hạn cho phép của nền kinh tế. Có độc lập, tự chủ chúng ta mới thúc đẩy cho kinh tế du lịch phát triển, lôi cuốn, kêu gọi được khách quốc tế đến tham quan, du lịch, làm ăn tại nước ta. Đây cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển. 

Đến lượt mình, hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc. Có thể nhận rõ điều đó như sau:

Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Thực tiễn gần 35 năm mở cửa, hội nhập, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của Nhà nước, hội nhập quốc tế đã trở thành một trong các nguồn lực quan trọng để chúng ta củng cố độc lập, tự chủ. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là một giải pháp vừa là một động lực để giữ vững độc lập, tự chủ. 

Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, tự chủ, chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy phải coi trọng huy động các nguồn lực bên ngoài. Muốn phát huy được các nguồn lực bên ngoài thì phải thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế. Chính hội nhập quốc tế cho chúng ta những điều kiện để tận dụng được lợi thế của các nguồn lực bên ngoài như nguồn lực vốn, nguồn lực kỹ thuật, nguồn lực quản lý. Chúng ta đều rõ, toàn cầu hóa tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, hàng rào thuế quan ngày càng thu hẹp, làm cho các luồng chuyển giao vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc, tạo ra nhiều hình thức đầu tư, hợp tác sản xuất. Tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực bên ngoài chỉ được phát huy có hiệu quả thông qua nội lực. Do vậy, phải chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế. 

Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chính quá trình toàn cầu hóa đang làm thay đổi phân công lao động trên từng khu vực và trên toàn thế giới. Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân công lao động này để phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cho chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình phát triển. 

Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình, ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự chủ. Là một dân tộc đã trải qua nhiều năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam hiểu rõ và khát khao hơn bất cứ quốc gia, dân tộc nào sự hòa bình, ổn định để chấn hưng đất nước. Chúng ta đều rõ, hiện nay trên bình diện an ninh, đang nổi lên nhiều vấn đề an ninh đáng lo ngại như chủ nghĩa khủng bố, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai, nguy cơ bất ổn chính trị… Những vấn đề này đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của từng quốc gia cũng như từng khu vực và cả thế giới. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cùng một cơ chế thống nhất có hiệu quả trên cơ sở hợp tác giữa các nước, giữa các khu vực cũng như toàn thế giới. Muốn vậy các nước phải cùng nhau hợp tác. 

Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)... Trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và giữ vững độc lập, tự chủ. Để phát triển kinh tế, chúng ta không thể không hội nhập quốc tế để hội nhập đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không thể rơi vào thế bị động, đối đầu bất lợi”(2). 

Sáu là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế còn tạo điều kiện, cơ hội cho chúng ta xuất khẩu lao động. Khi xuất khẩu được lao động, chúng ta sẽ có cơ hội để nguồn lao động được tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của những nước khác; tiếp thu được phong cách làm việc; phương thức tổ chức sản xuất của các nước. Điều này góp phần trực tiếp vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện đột phá về nhân lực chất lượng cao. Hơn nữa, xuất khẩu lao động còn tạo thêm công việc cho số lao động có tay nghề. Điều này góp phần giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, trên cơ sở đó giảm thiểu tệ nạn xã hội. Đồng thời, xuất khẩu lao động còn góp phần tăng thu nhập trực tiếp cho người lao động, tăng thu ngân sách cho quốc gia.

2. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 

Mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cần được giải quyết hài hòa, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của đất nước. Việc xử lý mối quan hệ này không thể đơn giản mà phải có sự thấu đáo và khoa học trên mấy phương diện sau:

Trên phương diện kinh tế, trước hết, muốn độc lập, tự chủ, quốc gia phải có thực lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài, mặc dù là cần thiết và quan trọng nhưng không để chiếm lĩnh vai trò chi phối nền kinh tế quốc gia cũng như không thể được phép vào những ngành nhạy cảm có thể gây tổn hại đến an ninh, quốc phòng của đất nước. Một nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước. 

Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển mạnh một số ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng hàng đầu, có hiệu quả như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, luyện kim, hóa dầu, than, khoáng sản, cơ khí chế tạo… Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, an toàn năng lượng, an toàn tài chính - tiền tệ, an toàn môi trường; bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững trong bất cứ tình huống nào, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, gặp rủi ro.

Trên phương diện xã hội, yêu cầu của một quốc gia độc lập, tự chủ hàm chứa năng lực thực hành thuần thục hai cách thức quản trị xã hội: chính thức (tức là bằng pháp luật và các quy định thành văn) và phi chính thức (bằng con đường tuyên truyền, vận động, giáo dục...). 

Sự phát triển sâu rộng của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang tạo ra hàng loạt không gian quyền lực chung, có tính toàn cầu vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ quốc gia. Để xử lý, vượt qua các thách thức, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã chủ động cải cách. Tuy nội dung và mô hình cải cách có khác nhau, nhưng nổi lên 3 nét chung sau đây trong xu thế cải cách chính phủ hiện đại. Một là, phi tập trung hoá quyền lực nhà nước, mạnh dạn phân cấp, trao quyền cho các cơ cấu địa phương. Đây không phải là quá trình từ bỏ quyền lực trung ương, mà là biện pháp để củng cố bản thân quyền lực ấy một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Trung ương không thay địa phương trong quản lý xã hội ở phạm vi cụ thể, mà phải giám sát việc quản lý do chính quyền địa phương tiến hành. Nhờ quá trình phi tập trung hoá này, các quyết định trở nên gần gũi, sát hợp với thực tế hơn và động viên được đông hơn các tổ chức, cá nhân vào công việc quản lý xã hội. Hai là, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường trong phân bổ các nguồn lực phát triển xã hội; kết hợp tốt chức năng điều tiết của chính phủ với thị trường và xã hội. Ba là, phát huy rộng rãi dân chủ trong toàn xã hội, không chỉ thể hiện sự phát triển của nền dân chủ chính trị, mà còn phải bảo đảm mọi quyền lực là của nhân dân, dân chủ được thực thi trong nhân dân nhằm giúp chính phủ thực hiện sự quản lý hiện thực đối với các mặt của đời sống xã hội.

Trên phương diện chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là yêu cầu có tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Độc lập tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài, kiên quyết giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và trật tự, an toàn xã hội. Độc lập tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng, an ninh...

Logic của tiến trình đổi mới là đổi mới kinh tế phải được đồng bộ, hài hòa với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, mở rộng dân chủ, cải cách lập pháp, tư pháp. Yêu cầu đổi mới toàn diện như vậy đặt ra đòi hỏi ngày càng cấp thiết đối với năng lực quản trị của Nhà nước và năng lực cầm quyền của Đảng tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Đổi mới chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế, tối ưu hoá hoạt động của hệ thống chính trị, phân bổ quyền lực chính trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả là cách tốt nhất đáp ứng các yêu cầu và thách thức đặt ra. 

Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng. Độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và đối ngoại thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng tạo, xuất phát từ lợi ích tối cao của đất nước - dân tộc, không giáo điều, rập khuôn, máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, trong xác định đối tác, đối tượng và tập hợp lực lượng quốc tế. Hệ thống các quan hệ đối ngoại rộng lớn hiện nay của Việt Nam là kết quả của một quá trình thực hiện các bước đột phá: từ phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hoá quan hệ với các nước lớn, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực..., đến thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, là bạn với tất cả các nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.../.

----------------------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.73.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.154-155.

http://www.tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nhan-thuc-va-giai-quyet-moi-quan-he-giua-doc-lap-tu-chu-va-hoi-nhap-quoc-te-129636

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...