Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2022

Việt Nam kêu gọi các bên giảm căng thẳng, sớm tìm ra giải pháp hòa bình

Chiều 3-3, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam về tình hình tại Ukraine hiện nay, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh: Việt Nam chia sẻ quan điểm của ASEAN trong Tuyên bố của các ngoại trưởng ASEAN về tình hình Ukraine ngày 26-2 cũng như trong phát biểu của Trưởng phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc tại phiên họp khẩn cấp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 1-3.

Lập trường nhất quán của Việt Nam là yêu cầu tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Việt Nam hết sức quan ngại về tình hình xung đột vũ trang tại Ukraine và kêu gọi các bên kiềm chế, chấm dứt ngay các hành động sử dụng vũ lực, tránh gây thương vong và tổn thất cho dân thường. Việt Nam kêu gọi các bên giảm căng thẳng, sớm tìm ra giải pháp hòa bình lâu dài cho các bất đồng trên cơ sở phù hợp với luật pháp quốc tế và tính đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên liên quan.

Liên quan tới việc triển khai sơ tán người Việt ở Ukraine, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết: Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam dành ưu tiên cao nhất cho công tác bảo hộ công dân, bảo vệ an toàn tối đa tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân và pháp nhân Việt Nam, trụ sở và thành viên cơ quan đại diện Việt Nam tại Ukraine. Trong những ngày qua, các bộ, ngành, cơ quan đại diện Việt Nam tại Ukraine và các nước: Ba Lan, Nga, Rumania, Hungary, Slovakia phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai các phương án bảo hộ công dân, bảo đảm an ninh, an toàn và các điều kiện cần thiết để sơ tán công dân Việt Nam. Tính đến trưa ngày 3-3 (giờ Việt Nam), hầu hết bà con ở Kiev, Odessa và hàng trăm người ở Kharkov đã được sơ tán khỏi vùng chiến sự và được bố trí sang các nước lân cận. Các cơ quan đại diện Việt Nam đã và đang tích cực hỗ trợ các thủ tục, giấy tờ cần thiết cho bà con nhập cảnh, quá cảnh và phối hợp với nhà chức trách địa phương, các hội đoàn người Việt sở tại đón và thu xếp chỗ ăn ở tạm thời, cung cấp vật dụng thiết yếu cho bà con.

Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện đang tiếp nhận yêu cầu về Việt Nam của bà con để phối hợp với các bộ, ngành liên quan và hãng hàng không sớm tổ chức các chuyến bay theo chỉ đạo của Chính phủ trên tinh thần nhân đạo, khẩn trương, an toàn. Các thông tin về chuyến bay sẽ được thông báo kịp thời, công khai, minh bạch.

Mưu đồ phía sau cái gọi là bản phúc trình “Nhốt chúng tôi ở trong nhà”

Mới đây, ngày 17-2-2022, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW - Human Rights Watch) đã công bố cái gọi là bản phúc trình với tiêu đề “Nhốt chúng tôi ở trong nhà: Hạn chế tự do đi lại của các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam”. Đây là luận điểm vô căn cứ, đổi trắng thay đen về tình hình tại Việt Nam.

Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW - Human Rights Watch) là một tổ chức phi chính phủ thành lập năm 1978, có trụ sở tại thành phố New York, Hoa Kỳ cùng văn phòng ở thủ đô và thành phố lớn nhiều nước như Hà Lan, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ, Anh, Nga, Pháp, Nhật, Canada...

HRW dưới danh nghĩa “nhân quyền” để thành lập các tổ chức hoạt động chống chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tạo cớ để Mỹ, các nước phương Tây tăng cường hoạt động tác động về tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền rồi tiến hành xoá bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu, Liên Xô trước đây.

HRW bị nhiều quốc gia phản đối vì không bảo vệ quyền con người theo đúng nghĩa mà ngược lại, thường tìm cách can thiệp vào việc xử lý của các cơ quan chức năng một số nước. 

Đối với Việt Nam, HRW cổ súy, tán dương với những nhân vật hoạt động chống đối Nhà nước, vi phạm pháp luật. Tổ chức này thường xuyên phác thảo ra những bản báo cáo, phúc trình xuyên tạc tình hình nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam.

 Hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng nhiều phương thức thủ đoạn chống phá nhân dân, Đảng, Nhà nước ta với mức độ ngày càng quyết liệt. Trong đó, chúng luôn mượn danh vấn đề nhân quyền để xuyên tạc tình hình đất nước, hòng làm mất đi hình ảnh Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển trên trường quốc tế.

Mới đây, ngày 17-2-2022, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW - Human Rights Watch) đã công bố cái gọi là bản phúc trình với tiêu đề “Nhốt chúng tôi ở trong nhà: Hạn chế tự do đi lại của các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam”. Đây là luận điểm vô căn cứ, đổi trắng thay đen về tình hình tại Việt Nam.

Cái gọi là bản phúc trình “Nhốt chúng tôi ở trong nhà: Hạn chế tự do đi lại của các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam” thực chất là tổng hợp các nội dung mà HRW xuyên tạc về tình hình Việt Nam trong thời gian năm 2004 đến năm 2022.

Trong đó, tập trung vào việc vu cáo, xuyên tạc rằng Việt Nam đang hạn chế quyền tự do đi lại và các quyền cơ bản khác của các "nhà hoạt động", những người bất đồng chính kiến, người "bảo vệ nhân quyền".

Bản phúc trình dài 66 trang, được công bố cùng với những phát biểu hồ đồ và áp đặt của ông Phil Robertson, Phó giám đốc Ban Á châu của HRW: “Chính quyền Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống các quyền dân sự và chính trị, khiến các nhà hoạt động và các nhà bất đồng chính kiến luôn phải đối mặt với rủi ro thường trực... “Nhà cầm quyền áp dụng các chiến thuật lạm dụng nhân quyền như quản chế các nhà hoạt động tại gia vô thời hạn, câu lưu khi họ rời khỏi nhà, và cấm xuất cảnh trên cơ sở các lý do an ninh quốc gia ngụy tạo.”

Bản phúc trình còn xuyên tạc trắng trợn: “Nhà cầm quyền đã áp dụng nhiều phương pháp để kiềm tỏa người dân tại gia, như cử các nhân viên an ninh mặc thường phục đóng chốt ngoài tư gia, khóa cửa ra vào của người bất đồng chính kiến bằng khóa ổ, thậm chí đổ keo đa năng vào các ổ khóa, dựng rào chắn và các chướng ngại vật, và huy động côn đồ địa phương đe dọa người dân.”

Để chứng minh cho những luận điệu vớ vẩn, áp đặt trên, HRW nêu lại các sự kiện quấy rối của các tay sai đắc lực trong quá trình chống phá đất nước ta như:  Phạm Chí Thành, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Văn Điệp, Nguyễn Tường Thụy.

Đây là những đối tượng thường xuyên làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các đối tượng này đã bị bắt và đang phải ngồi tù vì nhiều tội danh liên quan đến việc chống lại lợi ích dân tộc Việt Nam. HRW tuyên bố có hơn 170 nhà hoạt động, blogger và nhà bất đồng chính kiến, cùng với người thân của họ được đưa vào bản phúc trình.

Thực tế, lâu nay, các thế lực thù địch “khoác áo” nhân quyền để chống phá đất nước ta bằng nhiều hình thức khác nhau như: Kêu gọi trả tự do cho các “tù nhân lương tâm”; phản đối việc bắt các tay sai mà chúng gọi là “nhà hoạt động”; phản đối, kêu gọi tẩy chay các bản án xét xử các đối tượng mà chúng đã lôi kéo thành công...

Các hình thức chống phá này được “nhai đi nhai lại” với mưu đồ là nói mãi điều sai sẽ thành điều đúng. Tuy nhiên, những năm gần đây, quần chúng nhân dân đã nâng cao cảnh giác, không nghe theo các luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, các tay sai phản động lần lượt bị cơ quan chức năng kiên quyết đấu tranh, vô hiệu hóa nên các “chân rết" của chúng bị chặt đứt dần dần.

Vì vậy, bản phúc trình nói trên thể hiện sự bế tắc của các thế lực thù địch khi mà không còn nhiều người trong nước bị lôi kéo, mua chuộc. Cực chẳng đã, chúng đành phải “chuyển hướng” xuyên tạc, bôi nhọ về quyền tự do đi lại của những kẻ phản bội. Bản phúc trình cũng thể hiện một “hướng” chống phá mới của các thế lực thù địch.

Đó là, khi chưa có những “quân tốt thế mạng” (như Phạm Chí Thành, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Văn Điệp, Nguyễn Tường Thụy) thì triệt để tìm những chuyện “bên lề” để hạ thấp hình ảnh Việt Nam.

Cách thức này như một chiếc áo được chúng “khoác” lên các tổ chức nhân quyền mà HRW là điển hình. Từ đó, chúng hướng các tổ chức nhân quyền khác làm theo và lập nên cái gọi là “hồ sơ nhân về quyền thông thường” ở Việt Nam và nhiều nước khác.

Công bố cái gọi là bản phúc trình, HRW đã “lòi đuôi cáo” khi Phil Robertson nói: “Các nhà tài trợ và đối tác thương mại của Việt Nam cần nhận thức được sự cản trở đối với quyền tự do đi lại đang diễn ra hằng ngày và gây sức ép để chính quyền Việt Nam chấm dứt cách hành xử gây tê liệt người dân như thế.”

Rõ ràng, mục đích chính của chúng là làm méo mó hình ảnh của đất nước ta trên trường quốc tế. Từ đó, kêu gọi các tổ chức, cá nhân, các đối tác thương mại tẩy chay Việt Nam. Về lâu dài, sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội; từ đó, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thực chất, HRW không vì nhân quyền ở Việt Nam.

Tất nhiên, với các tổ chức nhân quyền như HRW, ngoài việc tài trợ của các thế lực thù địch thì việc tuyên bố các bản phúc trình như trên cũng không ngoài mục đích kêu gọi tài trợ.

Vì thế mà trên website của tổ chức này luôn hiện từ “donate now” (ủng hộ ngay bây giờ); và, sau mỗi bài viết đều có một biểu mẫu kêu gọi: “Món quà được khấu trừ thuế của bạn có thể giúp ngăn chặn vi phạm nhân quyền và cứu sống khắp nơi trên thế giới. Ủng hộ ngay: 50$, 100$, 250$...”.

Và tất nhiên, số tiền tài trợ, ủng hộ cho tổ chức này sẽ không được sử dụng để bảo vệ nhân quyền mà chỉ nhằm chống phá những đất nước không cùng “phe” với chúng.

Việt Nam ứng cử vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025

Ngày 22-2, tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) ở Geneva, Thụy Sĩ, Khóa họp thường kỳ lần thứ 46 của Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) LHQ đã khai mạc.

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động mở đầu của khóa họp là phiên họp cấp cao được tổ chức theo hình thức trực tuyến với sự tham dự của hơn 110 đoàn cấp cao. Đoàn Việt Nam do Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh dẫn đầu. Bà Nazhat Shameem Khan (Đại sứ Fiji)-Chủ tịch HĐNQ chủ trì phiên khai mạc, với sự tham dự và phát biểu của ông Volkan Bozkir, Chủ tịch Đại hội đồng LHQ, ông Antonio Guterres, Tổng thư ký LHQ và bà Michelle Bachelet, Cao ủy Nhân quyền LHQ.

Phát biểu tại phiên họp cấp cao ngày 22-2, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh chia sẻ những khó khăn do đại dịch Covid-19 khiến hàng triệu người thiệt mạng và đời sống hàng tỷ người bị tác động tiêu cực, tạo áp lực nặng nề lên hệ thống y tế và an sinh xã hội của tất cả các nước và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền con người. Phó thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng ghi nhận những chuyển biến tích cực, phục hồi khi thế giới bước sang trạng thái “bình thường mới” và cho rằng đại dịch là cơ hội để thế giới xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, trong đó sự đoàn kết và hợp tác quốc tế là yếu tố then chốt để giúp vượt qua thách thức.

Phó thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh khẳng định việc bảo đảm cho xã hội an toàn trước dịch bệnh là cách tốt nhất để bảo đảm việc thụ hưởng đầy đủ các quyền con người cho mỗi thành viên trong xã hội; nêu bật các chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong bối cảnh đại dịch, vừa kiểm soát đại dịch, chăm sóc sức khỏe người dân, vừa duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; thông tin về những đóng góp của Việt Nam cho nỗ lực chung của thế giới ứng phó với đại dịch Covid-19 như hỗ trợ khẩu trang, vật tư y tế cho hơn 50 nước và đối tác quốc tế, đề xuất và được Đại hội đồng LHQ thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết chọn ngày 27-12 là Ngày Quốc tế Phòng, chống dịch bệnh để nâng cao nhận thức về việc phòng ngừa và ứng phó các dịch bệnh. Tại phiên thảo luận cấp cao, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng đã thông báo việc Việt Nam, với tư cách ứng cử viên của ASEAN, tham gia ứng cử vị trí thành viên HĐNQ LHQ nhiệm kỳ 2023-2025.

Cũng tại phiên họp, Tổng thư ký LHQ nhấn mạnh đại dịch Covid-19 khiến các thách thức về quyền con người trở nên trầm trọng hơn, ảnh hưởng nặng nề tới các nhóm yếu thế và kêu gọi tập trung hành động trong hai lĩnh vực ưu tiên gồm chống phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử, bài ngoại và bình đẳng giới. Tổng thư ký LHQ phê phán chủ nghĩa dân tộc vaccine, tình trạng tán phát các thông tin sai lệch hoặc tình trạng xâm phạm, thu thập, lợi dụng thông tin của người dân để phục vụ lợi ích thương mại. Bà Michelle Bachelet cũng phát biểu chia sẻ tác động sâu rộng của đại dịch Covid-19 đối với việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trên thế giới và nhấn mạnh các giải pháp ứng phó với đại dịch cần dựa trên cơ sở bảo đảm các quyền con người, niềm tin của cộng đồng, các thể chế dân chủ hiệu quả.

Khóa 46 HĐNQ LHQ sẽ diễn ra từ ngày 22-2 đến 23-3 nhằm thảo luận các biện pháp thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Xếp hạng dân chủ theo kiểu “Thầy bói xem voi”

Hãng nghiên cứu và phân tích Economist Intelligence Unit (EIU-có trụ sở chính tại Vương quốc Anh) mới đây đã công bố báo cáo chỉ số dân chủ năm 2021, trong đó xếp Việt Nam vào "nhóm nước phi dân chủ, độc tài".

   “Té nước theo mưa” sau đó vài ngày, Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch-có trụ sở tại Hoa Kỳ) cũng đưa ra báo cáo cho rằng, chính quyền Việt Nam sách nhiễu và giam giữ nhiều "nhà hoạt động" trong hai thập kỷ qua. Chỉ chờ có thế, một số báo, đài nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam lại dồn dập đưa ra cái gọi là "phân tích", "luận giải", "góc nhìn"... Thật nực cười, hành động của họ gợi nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn "Thầy bói xem voi"! 

Đầu tiên phải khẳng định, báo cáo của EIU là sai lầm và bịa đặt, đúng như đánh giá của nhiều chuyên gia nghiên cứu chính trị: “Họ chỉ thấy cây mà... cố tình không thấy rừng”. Báo cáo cũng tiếp tục ca ngợi cái gọi là thành tích “dân chủ phương Tây” trong khi hầu hết các giá trị “dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN)” bị bỏ qua. Các nước một đảng lãnh đạo hoặc Đảng Cộng sản lãnh đạo, các nước XHCN hoặc theo thiên hướng XHCN đều bị báo cáo này xếp vào nhóm điểm số dân chủ rất thấp mà điển hình như: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba...

Điều này không khó hiểu bởi bảng xếp hạng mà tổ chức này đưa ra dựa trên các tiêu chí rất thiếu tính thuyết phục, với mục đích chính trị là chủ đạo như tiêu chí: Tỷ lệ tham gia chính trị, quyền tự do cá nhân với thể chế đa nguyên, đa đảng là cốt lõi... Còn báo cáo của Tổ chức Theo dõi nhân quyền cho rằng, các “nhà hoạt động” bị chính quyền Việt Nam sách nhiễu và giam giữ nhiều. Họ là những người “bất đồng chính kiến”, “tù nhân chính trị”, “đấu tranh vì dân chủ”... Tên tuổi những cá nhân đó vẫn khá quen thuộc, như: Phạm Đoan Trang, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Trịnh Bá Phương... Thực tế ai cũng biết rằng, những cá nhân này đã vi phạm pháp luật Việt Nam và bị xử lý theo chế tài pháp luật Việt Nam một cách công bằng.

Nghiên cứu báo cáo chỉ số dân chủ mà EIU đưa ra thấy rõ, những kết quả khảo sát theo các hạng mục nêu trên không có nguồn trích dẫn và không được kiểm chứng rõ ràng. Mục đích của họ không chỉ chống phá Việt Nam mà còn nhằm phá hoại các nước XHCN và một số nước có phong trào cánh tả hiện nay. Và đương nhiên, nó phục vụ cho mưu đồ của các nước phương Tây là không phải bàn cãi. Chỉ cần xem động thái của truyền thông phương Tây khi các báo cáo này xuất hiện có thể thấy, họ như “bắt được vàng”, tiền hô hậu ủng rầm rộ. Hệ thống truyền thông của phương Tây chiếm khoảng 80% lượng truyền thông của thế giới và làm mưa làm gió trong nhiều thập niên qua.

Từ lâu, truyền thông phương Tây không đơn thuần là nguồn cung cấp thông tin cho độc giả mà đã tham gia rất tích cực vào việc kích động các cuộc xung đột, “cách mạng màu” trên thế giới. Họ cũng rất có kinh nghiệm trong việc kích động nhân dân tại chính nội bộ các nước mà họ không ưa, tiếp tay cho các tổ chức phản động trong và ngoài nước chống phá Việt Nam. Song song với đó, một số nước phương Tây luôn dùng kết quả từ những số liệu báo cáo thiếu khách quan này phục vụ cho những cuộc mặc cả, chèn ép nước khác, trong đó nổi bật nhất là vấn đề dân chủ, nhân quyền để thực hiện ý đồ của họ.

Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác không chấp nhận việc một số quốc gia hay tổ chức quốc tế luôn tự cho mình cái quyền dùng các yêu cầu dân chủ, nhân quyền mà phương Tây tự đặt ra để đòi hỏi nước khác phải lấy đó làm tiêu chuẩn. Trong các tiêu chí để xếp hạng chỉ số dân chủ, EIU đưa ra các tiêu chí rất thiên vị kiểu “dân chủ phương Tây” như tỷ lệ tham gia chính trị, quyền tự do cá nhân, trong đó chủ đạo là vấn đề thể chế đa nguyên, đa đảng để rồi dễ dàng đi đến xếp hạng Việt Nam vào nhóm nước phi dân chủ, độc tài.

Trên thực tế, việc đưa ra các "giá trị phương Tây" cũng là khiên cưỡng. Chính tổ chức đa phương lớn nhất thế giới là Liên hợp quốc (LHQ) cũng luôn khẳng định, các nước trên thế giới ở những trình độ phát triển khác nhau nên không thể lấy giá trị, tiêu chuẩn của nước này áp đặt cho nước khác. Hiến chương LHQ cũng nhấn mạnh: “Không quốc gia nào, kể cả LHQ, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia”. Quyền con người không thể đứng một mình tách rời, nó phải được đặt trong bối cảnh lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước đó.

Điều này đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận thông qua Tuyên bố Vienna và Chương trình Hành động tại Hội nghị thế giới về nhân quyền năm 1993 tại Vienna (Áo). Tuyên bố Vienna đã khẳng định khi xem xét vấn đề nhân quyền phải luôn ghi nhớ tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo... 

Dù luôn tự cho mình là dân chủ nhưng thực tế, các thiết chế dân chủ phương Tây đang áp đặt lên toàn cầu không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nó chỉ thuộc về các tập đoàn tư bản, nơi chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất và quyền lực. Tuy nhiên, EIU đã bỏ qua những yếu tố có tính lịch sử khác biệt và sự bất công hiển nhiên đang tồn tại ở chế độ tư bản khi xếp hạng.

Và chính họ, cùng với Tổ chức Theo dõi nhân quyền đưa ra các báo cáo này đang vi phạm nhân quyền thì lại tự cho mình quyền đánh giá dân chủ, nhân quyền của các nước khác. Câu chuyện ngụ ngôn về những ông thầy bói mù xem voi và thánh phán lung tung đã được tái hiện trong việc đánh giá dân chủ, nhân quyền của một số tổ chức phương Tây vừa nêu. Tuy nhiên, những ông thầy bói mù hình dung không đúng về con voi, là do họ bị mù; còn một số nhà dân chủ phương Tây năm nào cũng lăm le báo cáo nhân quyền, dân chủ, chõ miệng tanh hôi vào nội bộ nước khác, thì khác các ông thầy bói kia ở tâm địa hiểm độc. 

EIU đưa ra những tiêu chí rất mù mờ, cho rằng đa nguyên, đa đảng là dân chủ, còn một đảng, nhất nguyên là mất dân chủ, độc tài, là rất thiếu căn cứ. Thực tiễn các quốc gia trên thế giới cho thấy, vấn đề một đảng hay đa đảng không nói lên được đất nước đó có dân chủ hay mất dân chủ. Có những quốc gia rất nhiều đảng phái nhưng vẫn là quốc gia dân chủ thấp, quyền con người không được bảo đảm, lợi ích chỉ nằm trong tay một bộ phận giàu có. Ngược lại, một số quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng lại là quốc gia mà người dân luôn cảm thấy hạnh phúc. Đại dịch Covid-19 đang phơi bày tất cả mặt trái, những bất công của chế độ tư bản chủ nghĩa khi mà cuộc khủng hoảng diễn ra cả về kinh tế, chính trị và y tế, xã hội. Đời sống của đa số người lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng, trong khi số lượng tỷ phú đô-la lại tăng mạnh, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn.

Điều này đang làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột, làn sóng biểu tình, bãi công diễn ra mạnh mẽ ở những nước tự cho mình là tự do, dân chủ. Nếu thực sự khách quan để đưa ra được một báo cáo có tính thuyết phục, có giá trị cho nhân loại, EIU cần khảo sát, chấm điểm ở các tiêu chí như: Bản chất của đảng lãnh đạo chính trị đó là gì? Cách mạng hay không cách mạng? Mục tiêu cầm quyền của đảng đó ra sao? Đảng đó có vì nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân hay không?...

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” được các cơ quan báo chí đăng tải tháng 5-2021, khi phân tích về các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt, đã chỉ rõ: “Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”.

Ở khía cạnh khác, EIU có lẽ chưa hiểu thực tế về Việt Nam hoặc đang bị thế lực nào đó làm cho họ có cái nhìn thiếu công bằng. Họ hoàn toàn phớt lờ một sự thật, đối với dân tộc Việt Nam, việc duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nhưng đó lại là nguyện vọng chính đáng, là sự lựa chọn của cả dân tộc, nó phù hợp với thực tế, hoàn cảnh Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, ở Việt Nam, trong suốt những năm thực dân đô hộ, nhiều tổ chức, đảng phái giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc nhưng rồi đều bế tắc, thất bại. Họ thiếu cái gì trong đó? Thiếu đội tiền phong lãnh đạo, thiếu lực lượng, thiếu lý luận soi đường... Các nhà nghiên cứu luận giải, chủ nghĩa tư bản Pháp với giai cấp tư sản thống trị xâm lược Việt Nam thì cho dù các ngọn cờ của phong kiến, nông dân hay trí thức... tiến hành phong trào giải phóng dân tộc sẽ khó có thể thành công, bởi họ không đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của thời đại. Lực lượng tiến bộ nhất của thời đại đó phải là giai cấp công nhân; và giai cấp tư sản chỉ có thể bị đánh đổ bởi giai cấp công nhân.

Là một sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hội tụ trong mình đầy đủ các yếu tố để lãnh trọn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thành công, giải phóng dân tộc, đưa đất nước tiến lên con đường XHCN, xây dựng đất nước ngày một phồn vinh.

Chỉ nói riêng về bản chất dân chủ của thể chế chính trị Việt Nam qua hơn 92 năm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thấy rõ: Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng đất nước; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trên thực tế, Đảng ta luôn nhận thức rất rõ vấn đề thực hành dân chủ, dân chủ ngay chính trong nội bộ Đảng và thực hiện tốt nhất quyền dân chủ thuộc về nhân dân. Đảng luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

Để đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng hoàn thành sứ mệnh cao cả, Đảng đã thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự thanh lọc chính đội ngũ cán bộ yếu kém của mình. Đảng cũng không bao giờ giấu giếm khuyết điểm mà sẵn sàng thừa nhận, chỉ ra thiếu sót, yếu kém của mình để sửa chữa. Đảng ta cũng không bao giờ tự mãn, dừng lại, say sưa với chiến thắng mà quên đi hay không nhận thấy những nguy cơ làm hư hỏng chính mình. Thực tiễn việc xử lý hàng loạt tổ chức đảng và đảng viên có sai phạm, cùng việc ban hành những quy chế, quy định khắt khe của Đảng để mọi đảng viên phải rèn luyện, phấn đấu, tự răn mình bao năm qua đã chứng minh điều đó.

Nguồn: Báo QĐND

Kiên quyết giữ vững và bảo vệ ngọn cờ soi đường chỉ lối của Đảng

Tổng kết quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, nhất là những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm rất quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”.

Từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của thời đại, tác phẩm của Tổng Bí thư đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề mới về lý luận và thực tiễn, khẳng định bản chất cách mạng và khoa học trong nhận thức và hành động thực tế xây dựng CNXH ở Việt Nam, làm rõ CNXH là gì và đi lên CNXH bằng cách nào, từ phương châm, hình thức, bước đi phù hợp để hoàn thiện đường lối quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và tính đặc thù.

Tác phẩm đã làm rõ hơn nội dung và khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, kế thừa những thành tựu, giá trị văn minh nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Tác phẩm nhấn mạnh yếu tố bảo đảm xây dựng thành công CNXH là phải có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản chân chính cách mạng dựa trên học thuyết cách mạng, tính khoa học và cách mạng triệt để của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Tác phẩm của Tổng Bí thư có giá trị lý luận căn bản và ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc, toàn diện đưa Việt Nam tiến tới một nước XHCN hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Tác phẩm có sự đóng góp xứng đáng vào kho tàng lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH mà các nước trên thế giới đang hướng tới. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng đặt ra yêu cầu cần thiết phải học tập, quán triệt sâu sắc tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư.

Kiên trì bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng trong tình hình hiện nay

Cương lĩnh và đường lối đổi mới của Đảng được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc bản chất cách mạng, phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, Cương lĩnh, đường lối đó đứng vững và được hiện thực hóa, có khả năng chống lại mọi sự xuyên tạc và chống phá của các thế lực thù địch cả về lý luận và thực tiễn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) hoạch định đường lối đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, phát triển đất nước, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân. Vượt qua thách thức, khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở các nước Đông Âu, Liên Xô, Đại hội VII của Đảng (6-1991) tỏ rõ bản lĩnh chính trị, kiên định con đường XHCN với việc đề ra “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)”. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Cương lĩnh và đường lối được các đại hội Đảng không ngừng bổ sung, phát triển, đã đưa công cuộc đổi mới của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng là bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vì Đảng lãnh đạo, cầm quyền chủ yếu bằng Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết... Bảo vệ sự đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối với những giá trị lý luận, khoa học, bắt nguồn từ nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nắm vững những nguyên lý về cách mạng XHCN, những đặc điểm, đặc trưng, quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh và đường lối đổi mới của Đảng được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc bản chất cách mạng, phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, Cương lĩnh, đường lối đó đứng vững và được hiện thực hóa, có khả năng chống lại mọi sự xuyên tạc và chống phá của các thế lực thù địch cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó càng đòi hỏi Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao trình độ lý luận và nhận thức về hệ tư tưởng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về Chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng XHCN thích hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết là của cán bộ cốt cán của Đảng”.

Nâng cao trình độ lý luận của toàn Đảng và của từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, bồi đắp lập trường, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng những là để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, mà cũng chính là bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đó là sự bảo vệ chủ động, tự giác bởi trí tuệ, có khả năng bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, phản động.

Hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đó là quá trình hiện thực hóa thành công những mục tiêu, 8 đặc trưng và 8 phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra, đặc biệt là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các đặc trưng khác cũng được nhận thức và thực hiện rõ hơn thể hiện bản chất tốt đẹp và tính hiện thực của chế độ XHCN ở Việt Nam.

Bảo vệ con đường XHCN là cuộc đấu tranh quyết liệt về hệ tư tưởng, đồng thời là bảo vệ một chế độ xã hội, một hình thái kinh tế-xã hội, bảo vệ quy luật phát triển tất yếu khách quan của lịch sử. Dù phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.

Thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới mà Đại hội VI đề ra và các đại hội tiếp theo bổ sung, phát triển. Đại hội XIII của Đảng (1-2021) đã khẳng định những thành tựu cơ bản. Đó là thước đo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước và vai trò quyết định của Cương lĩnh, đường lối.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng bình quân duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển. Phát triển văn hóa, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng. Chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.

Những năm qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị vẫn cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị. Âm mưu, thủ đoạn của họ là thúc đẩy đổi mới chính trị để xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Sự thật là thế nào? Đảng đã kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị. Quan điểm của Đảng là lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm và từ thành tựu kinh tế mà từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm, phải đổi mới từng bước, thận trọng, vững chắc, không vội vàng khi chưa có đủ điều kiện cần thiết. Đổi mới hệ thống chính trị trong suốt quá trình đổi mới và hiện nay tập trung vào những nội dung nổi bật.

Một là, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN với những đặc trưng cơ bản, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế; Nhà nước quản lý xã hội, đất nước, nền kinh tế chủ yếu bằng pháp luật; Nhà nước pháp quyền là một trong 8 đặc trưng của mô hình CNXH Việt Nam.

Hai là, thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội; phát huy dân chủ XHCN, tập hợp, đoàn kết rộng rãi mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vì lợi ích quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

Ba là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng kết hợp chặt chẽ với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, kết hợp đúng đắn xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng và bảo vệ Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.

Thực hiện và bảo vệ 3 vấn đề cốt lõi nêu trên là phát huy tính ưu việt của chế độ và bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, bền vững về kinh tế-xã hội, vị thế chính trị, văn hóa, con người, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Vấn đề bảo đảm an ninh phi truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tại, dịch bệnh, nhất là kiểm soát đại dịch Covid-19 có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống người dân, không thể xem nhẹ.

Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thông qua việc hoàn thiện, bổ sung Cương lĩnh, đường lối và bảo vệ giá trị khoa học, tính hiện thực của đường lối. Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021-2030. Để thực hiện được các định hướng đó cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. “Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả”.

Tổ chức các chuyến bay sơ tán công dân từ Ukraine về nước

Thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc tổ chức các chuyến bay đưa người Việt Nam và thành viên gia đình về nước trong bối cảnh chiến sự tại Ukraine, Bộ Ngoại giao phối hợp các cơ quan chức năng dự kiến tổ chức 2 chuyến bay sơ tán công dân.

Cụ thể như sau: Ngày 7/3, chuyến bay số hiệu VN88 của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) dự kiến chở 283 công dân khởi hành từ Bucharest (Romania), hạ cánh tại sân bay Nội Bài trưa 8/3. Ngày 9/3, chuyến bay số hiệu QH9066 của Bamboo Airways dự kiến chở 270 công dân khởi hành từ Warsaw (Ba Lan), hạ cánh tại sân bay Nội Bài sáng 10/3. 

Người Việt về nước trên các chuyến bay trên sẽ được xét nghiệm Covid-19 sau khi hạ cánh tại Việt Nam và được các cơ quan chức năng hướng dẫn thực hiện các biện pháp cách ly y tế. 

Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan tiếp tục triển khai việc sơ tán người Việt và thành viên gia đình khỏi khu vực nguy hiểm tại Ukraine, đưa sang các nước láng giềng và đưa những người có nhu cầu về nước tùy theo tình hình và khả năng đáp ứng.

Những ngày qua, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Ukraine và các nước lân cận đã phối hợp nhà chức trách địa phương, các hội đoàn người Việt ở sở tại tích cực hỗ trợ bà con sơ tán, trực tiếp đón, thu xếp chỗ ăn ở tạm thời, vật dụng thiết yếu cho bà con. 

Theo thông tin từ các cơ quan đại diện, tính đến 19 giờ ngày 5/3, hơn 2.000 người Việt đã được sơ tán khỏi vùng chiến sự ở Ukraine và được bố trí sang các nước lân cận, trong đó hơn 1.000 người đã tới Ba Lan; 370 người đã tới Romania, 200 người đang được đưa từ Moldova sang Romania; Đại sứ quán Hungary đã đón khoảng 190 người; hơn 40 người đã tới Slovakia.

Tổ công tác bảo hộ công dân của Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện đang tiếp tục theo dõi sát tình hình, chủ động tiếp nhận yêu cầu bảo hộ công dân, nhu cầu sơ tán, về nước của bà con người Việt thông qua đường dây nóng bảo hộ công dân của Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện.

Nguồn: Báo ND

Đại sứ quán Việt Nam và kiều bào tại Ba Lan tích cực hỗ trợ công dân sơ tán từ Ukraine

Trong những ngày này, Ba Lan, 1 trong những quốc gia có đường biên giới dài với Ukraine, trở thành điểm đến chính của dòng người sơ tán khỏi vùng chiến sự, trong đó có người Việt Nam.

Tại Warszawa, người Việt từ Ukraine sang Ba Lan lánh nạn đã nhận được sự quan tâm hỗ trợ của Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan và cộng đồng người Việt tại đây. Nhiều bà con đang mong đợi chuyến bay của chính phủ để trở về nước.

Tối 5/3, hàng trăm bà con người Việt từ Ukraine sang Ba Lan lánh nạn đã được đội ngũ taxi “0 đồng”, do các tình nguyện viên trong cộng đồng thành lập, đón về chùa Nhân hòa, tức Trung tâm Văn hóa Phật giáo Việt Nam ở thủ đô Warszawa. Tại đây, bà con được hỗ trợ sắp xếp nơi ăn nghỉ, được động viên để ổn định tinh thần sau nhiều ngày di chuyển vất vả.

Ông Trịnh Văn Hồng đến từ thủ đô Kiev (Ukraine) chia sẻ, ông rất xúc động và cảm ơn sự giúp đỡ của Đại sứ quán, Hội người Việt Nam, chùa Nhân Hòa và bà con người Việt tại Ba Lan đã giúp ông, cũng như những bà con sang Ba Lan lánh nạn ổn định hơn về tinh thần và có thể tham gia hỗ trợ những người đến sau. Ông bày tỏ nguyện vọng được sớm về nước trên chuyến bay hồi hương công dân của Chính phủ Việt Nam.

Trong khi đó, anh Nguyễn Mạnh Tiến, đến từ thành phố Kharkov bày tỏ mong muốn nhận được sự hướng dẫn của Đại sứ quán và cộng đồng người Việt tại Ba Lan để sớm định hướng ổn định cuộc sống.

Theo ông Bùi Văn Dư, Chủ tịch Trung tâm Văn hóa Phật giáo Việt Nam tại Ba Lan, tính đến tối 5/3, chùa Nhân Hòa đã hỗ trợ bố trí ăn nghỉ cho khoảng 1.000 người Việt Nam từ Ukraine sang lánh nạn, cũng như kịp thời động viên bà con ổn định tinh thần và sinh hoạt, nhất là tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của bà con.

Sư thầy Thích Trung Đạt, trị sự chùa Nhân Hòa tại Ba Lan cho biết, khi nhận được thông tin bà con người Việt từ Ukraine sang Ba Lan lánh nạn, thầy và các phật tử đã lên kế hoạch đón tiếp thật chu đáo, trong đó việc chính là tạo điều kiện bố trí chu đáo nơi ăn ở. Đến nay, nhà chùa đã đáp ứng được nhu cầu bước đầu của bà con để ổn định sinh hoạt. Trong tối 5/3, nhà chùa tiếp tục đón thêm hơn 70 đồng bào sơ tán từ Ukraine.

Hiện Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan đang tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng sở tại cũng như với Hội người Việt Nam và các tổ chức, hội đoàn người Việt để kịp thời hỗ trợ bà con người Việt từ Ukraine sang lánh nạn, thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân, trong đó có việc hỗ trợ đưa bà con hồi hương trên các chuyến bay sắp tới.

Đại sứ Việt Nam tại Ba Lan Nguyễn Hùng cho biết, ngay khi tình hình chiến sự diễn biến căng thẳng, lượng người sơ tán từ Ukraine sang Ba Lan tăng cao, trong đó có nhiều công dân Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam đã khẩn trương triển khai công tác bảo hộ công dân Việt Nam di tản từ Ukraine sang Ba Lan, ưu tiên bảo vệ an toàn cao nhất về tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân và pháp nhân Việt Nam ở Ukraine.

Đại sứ quán đã tích cực làm việc và đề nghị Bộ Ngoại giao Ba Lan, Cơ quan Biên phòng và Ủy ban về người nước ngoài của Ba Lan hỗ trợ công dân Việt Nam được nhập cảnh, quá cảnh và lưu trú tạm thời thuận lợi, được bảo đảm chỗ ăn ở và nhu yếu phẩm cần thiết trong thời gian cư trú 15 ngày theo quy định dành cho công dân nước thứ ba.

Theo kế hoạch, hãng hàng không Bamboo Airways sẽ thực hiện chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ Ukraine về nước, dự kiến vào ngày 9/3, với hành trình từ Warszawa (Ba Lan) về Hà Nội.

Coi Covid-19 là bệnh đặc hữu: Chúng ta cần thêm thời gian


Theo PGS, TS Đỗ Văn Dũng, Trưởng Khoa Y tế công cộng, Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, khoảng 6 tháng nữa, chúng ta mới nên tính tới coi Covid-19 là bệnh đặc hữu hay không.

Theo PGS, TS Đỗ Văn Dũng, năm 2020, Việt Nam công bố dịch bệnh Covid-19 là bệnh truyền nhiễm nhóm A, tức là một loại dịch bệnh lây lan nhanh và tử vong cao. Khi công bố là dịch bệnh nhóm A, nhà nước có quyền can thiệp vào việc thực hiện quy định phòng, chống dịch.

Cơ sở khoa học để một bệnh truyền nhiễm nhóm A được coi là bệnh đặc hữu là khi số ca mắc mới và số ca nặng ổn định, tức là không có khả năng gây làn sóng dịch mới. Khi đó, nhà nước phải tự tin không có làn sóng dịch mới, không còn lo ngại trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, triển khai tiêm chủng đầy đủ cho người dân để hạn chế thấp nhất tỷ lệ tử vong.

Nhà nước phải bảo đảm có một hệ thống y tế thật tốt, để khi người dân mắc bệnh nhẹ hơn, được điều trị kịp thời. Nếu diễn biến nặng, sẽ có đủ giường và hệ thống hồi sức tích cực (ICU).

Do đó, PGS Dũng bày tỏ: "Chúng ta phải trả lời câu hỏi, tại Việt Nam, dịch hiện nay còn lây lan không và tử vong có cao không. Câu trả lời là có, dịch vẫn đang lây lan rất nhanh, số ca nhiễm tăng rất cao và tỷ lệ tử vong chưa hạ nhiệt. Chúng ta chưa thể coi Covid-19 là một bệnh đặc hữu".

Khi tuyên bố Covid-19 không còn là bệnh đặc hữu, không còn nằm trong nhóm bệnh loại A, nhà nước sẽ không giám sát người dân thực hiện quy định phòng, chống dịch.

“Tôi cho rằng, nhà nước vẫn nên có quyền kiểm soát việc tuân thủ quy định phòng, chống dịch của người dân. Tùy theo tình huống dịch, nhà nước có thể giảm biện pháp phòng, chống dịch, tăng cường tự do, sự thoải mái của người dân để họ có thể sống, lao động sản xuất không mâu thuẫn với phát triển kinh tế”, PGS Dũng nói.

Cũng theo chuyên gia này, hiện nay một số nước khi coi Covid-19 là bệnh đặc hữu, họ đã trải qua các làn sóng dịch lớn, tiêm vaccine lâu, nguồn vaccine dồi dào và hệ thống y tế mạnh.

Thí dụ tại Mỹ, người bệnh nhiễm Covid-19 dù có triệu chứng nặng, trung bình đều được tiếp cận thuốc điều trị hiệu lực cao 80-90% như các thuốc kháng thể đơn dòng, được miễn phí điều trị Covid-19 và hậu Covid-19 dù có bảo hiểm hay không, không phải đồng chi trả.

Trong khi đó, hệ thống y tế của ta vẫn còn nhiều vấn đề, việc tiếp cận hỗ trợ điều trị vẫn còn hạn chế. Hệ thống ICU chưa đủ khả năng đáp ứng nếu dịch bùng phát mạnh, số ca nhiễm trở nặng tăng cao. Hiệu lực điều trị thuốc của chúng ta cũng chưa cao so với những nước này. 

Bởi vậy, theo PGS Dũng, dần dần chúng ta sẽ phải tiến tới coi Covid-19 là bệnh đặc hữu để thuận lợi hơn cho người dân. Tuy nhiên, chúng ta phải cần thời gian.

"Nếu tuyên bố Covid-19 là bệnh đặc hữu, nhưng tỷ lệ mắc vẫn cao thì người dân vẫn còn hoang mang và sợ. Khoảng 6 tháng nữa mình mới có thể nói được vấn đề này", PGS Dũng nói. 

Về đề xuất của Bộ Y tế không công bố ca nhiễm, mà chỉ công bố số ca diễn biến nặng, tử vong, PGS Dũng cho rằng, việc này cần phải tính toán kỹ lưỡng. Vì không công bố, không có nghĩa là làm người dân bớt hoang mang mà thay vào đó, có nhiều biện pháp khác để làm người dân hiểu rõ hơn về các con số công bố trong ngày.

Việc công bố con số ca nhiễm mới là một cách công khai, minh bạch để người dân biết nguy cơ tiềm ẩn chung quanh, không bị mất định hướng hay nghi ngờ hoạt động của ngành y tế. Khi không biết số ca nhiễm mới, khó có thể tạo ra sự đồng thuận trong chấp hành quy định chống dịch nào đó.

“Thí dụ, nếu một địa phương ra lệnh giới nghiêm theo khung giờ khi thấy số ca nhiễm tăng cao, nhưng người dân không hề biết lý do vì sao, sẽ rất khó để họ tin tưởng, đồng thuận”, PGS Dũng nói.

Do đó, theo chuyên gia này, việc thống kê số ca nhiễm mới vẫn có giá trị, quan trọng với dịch tễ học và quan trọng với người dân. Bộ Y tế sẽ phải đưa ra quan điểm để người dân hiểu về các con số, và cần quan tâm con số nào đáng quan tâm.

Bác sĩ Nguyễn Hồng Hà, Phó Chủ tịch Hội Truyền nhiễm Việt Nam, dịch hiện nay vẫn đang lây lan mạnh ở các thành phố lớn, nơi đông người.

Thời điểm này, tại Việt Nam, Covid-19 vẫn là bệnh đặc biệt, bệnh mới nổi và có dịch, tác hại lớn và có thể lây lan. Căn bệnh Covid-19 sẽ còn hiện hữu và chúng ta phải chấp nhận sống chung với nó.

Trước đề xuất để F0 không triệu chứng đi làm của Bộ Y tế, bác sĩ Hà phân tích, sự tác động của đại dịch vẫn rất lớn tới đời sống, số ca tử vong vẫn cao. Covid-19 vẫn là một căn bệnh cần phải lưu tâm hiện nay. Đặc biệt, ở nhóm người yếu thế, nguy cơ chuyển biến nặng khi mắc bệnh (phụ nữ có thai, người cao tuổi, người nhiều bệnh lý nền, nhóm bệnh nhân đang điều trị bệnh lý cấp tính tại bệnh viện)…

Dịch chưa lên tới đỉnh do số ca vẫn mắc vẫn đang tăng cao. Do vậy, việc không cách ly người bị nhiễm, lây lan bệnh cho nhóm người yếu thế sẽ làm tăng nguy cơ tử vong.

Theo chuyên gia này, nhóm F0 có thể đi làm chỉ nên áp dụng với nhân viên y tế điều trị cho bệnh nhân Covid-19. F0 vẫn cần cách ly đề phòng ngừa lây nhiễm cho người khác. Đối với các trường hợp F0 không triệu chứng có thể làm trực tuyến tại nhà.

Về trường hợp F1, cần đặc biệt lưu ý đến F1 trong cùng gia đình vì khả năng phơi nhiễm rất cao, lên tới 70-80% nếu gia đình có F0. Do đó, dù F1 không cách ly nhưng vẫn phải phải theo dõi sức khỏe của mình.

"Đối với biến chủng Omicron, các triệu chứng rất thô sơ: chảy nước mũi, đau mỏi người, rát họng… Do vậy, F1 cần lưu ý khi có biểu hiện này cần phải xét nghiệm để biết mình có là F0 hay không, phòng nguy cơ lây cho người khác", bác sĩ Hà nói.

Nguông: Báo ND

Kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngày 9/2/2022, cuốn sách “Một số vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt. Cuốn sách là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, vấn đề kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta hiện nay.

Quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được nhấn mạnh trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, ngày 9/12/2021 (Sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam).

Sở dĩ Tổng Bí thư nhấn mạnh đến điều này do xuất phát từ cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, cả tình hình quốc tế, khu vực và những diễn biến trong nước. Trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên, các vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn đang tiếp diễn. Trong nước, sự nghiệp đổi mới tuy được đẩy mạnh toàn diện nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn như: Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”(1). Nguy hiểm hơn, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Ðảng.

Theo Tổng Bí thư, “từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc”(2). Nhận định này là sự tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm quan điểm của Ðảng về một trong bốn “nguy cơ” đang đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Ðảng, của chế độ ta.

Có thể nhận thấy tính biện chứng được thể hiện rất rõ trong quan điểm của Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu “kiên định, phát triển” là kiên trì làm theo, đi theo những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh; làm cho những quan điểm, tư tưởng ấy ngày càng sinh động, có thêm những nội hàm mới thì “vận dụng sáng tạo” là sự chắt lọc những quan điểm của Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp thực tiễn Việt Nam, tránh sự máy móc, sơ cứng, giáo điều.

Quan điểm của Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa cho thấy sự vững vàng về lập trường tư tưởng, vừa cho thấy tính biện chứng trong nguyên tắc vận dụng và kế thừa. Thực tiễn hơn 92 năm ra đời, phát triển của Ðảng và hơn 35 năm đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử khiến cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó đã chứng tỏ sự kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Ðảng ta là hoàn toàn đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vừa phù hợp xu thế khách quan.

Do đó, để quán triệt quan điểm chỉ đạo đồng chí Tổng Bí thư, Ðảng ta đã bổ sung thêm quy định liên quan trực tiếp đến lập trường tư tưởng, thái độ của đảng viên đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quy định số 37-QÐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm. Ðó là đảng viên không được “phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(3). Ðây là sự bổ sung kịp thời nhằm khắc phục triệt để những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong giai đoạn hiện nay.

Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất to lớn đối với đất nước ta và mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay. Mặt khác, quan điểm đó đã chỉ ra nguyên tắc có tính phương pháp luận trong việc xây dựng đường lối, hoạch định chính sách; mặt khác đặt ra yêu cầu cho mỗi cán bộ, đảng viên. Ðó là phải kiên định về lập trường tư tưởng, sáng tạo trong phát triển và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động thực tiễn. Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư trong bài viết chính là kết quả của sự tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí trong thời gian qua, đồng thời là sự phát triển lý luận về sự lãnh đạo của Ðảng lên một tầm cao mới.

Trong giai đoạn hiện nay, khi các thế lực thù địch đang ra sức chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng những thủ đoạn rất tinh vi, quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ cổ vũ, động viên mà còn tạo thêm niềm tin và sức mạnh cho mỗi chúng ta trong việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Quan điểm đó cũng định hướng cho chúng ta trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trên con đường đó, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là “kim chỉ nam” cho mọi hành động.

Nguồn: Báo ND

Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã được hiến định trong Hiến pháp, văn bản pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp cũng hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng không làm thay các cơ quan Nhà nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bằng cách tạo ra bảo đảm chính trị cho hoạt động kinh tế, xác định phương hướng chính trị cho hoạt động kinh tế đúng đắn và lành mạnh .

Chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân là định hướng mục tiêu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng chủ trương “phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm”. Lãnh đạo kinh tế của Đảng đã trở thành mắt xích chủ yếu, quan trọng, thiết thực và quyết định nhất trong toàn bộ đường lối lãnh đạo, trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã vượt qua bao gian nan, thử thách, được cả thế giới ngưỡng mộ, đặc biệt là trong thời kỳ phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Ngân hàng Standard Chartered mới đây đã đưa ra dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022, với tốc độ tăng trưởng 6,7%, tăng trưởng năm 2023 là 7% và Việt Nam tiếp tục có triển vọng tích cực trong trung hạn.

Trong bản Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 2, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh khởi đầu năm 2022, nền kinh tế Việt Nam có nhiều tín hiệu tích cực. Fitch Ratings là một trong những tổ chức có cái nhìn lạc quan nhất về kinh tế Việt Nam với dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,9% trong năm nay và 6,5% vào năm 2023.

Báo chí quốc tế trong thời gian gần đây đã có nhiều bài đánh giá tích cực triển vọng kinh tế Việt Nam nhờ chính sách ứng phó linh hoạt với Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh tế đang ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ. Chuyên trang tư vấn đầu tư ở châu Á Vietnam Briefing của công ty Dezan Shira nhận định, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mới mà Việt Nam tham gia sẽ đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khi Việt Nam mở cửa biên giới, tăng tốc phục hồi.

Các FTA không chỉ giúp phát triển kinh tế, mạng lưới sản xuất, mà còn góp phần nâng cao các tiêu chuẩn lao động. Tờ Reuters cũng có bài viết khẳng định: Nhờ các chính sách linh hoạt của Chính phủ Việt Nam, các hoạt động kinh doanh đã được khôi phục, đặc biệt là từ quý IV năm trước, nhờ đó, ngành dệt may Việt Nam đã hạn chế đáng kể sự gián đoạn chuỗi cung ứng, kỳ vọng tăng mạnh xuất khẩu trong năm nay.

Thực tiễn đã trả lời rõ ràng cho câu hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam có nên lãnh đạo kinh tế hay không. Thực tiễn cũng đã khẳng định những luận điệu tuyên truyền “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế" là xuyên tạc, kích động. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái này.

Khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường

 Để “chứng minh” rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam không nên lãnh đạo kinh tế”, một số người xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, họ cho rằng “không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”; “KTTT, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng XHCN vào KTTT là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn”...

Có lẽ những người nói trên đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu bản chất của cơ chế thị trường và những khuyết tật của KTTT. Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh tế hàng hóa; các phạm trù giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, các quy luật cạnh tranh, quy luật cung-cầu, quy luật giá trị của kinh tế hàng hóa cũng là các phạm trù và quy luật của KTTT.

Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản (CNTB), được CNTB nắm lấy, sử dụng để phát triển thành KTTT tư bản chủ nghĩa. Trải qua thời gian, KTTT tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều biến đổi. Thời kỳ đầu khi mới ra đời, KTTT tư bản chủ nghĩa là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có sự can thiệp của nhà nước.

Sự điều tiết của “bàn tay vô hình” của thị trường đã đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, nảy sinh ra nhiều khuyết tật của cơ chế thị trường, đòi hỏi phải có bàn tay quản lý của nhà nước.

Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của thị trường, vừa có điều tiết bằng “bàn tay hữu hình” của nhà nước; trong đó, điều tiết của thị trường là cơ sở, nền tảng và điều tiết của nhà nước trên cơ sở tôn trọng điều tiết của thị trường (công cụ quản lý, điều tiết kinh tế của nhà nước là luật pháp, chính sách và các nguồn lực kinh tế của nhà nước).

Thực tế cho thấy, KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới không phải hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung, định hướng can thiệp của nhà nước.

Có mô hình KTTT tự do ở những nước mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thấp; nhà nước chỉ bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, tự do kinh doanh, bảo đảm trật tự, ổn định xã hội, còn để phạm vi điều tiết của thị trường lớn, điều tiết mọi hoạt động kinh tế.

Có mô hình KTTT xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo cơ hội như nhau cho mọi người tham gia phát triển và hưởng thành quả phát triển, chống lại độc quyền, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội (như ở Đức).

Có mô hình KTTT phúc lợi xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để điều tiết thu nhập, phát triển các dịch vụ xã hội công, bảo đảm phúc lợi cho người dân, đặc biệt là những người cần được trợ giúp là trẻ em, người già, người thất nghiệp... (như ở các nước Bắc Âu). Có mô hình KTTT nhà nước phát triển, nhà nước không chỉ tạo thể chế, môi trường cho các chủ thể kinh tế hoạt động, mà còn có chiến lược, chính sách và sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước để định hướng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế (như ở Nhật Bản, Hàn Quốc)...

Phát triển KTTT định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm hạn chế những khuyết tật của KTTT. Định hướng XHCN của nền KTTT được bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; thể hiện ở quan hệ phân phối để mọi người đều được hưởng thành quả phát triển đất nước.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là mô hình KTTT định hướng XHCN. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Phản bác quan điểm “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Vậy mà gần đây lại xuất hiện quan điểm cho rằng “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”.

 Từ lúc chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng, lợi dụng việc góp ý văn kiện, một số người đã “phản biện” quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ nên tập trung lãnh đạo chính trị, không nên lãnh đạo kinh tế”; “Đảng chỉ nên tự khuôn mình trong phạm vi “chính trị”, còn kinh tế là địa hạt của giới kinh doanh”...

Hai năm gần đây, do ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chững lại, một số người lại đổ lỗi cho “Đảng Cộng sản Việt Nam không biết lãnh đạo kinh tế”, họ lại tiếp tục “phản biện” trên các mạng xã hội, trả lời báo chí nước ngoài rằng: “Đảng không nên “lấn sân” của Quốc hội, Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế” và “khuyến nghị”: “Trong lĩnh vực kinh tế, đã có Quốc hội ban hành pháp luật và giám sát tối cao, đã có Chính phủ quản lý điều hành, không cần Đảng lãnh đạo”... Đó là những quan điểm sai lầm, lợi dụng phản biện để phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.

Thực tiễn đã khẳng định kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, quy định và chế ước lẫn nhau. Trên thế giới hiện nay, không có đảng phái chính trị nào không gắn kết với kinh tế. Lênin đã từng chỉ ra rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại.

Kinh tế quyết định chính trị, chính trị phản ánh kinh tế, nhưng chính trị không thụ động trước kinh tế, mà có vai trò tác động trở lại với kinh tế hoặc tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu là chính trị đúng đắn, sáng suốt; hoặc tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội, nếu là chính trị sai lầm.  

Các đảng lớn của các nước tư bản phát triển đều đưa ra đường lối chính trị, dẫn dắt sự phát triển xã hội theo lý tưởng, mục tiêu đã lựa chọn. Trong đường lối chính trị đó đều có đường lối phát triển kinh tế.

Thực tiễn tại Việt Nam trong thế kỷ qua cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Cũng có lúc Đảng ta có sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo kinh tế, nhưng trong suốt 92 năm qua, chưa bao giờ Đảng ta xem nhẹ, buông lỏng vấn đề lãnh đạo kinh tế.

Nhờ chú trọng lãnh đạo kinh tế, bảo đảm sự đúng đắn và nhất quán về quan điểm chính trị trong lãnh đạo kinh tế mà Đảng ta đã nhanh chóng sửa chữa được khuyết điểm, giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế quan trọng, nhất là hơn 35 năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. 

Con tin vào điều mình đã chọn!

Là học sinh giỏi tốp đầu của lớp, chỉ còn hơn một tháng nữa, Minh sẽ đặt bút vào hồ sơ đăng ký tuyển sinh đại học.

Đề cao trách nhiệm, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính sách đối với quân đội,hậu phương quân đội trong tình hình mới

Từ nhỏ đã yêu màu áo bộ đội và luôn mến phục các chú bộ đội, Minh quyết tâm dự tuyển vào một trường quân sự để được phục vụ quân đội lâu dài.

Thế nhưng trong bữa cơm chiều, Minh chia sẻ dự định với gia đình thì bị mẹ phản đối. Đưa ra những hình ảnh, clip đã được cắt ghép, dàn dựng trên mạng xã hội, mẹ bảo Minh rằng, vào môi trường quân đội sẽ không khác gì đi làm thuê cả đời; không có thời gian, tiền bạc cho gia đình, vợ con.

Thậm chí, trên một diễn đàn Facebook có nhiều ý kiến khuyên không nên theo học các trường quân đội vì các trường này chỉ đào tạo về chiến tranh, đánh nhau, khiến người học trở nên khô cứng; ai cho con học theo nghề bộ đội thì coi như mất con... Từ những dẫn chứng đó, mẹ của Minh yêu cầu con trai phải học các trường dân sự để còn đi du học, nâng cao trình độ, có cơ hội tiến thân và không phải thường xuyên xa nhà như bộ đội.

Nghe những lời con dâu nói, ông nội Minh, là một cựu chiến binh đã từng cùng đồng đội vào sinh ra tử trong chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc, khá bất ngờ và bất bình. Khi biết cháu nội có ý định sẽ đăng ký vào trường quân đội, ông rất vui. Thế nhưng nhận thức của mẹ cháu Minh về quân ngũ và các trường quân đội đang có phần lệch lạc khiến ông thất vọng. Hơn nữa, ông nhận thấy, con dâu đang cả tin vào những thông tin phản động, sai trái ở trên mạng xã hội mà kẻ xấu bịa đặt, xuyên tạc, cố tình dựng lên với dụng ý chống phá quân đội và đất nước. 

Ông cố giữ bình tĩnh, ôn tồn nói: "Con à, bố cũng từng là một người lính, cả cuộc đời cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Vậy mà bố vẫn cùng mẹ con nuôi chồng con và các em trưởng thành. Hơn nữa, những điều mà con nói là nhận thức chưa đúng về quân đội và các nhà trường quân đội. Khi con của con vào học ở đây là được học ở một trong những môi trường đào tạo hàng đầu của đất nước, không chỉ dạy kiến thức, dạy nghề mà còn đặc biệt quan tâm dạy dỗ, rèn luyện học viên làm người vừa hồng, vừa chuyên.

Ở các trường học quân đội, nếu học tập tốt, cháu Minh vẫn có cơ hội được cử đi nước ngoài du học. Mặt khác, dù biết rằng bộ đội vẫn có nhiều thiệt thòi, vất vả nhưng Nhà nước cũng đã và đang có những đãi ngộ cho bộ đội và thân nhân... Thứ cần nhất là sức khỏe, đạo đức, tư cách thì các nhà trường quân đội đều chú trọng trong quá trình giáo dục, đào tạo. Bố tự hào với lựa chọn của cháu Minh. Bố nghĩ, anh chị cũng nên ủng hộ nó".

Thấy tình hình như vậy, Minh nói: “Thưa ông, thưa bố mẹ! Trước khi quyết định sẽ dự tuyển vào nhà trường quân đội, con đã tìm hiểu kỹ. Môi trường này thực sự phù hợp và rất tốt để con học tập, rèn luyện, trưởng thành. Hơn nữa, đây là mong muốn của con. Con vững tin vào lựa chọn của mình. Mong ông và bố mẹ ủng hộ”.

Trước sự cương trực, quyết tâm của con và những lời gan ruột của bố chồng, mẹ của Minh nhận ra mình đã suy nghĩ chưa thấu đáo, thậm chí còn sai lầm khi chỉ tin vào những thông tin cố tình nói xấu quân đội nhằm thực hiện mưu đồ đen tối. Mẹ của Minh đã nói lời xin lỗi bố chồng và đồng ý với quyết định của con trai.

Nguồn: Báo QĐND

Gắn bó máu thịt với nhân dân

Một trong những yếu tố thuộc về đặc trưng của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được xác định trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương là “gắn bó máu thịt với nhân dân”.

Đây là nét đẹp truyền thống, là cội nguồn sức mạnh của Quân đội ta, được hình thành ngay từ khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và ngày càng phát triển lên tầm cao mới theo bề dày thời gian.

Ngược dòng lịch sử, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Từ 34 chiến sĩ, trải qua hơn 77 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đùm bọc, che chở, giúp đỡ của nhân dân, đội quân ấy đã lớn mạnh không ngừng, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, tiếp tục khẳng định, tô thắm truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân. Sự gắn bó đó là mối quan hệ bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa quân và dân. Nhân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn của quân đội, giúp cho quân đội chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Ngược lại, quân đội luôn “hiếu với dân”, sẵn sàng xả thân chiến đấu, hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân bất kể hiểm nguy, gian khổ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân”. Người thường xuyên căn dặn cán bộ, chiến sĩ quân đội: “Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”. Với mục tiêu đánh đuổi phát xít, thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, mang lại cơm no, áo ấm cho nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ kính yêu, Quân đội ta đã anh dũng chiến đấu; cán bộ, chiến sĩ quân đội không tiếc máu xương để đổi lấy cuộc sống hạnh phúc, yên bình cho nhân dân. Khi Tổ quốc lâm nguy, cuộc sống của nhân dân bị đe dọa, hàng triệu cán bộ, chiến sĩ xung phong ra mặt trận, xông pha trong bom đạn chiến tranh, để lại gia đình, cha mẹ, vợ con nơi quê nhà để chiến đấu cho Tổ quốc trường tồn, cho nhân dân không còn cảnh đau thương, cơ cực. Trong số họ, không ít người đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường ở tuổi hai mươi.

Ngay cả khi đất nước đã hòa bình, thống nhất, bao người lính vẫn đằng đẵng xa nhà, chấp nhận mọi khó khăn, vất vả, kể cả hiểm nguy để canh giữ chủ quyền biên giới quốc gia, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Hòa bình rồi nhưng máu của Bộ đội Cụ Hồ vẫn đổ trong lúc giúp dân chống thiên tai, lũ lụt. Hình ảnh những cán bộ, chiến sĩ dầm mình cứu dân trong lũ dữ; đẫm mồ hôi mang lương thực, thực phẩm tiếp tế nhân dân bị cô lập bởi mưa bão, thiên tai... càng tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.

Mới đây nhất, đợt dịch Covid-19 lần thứ tư bùng phát mạnh ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, hàng chục vạn lượt cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang không quản ngại vất vả, nguy cơ lây nhiễm, dũng cảm lao vào “cuộc chiến” chống dịch, cứu dân. Bộ đội, bác sĩ quân y ở khắp các đơn vị toàn quân hừng hực khí thế “đi về phía nhân dân” với tinh thần “tính mạng của nhân dân trên hết, trước hết”. Lực lượng vũ trang Quân khu 7 phát động Phong trào thi đua đặc biệt “Chống dịch, cứu dân”; tổ chức các chương trình 5.000 phần quà hỗ trợ nhân dân, rồi 10.000, 20.000, 100.000 phần quà giúp dân chống đói, ổn định an sinh. Ở địa bàn biên giới, Bộ đội Biên phòng cắm chốt ngay từ đầu khi dịch xuất hiện, căng mình tuần tra đường mòn, lối mở để phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ có người thân qua đời vì ốm đau, dịch bệnh nhưng không thể về tiễn biệt lần cuối, phải nén đau thương bái vọng từ xa...

Cũng ở tuyến biên giới, địa bàn vùng sâu, vùng xa, nơi đất cằn sỏi đá, nước độc rừng thiêng, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ các đơn vị kinh tế-quốc phòng bám trụ, đồng hành với nhân dân; hằng ngày cầm tay, chỉ việc, hỗ trợ giống, vốn, hướng dẫn kỹ thuật để bà con biết trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ cao cả ấy, đã có bao mất mát, hy sinh giữa thời bình vì cuộc sống của nhân dân...

Tất cả những điều đó đã góp phần khẳng định, ở những nơi nguy hiểm nhất, gian khổ nhất, xa xôi nhất đều có mặt Bộ đội Cụ Hồ sát cánh cùng nhân dân vượt qua mọi chông gai, thử thách; tận tình bảo vệ và giúp đỡ nhân dân. Tình đoàn kết quân dân gắn bó máu thịt đã trở thành nét đẹp văn hóa, thẳm sâu trong con tim, khối óc của mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, bởi họ luôn thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có dân thì không có bộ đội”, “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Cho nên, dẫu xông pha trong lửa đạn, oằn mình trong bão lũ, vất vả giữa trùng khơi hay nhọc nhằn nơi biên viễn..., mỗi cán bộ, chiến sĩ đều hiểu rõ trách nhiệm, vinh dự của mình-đó là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính những người thân yêu của mình nơi quê hương yêu dấu. Bởi thế, họ sẵn sàng, tự nguyện chấp nhận hy sinh. Và sự hy sinh đó đã góp phần vun đắp thêm truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, làm sáng đẹp phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ...

Đáp lại tình cảm sâu nặng của Bộ đội Cụ Hồ, hơn 77 năm qua, nhân dân luôn tin yêu, quý mến, đùm bọc, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân. Thực tiễn lịch sử cho thấy, Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Cán bộ, chiến sĩ quân đội đều là con em của nhân dân, nên được dân yêu, dân mến, dân nuôi dưỡng, che chở. Trong những năm chiến tranh, nhân dân chính là hậu phương vững chắc, là căn cứ địa an toàn nhất cho bộ đội đánh giặc. Hình ảnh những bà mẹ, những người chị chắt chiu, gom góp cho đầy “hũ gạo kháng chiến”, gửi áo ấm, chăn màn cho chiến sĩ; đào hầm nuôi giấu bộ đội... mãi là những hình ảnh cao đẹp của tình quân dân, của lòng dân trời biển. Hẳn chúng ta không thể quên những khẩu hiệu, phong trào thi đua: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Tất cả vì tiền tuyến”, “Ba đảm đang”, “Ba sẵn sàng”, “Tay cày, tay súng”... được triển khai sâu rộng để bộ đội “ăn no, đánh thắng”, hỗ trợ tiền tuyến, cổ vũ bộ đội vững tâm chiến đấu, đánh đuổi quân thù, thu non sông về một mối.

Đất nước hòa bình, thống nhất, sự gắn bó máu thịt giữa quân đội với nhân dân tiếp tục thêm khăng khít. Hàng loạt chương trình, mô hình nhân dân chung sức chăm lo cho bộ đội, chăm lo cho nhiệm vụ quốc phòng-an ninh ngày càng phát triển mạnh mẽ. Điển hình như các phong trào: “Góp đá xây Trường Sa”; “Thắp sáng nhà giàn DK1”, mô hình “Mái ấm cho chiến sĩ, người nghèo nơi biên giới”, “Nước ngọt vùng biên”, Quỹ “Vì biển đảo quê hương-Vì tuyến đầu Tổ quốc”... thể hiện sâu sắc ý Đảng, lòng dân và thấm nhuần bài học từ lịch sử: Trong thái bình vẫn phải lo giữ nước, dưỡng quân, quân có mạnh cơ đồ mới vững.

Có thể thấy rằng, những hành động, việc làm và nhiệt huyết đó chỉ có thể xuất phát từ sự tin tưởng, từ tình cảm thương yêu và tinh thần quân với dân một ý chí; đồng thời một lần nữa khẳng định sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Bộ đội Cụ Hồ...

Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới không chỉ khái quát đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, mà còn chỉ ra những nhóm giải pháp cụ thể. Thấu triệt và cụ thể hóa những giải pháp ấy, để phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, tăng cường sự gắn bó máu thịt với nhân dân, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt công tác dân vận, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Bằng chính tình cảm, sự chân thành và hành động cao đẹp của mình để thuyết phục nhân dân tin theo bộ đội; thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo; củng cố vững chắc “cái gốc”, cái cội nguồn sức mạnh của quân đội theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Nguồn: Báo QĐND

Ưu tiên cao nhất cho công tác bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine

Trước bối cảnh tình hình căng thẳng tại Ukraine, ngày 24-2 vừa qua, Thường trực Ban Bí thư đã có văn bản chỉ đạo, trong đó có yêu cầu về bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine. Vấn đề này nhận được sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta .

Chiều 6-3, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nghe Bộ Ngoại giao và các cơ quan chức năng báo cáo về vấn đề này. Cùng dự buổi làm việc có Phó thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh; lãnh đạo Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Y tế...  

Thực hiện chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ đã thành lập Tổ công tác đặc biệt giải quyết các vấn đề có liên quan tới tình hình Ukraine do Phó thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh làm Tổ trưởng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện về việc bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam, một số vấn đề cần lưu ý trước tình hình tại Ukraine; chỉ đạo bảo đảm an ninh và an toàn cao nhất về tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho công dân và pháp nhân Việt Nam ở Ukraine và các nơi có liên quan; đồng thời xây dựng phương án sơ tán công dân và thành viên cơ quan đại diện khi cần thiết và triển khai hỗ trợ về nơi ở, lương thực, thực phẩm thiết yếu và các điều kiện cần thiết khác.

Tại buổi làm việc, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã trực tiếp nghe Đại sứ Việt Nam tại Ukraine Nguyễn Hồng Thạch báo cáo về tình hình bảo hộ công dân tại Ukraine qua hình thức trực tuyến. Theo Đại sứ Nguyễn Hồng Thạch, đến nay, Đại sứ quán đã phối hợp với các cơ quan liên quan hỗ trợ, di chuyển hết bà con kiều bào có nguyện vọng được sơ tán ra khỏi vùng chiến sự.

Sau khi nghe báo cáo, Chủ tịch nước đánh giá cao công tác nắm bắt tình hình và tinh thần chủ động chuẩn bị các phương án, tổ chức thực hiện bảo hộ công dân, hỗ trợ kiều bào Việt Nam tại Ukraine về nước nếu có nguyện vọng của Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành, cơ quan liên quan. Chủ tịch nước nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm đến công tác bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine. Chủ tịch nước nêu rõ, tinh thần chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Thường trực Ban Bí thư là không được để người dân Việt Nam trong vùng chiến sự bị thiệt mạng, bị thương. Chính vì vậy, công tác bảo hộ công dân cần được đặc biệt quan tâm. Cùng với đó là không được để người dân trong quá trình di tản bị đói, lạnh.

Chủ tịch nước đề nghị Bộ Ngoại giao chủ trì phối hợp với các bộ, ngành hữu quan thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, có phương án triển khai cụ thể, quan trọng nhất là đưa kiều bào ra khỏi vùng chiến sự an toàn. Chủ tịch nước hoan nghênh Chính phủ có kế hoạch tổ chức các chuyến bay miễn phí đưa những trường hợp khó khăn và có nguyện vọng về nước; đồng thời yêu cầu trong quá trình đó, cần thực hiện đúng quy trình, ưu tiên phụ nữ, trẻ em, người già. Đối với những kiều bào ở lại thì phải được Đại sứ quán và các cơ quan chức năng đưa ra khỏi vùng chiến sự đến nơi an toàn.

Chủ tịch nước chỉ đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Ukraine chủ động phương án, bảo đảm cao nhất tính mạng và tài sản của công dân Việt Nam tại Ukraine. Các bộ, ngành liên quan sẵn sàng bố trí nhân lực để đón công dân Việt Nam có nguyện vọng về nước, bảo đảm các điều kiện cần thiết về phòng, chống dịch Covid-19 và hậu cần.

Tại cuộc họp, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ghi nhận và đánh giá cao bà con kiều bào Việt Nam tại nước ngoài đã tích cực, chủ động hỗ trợ người Việt tại Ukraine trong quá trình sơ tán khỏi vùng chiến sự, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao, hiện nay, tại Ukraine có 7.000 người Việt Nam. Nhiều bà con kiều bào cũng đã tự di dời khỏi vùng chiến sự đến nơi an toàn như sang các nước lân cận Ba Lan, Hungary, Bulgaria. Bộ Ngoại giao đã làm việc với các cơ quan chức năng của cả Nga và Ukraine, Liên hợp quốc và các nước mà công dân Việt Nam sơ tán đến để bảo đảm hành lang di chuyển an toàn cũng như khi đến nơi sơ tán được hỗ trợ kịp thời về điều kiện ăn, ở.

Đến ngày 6-3, có khoảng hơn 400 người Việt Nam từ Ukraine sơ tán qua Romania có nguyện vọng được trở về Việt Nam. Ngoài ra có hơn 1.000 người Việt Nam từ Ukraine sơ tán sang Ba Lan muốn về nước. Dự kiến trong các ngày 8 và 9-3, các cơ quan liên quan của Việt Nam sẽ tổ chức những chuyến bay đầu tiên đưa nhóm kiều bào tại hai khu vực này về nước.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...