Thứ Hai, 2 tháng 12, 2019

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LỜI KÊU GỌI “BẤT TUÂN DÂN SỰ”



Những năm gần đây, thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch thường sử dụng thủ đoạn kêu gọi người dân tham gia “bất tuân dân sự” nhằm tập hợp lực lượng để khi có thời cơ thì tiến hành các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, lật đổ chính quyền. Để không mắc mưu, chúng ta cần nâng cao cảnh giác với những lời kêu gọi “bất tuân dân sự” dưới mọi hình thức.
Theo giải thích của Từ điển mở Wikipedia “Bất tuân dân sự là các hoạt động, công khai từ chối tuân theo một số luật lệ nhất định, yêu cầu và lệnh của chính phủ, hoặc của một quyền lực quốc tế chiếm đóng… Bất tuân dân sự đôi khi, mặc dù không phải luôn luôn, được định nghĩa như là phản kháng bất bạo động”. Cũng theo Từ điển này, những vụ bất tuân dân sự lớn, sớm nhất được thực hành bởi người Ai Cập chống lại sự chiếm đóng của Anh trong cuộc cách mạng Ai Cập năm 1919. Nó đã được sử dụng trong nhiều phong trào phản kháng bất bạo động tại nhiều quốc gia, như: chiến dịch của M. Gan-đi để giành độc lập từ đế quốc Anh ở Ấn Độ; cuộc chiến chống phân biệt chủng tộc của N. Man-đê-la ở Nam Phi; “cách mạng nhung” ở Tiệp Khắc và Đông Đức; “cách mạng ca hát” ở các nước vùng Ban-tích (thuộc Liên Xô) vào những năm cuối thế kỷ XX. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, hình thức này được thực hiện trong “cách mạng hoa hồng” ở Gru-zi-a (năm 2003), “cách mạng cam” ở U-crai-na (năm 2004), “Mùa xuân Ả Rập” ở các nước Trung Đông và Bắc Phi đầu những năm 2010, v.v.
Thời gian gần đây, nhận thấy sự lợi hại của phương thức đấu tranh bất bạo động, các thế lực thù địch ra sức cổ súy cho hình thức “bất tuân dân sự”, xem đó là con đường hữu hiệu để lật đổ chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trên các trang mạng xã hội của các thế lực thù địch xuất hiện nhiều lời kêu gọi thực hiện “bất tuân dân sự” tại Việt Nam, như: “Lối thoát cho Việt Nam - bất tuân dân sự”, hoặc “Bất tuân dân sự - con đường tự do cho Việt Nam”(!), v.v. Họ ra sức tuyên truyền, cổ súy cho các phong trào “bất tuân dân sự” trên thế giới, như phong trào “cách mạng dù” gần đây ở Hồng Kông (Trung Quốc); qua đó, phổ biến kinh nghiệm, giới thiệu các nguyên tắc, hình thức tham gia, hướng dẫn cách đề ra khẩu hiệu, cách mang mặc trang phục và công cụ mang theo của những người tham gia,… với cái gọi là “cẩm nang cho bất tuân dân sự”(!). Các tổ chức phản động ở nước ngoài, như: Việt Tân, Voice cũng mở nhiều lớp huấn luyện nội dung, hình thức “bất tuân dân sự” cho các thành viên để đưa về Việt Nam thực hiện hành động phá hoại. Chúng lợi dụng bức xúc của người dân trước những vấn đề dân sinh, như: vướng mắc về giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, ô nhiễm môi trường; những bất cập, chưa sát thực tiễn của một số chủ trương, chính sách cụ thể; hay những hạn chế, yếu kém của chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý xã hội; hoặc lợi dụng sự ngộ nhận của người dân trước những thông tin bịa đặt, xuyên tạc mà các thế lực phản động, cơ hội,… tuyên truyền để kích động họ tụ tập, phản đối, không thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Qua đó, thúc đẩy hình thành các mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền, hợp thức hóa việc thực hiện mưu đồ tập hợp lực lượng, chống đối chính quyền, để khi mâu thuẫn lên cực điểm, chúng sẵn sàng kêu gọi kết hợp đấu tranh bất bạo động với bạo động để chống chính quyền, như vụ gây rối trật tự công cộng, hủy hoại tài sản nhà nước ở Bình Thuận (tháng 6-2018).
Để ngăn chặn, làm thất bại thủ đoạn kêu gọi “bất tuân dân sự” của các thế lực thù địch, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, tập trung thực hiện tốt các nội dung trọng tâm sau:
Chủ động vạch trần bản chất của thủ đoạn “bất tuân dân sự”, làm cho người dân hiểu rõ những lời kêu gọi “bất tuân dân sự” là một thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm, nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhằm phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước của nhân dân ta. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho người dân thấy rõ bản chất của thủ đoạn “bất tuân dân sự” là những hành động cố ý cản trở việc thực thi luật pháp, chính sách của chính quyền. Nói cách khác, đó là hành động vi phạm pháp luật có chủ ý, thể hiện tư tưởng cực đoan, “vô chính phủ” của cá nhân, tổ chức, hay của một nhóm người cụ thể; đi ngược lại lợi ích chính đáng của đại đa số quần chúng nhân dân. Ở nước ta, khi bị các thế lực thù địch lợi dụng, “bất tuân dân sự” trở thành công cụ để lật đổ chính quyền, thay đổi thể chế chính trị. Do đó, mọi người dân cần đề cao cảnh giác với những lời kêu gọi “bất tuân dân sự” dưới mọi hình thức.
Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân; làm cho khẩu hiệu “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” đi vào thực tiễn cuộc sống, được nhân dân quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh ở mọi lúc, mọi nơi. Theo đó, cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn; trong đó, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác này trong các nhà trường, ở các bậc học, từ bậc phổ thông đến đại học. Các cơ quan thông tin, truyền thông cần phát huy thế mạnh của mình, thường xuyên dành dung lượng phù hợp (số trang, số giờ phát sóng,…) để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; trong đó, cần đẩy mạnh hơn nữa tuyên truyền Nghị định 38/2005/NĐ-CP, ngày 18-3-2005 của Chính phủ “Quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng”. Tập trung làm rõ những hành vi bị cấm, như: “(1). Lợi dụng các quyền tự do dân chủ của công dân để thực hiện hoặc lôi kéo, kích động, mua chuộc, cưỡng ép người khác tập trung đông người nhằm gây rối trật tự công cộng hoặc để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác; (2). Tập trung đông người trái với quy định của pháp luật ở lòng đường, vỉa hè, trước trụ sở cơ quan, tổ chức, tại khu vực đang diễn ra các hội nghị quốc tế, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hoạt động chính trị quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hoặc nơi công cộng khác”, v.v. Hình thức, biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần đa dạng, phong phú, dễ hiểu, dễ chấp hành, phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng cụ thể để nội dung mỗi luật và văn bản quy phạm pháp luật nhanh chóng được người dân tiếp nhận. Chính quyền cơ sở ở các địa phương cần coi trọng việc hướng dẫn người dân cách thức, quy trình, thủ tục khiếu nại, tố cáo, phản biện xã hội theo quy định của pháp luật để người dân thực hiện. Kiên quyết, kiên trì động viên, thuyết phục người dân tự giác chấp hành pháp luật theo đúng quy trình, trình tự; đồng thời, giải thích cho họ hiểu rõ lợi ích của việc tuân theo và hệ quả của việc bất chấp quy trình, thủ tục đã được pháp luật quy định.
Thực hiện tốt nền nếp chế độ tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các địa phương, kịp thời giải quyết các bức xúc của người dân, không để “việc bé xé thành to”, tạo cơ hội để các thế lực thù địch kích động phong trào “bất tuân dân sự”. Theo đó, cấp ủy các địa phương cần thực hiện nghiêm túc Quy định 11-QĐi/TW, ngày 18-02-2019 của Bộ Chính trị về “Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”. Người đứng đầu cấp ủy các địa phương (tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn) không chỉ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân, mà còn phải trực tiếp thực hiện việc tiếp dân (theo định kỳ, hay đột xuất), kịp thời đối thoại với dân khi cần thiết và xử lý, giải quyết các phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân theo thẩm quyền. Cùng với đó, người đứng đầu chính quyền các địa phương phải coi trọng phát huy quyền làm chủ của người dân; nghiêm túc thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở và quy định của địa phương về tiếp công dân để kịp thời giải quyết các vướng mắc, bức xúc chính đáng của người dân. Việc tiếp dân, đối thoại và xử lý, giải quyết những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo phải trên tinh thần tôn trọng, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân; dân chủ, công tâm, khách quan, kịp thời, đúng phạm vi thẩm quyền; trình tự, thủ tục cần đơn giản, tạo thuận lợi cho người dân.
Tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao năng lực nghiên cứu, ban hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đó là những biện pháp nhằm triệt tiêu các nguy cơ tiềm ẩn mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để kêu gọi người dân thực hiện “bất tuân dân sự”. Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp xây dựng Chính phủ “kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”; xây dựng nền hành chính phục vụ, trọng dân và gần dân. Đồng thời, nâng cao hơn nữa năng lực nghiên cứu, đề xuất, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo sát thực tiễn, có tính khả thi cao. Quá trình thực hiện, cần quán triệt tinh thần: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến”1; khắc phục triệt để việc đề xuất, ban hành những chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật xa rời thực tiễn, gây bức xúc dư luận, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng kích động. Muốn vậy, cần coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước thực sự tinh, gọn, hiệu quả; “Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức”2. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; xử lý nghiêm minh các cá nhân tham nhũng, không có “vùng cấm”; qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII); tích cực ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương để bám nắm cơ sở; sớm phát hiện và đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng lôi kéo người dân thực hiện “bất tuân dân sự” ngay khi mới manh nha. Các địa phương cần có các phương án, kế hoạch phòng, chống “bất tuân dân sự”, lồng ghép vào các đợt diễn tập khu vực phòng thủ để đánh giá mức độ sẵn sàng của địa phương. Khi có dấu hiệu xảy ra hiện tượng “bất tuân dân sự”, các lực lượng của địa phương cần bình tĩnh phân tích, đánh giá, xác định rõ nguyên nhân, đúng tính chất của tình hình, không nhầm lẫn giữa mâu thuẫn nội bộ nhân dân với mâu thuẫn địch - ta; đồng thời, khéo léo phân hóa, cô lập kẻ cầm đầu; kiên trì đối thoại, thuyết phục người dân bị lôi kéo không vi phạm pháp luật. Trên cơ sở hiểu rõ nguyên nhân vụ việc, có biện pháp đồng bộ, xử lý triệt để, có lý, có tình; xử lý nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu để răn đe và giáo dục, thuyết phục những người nhẹ dạ, cả tin, bị lôi kéo. Việc huy động các lực lượng tham gia giải quyết các “điểm nóng”, tụ tập đông người, cần thực hiện đúng quy định của Chính phủ, không tùy tiện.
Cùng với những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện đồng bộ các nội dung trọng tâm nói trên sẽ góp phần quan trọng làm thất bại mưu toan kích động “bất tuân dân sự” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.
__________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 169.
2 - Sđd, tr. 178.

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU ĐÒI TÁCH RỜI CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỚI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH



Luận điệu đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh chính là một thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Vạch trần sự sai trái, phi khoa học này là việc làm hết sức cần thiết.
Các thế lực thù địch tung ra luận điệu: chủ nghĩa Mác – Lê-nin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh.
Luận điệu trên của các thế lực thù địch chính là muốn hướng lái dư luận hoài nghi về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gây hoang mang, dao dộng, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thực chất là chúng muốn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng, muốn Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, thực hiện đa nguyên, đa đảng, từ bỏ mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cần khẳng định rõ, luận điệu đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng thể hiện rõ quan điểm thù địch, đi ngược lại lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp công nhân và của cách mạng, dân tộc Việt Nam. Mưu đồ thâm hiểm mà chúng nhằm tới là xuyên tạc, phủ nhận và hạ bệ cả chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xem xét dưới góc độ phương pháp, việc tách rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh là sự nhận thức phiến diện, siêu hình, phi lôgic và lịch sử, không khoa học. Bởi, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở bản chất khoa học và cách mạng, ở lý tưởng và mục tiêu nhân văn vì con người, vì giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là khoa học về những quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống mọi sự áp bức, bất công; về xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin ra đời trên mảnh đất hiện thực là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân - lực lượng xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của lịch sử phát triển nền sản xuất vật chất của nhân loại. Đồng thời, là sự tổng hòa từ nhiều nguồn tri thức của loài người, thu nhận tinh túy từ các tư tưởng tiến bộ và không ngừng được bổ sung, hoàn bị bằng những kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử được khái quát lên tầm lý luận. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin không nhằm tự thân mà nhằm đấu tranh để cải tạo thế giới, hướng đến giá trị nhân văn cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin lấy giai cấp công nhân làm vũ khí “vật chất”, còn giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm vũ khí “tinh thần”.
Dưới góc độ khoa học về lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Về lôgic, tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển, làm phong phú, sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lê-nin; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Đồng thời, là toàn bộ chiến lược từng bước đưa cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; là ngọn cờ tư tưởng và kim chỉ nam dẫn dắt sự nghiệp giải phóng dân tộc trước kia, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Năm 1927, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, viết ở trang đầu tiên, Hồ Chí Minh đã trích lời của V.I. Lê-nin: Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động,… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong. Hồ Chí Minh đã nêu bật tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với Đảng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin”1. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là “cái cẩm nang thần kỳ”, “cái la bàn”, “trí khôn” của Đảng ta. Nó là “vũ khí tinh thần” của giai cấp công nhân, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin “làm cốt” là sự khái quát cô đọng, súc tích và đặc sắc của Hồ Chí Minh về giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác – Lê-nin với vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Như vậy, về bản chất, lịch sử và lôgic, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chứ không hề có sự khác biệt, đối trọng nhau như các thế lực thù địch vẫn rêu rao. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Nền tảng tư tưởng vững chắc, khoa học và cách mạng đó chỉ đạo nhận thức, tư duy và phương hướng hành động đúng cho Đảng ta, trang bị cho Đảng vũ khí tư tưởng để làm tròn vai trò tiên phong lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, đường lối chính trị. Đó là hệ thống những chủ trương, chính sách mang tầm chiến lược, sách lược, được khái quát từ thực tiễn, trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể qua các thời kỳ cách mạng, đáp ứng yêu cầu và soi sáng cho thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, từ khi được soi sáng, dẫn đường bởi chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam mới khắc phục được cuộc khủng hoảng về đường lối và lực lượng lãnh đạo cách mạng, đưa đất nước phát triển phù hợp xu hướng thời đại; giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh không những là cơ sở tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng, mà còn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Là nền tảng tư tưởng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo tư duy, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn trong hoạt động của Đảng ta. Thành công của sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua trước hết là thành công của đổi mới tư duy với nguyên tắc xuất phát từ thực tiễn, trung thành và sáng tạo. Là kim chỉ nam, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo phương hướng hành động, giúp cho Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy dân làm gốc, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, nhân loại đang phát triển trong thời đại của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi cơ bản cách tiếp cận, tư duy, lối sống, phong cách làm việc. Trước sự tác động đó, những lý thuyết phát triển mới sẽ lan rộng và ảnh hưởng đến Việt Nam, làm cho những hạn chế, bất cập trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng như ở nước ta càng bộc lộ rõ, ngày càng thách thức đối với hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch càng ra sức công kích nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình thời cuộc và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nếu không kiên định lập trường, quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ không thể thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Nếu không nắm được bản chất khoa học và cách mạng, không nắm chắc nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì khó lý giải đúng, trúng, thuyết phục những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Do đó, cũng không có cơ sở khoa học chắc chắn nhất để đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trên cơ sở nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên mới có phương pháp luận sắc bén để vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra đối với đất nước và ở từng cấp, ngành, địa phương. Do vậy, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng luôn giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ở chỗ nó được thâm nhập vào quảng đại quần chúng nhân dân, được quần chúng hiểu, tin và làm theo lý luận đó. Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho cán bộ, đảng viên nắm chắc lập trường, quan điểm, phương pháp để xử trí đúng với mọi việc, với mọi người và với bản thân mỗi người; biết vận dụng sáng tạo vào công tác; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Cần tạo ra sự chuyển biến mới về chất lượng, hiệu quả việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị (khóa XII); khắc phục các biểu hiện hình thức, giản đơn và thái độ thờ ơ, xem nhẹ việc học tập lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên.
Các thế lực thù địch tung ra luận điệu đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì vậy, việc kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm có tính nguyên tắc để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần làm thất bại mọi mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam.

QUÂN ĐỘI ĐẨY MẠNH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG



Chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên không gian mạng là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phải phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh đó.
Hiện nay, công nghệ thông tin, không gian mạng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi và xảo quyệt. Chúng thiết lập các trang website, blog, mở các “diễn đàn”, “câu lạc bộ”, phát tán các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung xấu, độc để chống phá. Thủ đoạn chính của chúng là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; khai thác thông tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống rồi xuyên tạc sự thật, thổi phồng thiếu sót khuyết điểm; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ mối quan hệ mật thiết Quân đội với nhân dân, v.v. Qua đó, thúc đẩy nhanh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và Quân đội; truyền bá lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, mục ruỗng về tổ chức, băng hoại đạo đức xã hội. Các thông tin được chúng nhào nặn rất tinh vi, trộn lẫn thật - giả, tốt - xấu, khó nhận diện, trở nên cực kỳ nguy hiểm. Quân đội là một trong những đối tượng chúng chống phá quyết liệt, vì đây là lực lượng chủ yếu, nòng cốt bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của chúng là “phi chính trị hóa” Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất công cụ bạo lực sắc bén, không còn giữ vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.
Nhận thức đúng tình hình đó, công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chặt chẽ. Cấp ủy đảng các cấp trong toàn quân đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Các cơ quan, đơn vị đã chủ động xây dựng cơ quan thường trực, lực lượng nòng cốt, chuyên sâu, tham gia đấu tranh và bảo đảm các điều kiện vật chất thực hiện công tác này ở từng cấp. Đồng thời, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp đã phát huy vai trò nòng cốt trong lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Cùng với đó, toàn quân đã làm tốt công tác giáo dục, định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng; huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng và thường xuyên đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức đấu tranh nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện. Nhờ đó, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh mạng được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Những kết quả quan trọng đó đã khẳng định Quân đội ta luôn xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng thời gian qua còn có những hạn chế, như: lực lượng chuyên trách của một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự chủ động, nhạy bén, sắc sảo; một số sự việc đã bị kẻ xấu lợi dụng, lan truyền nhưng chưa được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời; hình thức tiến hành chủ yếu vẫn là chia sẻ các bài viết có sẵn trên mạng; tần suất những bài viết, thông tin có chiều sâu về lý luận và thực tiễn mang tính định hướng, tính chiến đấu để đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch chưa nhiều, nên chưa tạo được sự chú ý rộng rãi và sức lan tỏa đối với cộng đồng. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một làtăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong công tác quan trọng này. Trước hết, cần xác định: đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là một nội dung quan trọng nhằm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, diễn biến phức tạp, quyết liệt, thường xuyên và lâu dài. Vì vậy, để thống nhất nhận thức và hành động, cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh không khoan nhượng này. Thực hiện tốt Đề án “Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”; đưa nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ hoặc chuyên đề của cấp ủy đảng và nội dung sinh hoạt của tổ chức đảng, sát với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Cấp ủy các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá phù hợp với nhận thức từng đối tượng cụ thể cần tuyên truyền, đấu tranh. Đồng thời, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình trong từng thời kỳ; không giáo điều, rập khuôn máy móc. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đề cao ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định phát ngôn,... nắm chắc tình hình trên mạng xã hội qua blog, facebook,… của những quân nhân có biểu hiện dao động, suy thoái về tư tưởng, chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để có biện pháp giáo dục; trường hợp cố tình vi phạm những quy định phải cương quyết xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Hai làđẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Muốn đấu tranh có hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ trì các cấp phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để làm được điều này, các cơ quan, đơn vị tiếp tục thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Các học viện, nhà trường nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, nghiên cứu lý luận chính trị, cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn trong quan điểm của Đảng về quân sự quốc phòng; luận giải thuyết phục, thấu đáo những vấn đề mới nảy sinh. Đồng thời, kết hợp đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới. Nắm chắc, hiểu rõ về tính hai mặt của không gian mạng cũng như âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch; tạo khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trước các thông tin xấu độc, cũng như tăng cường sức “đề kháng” để chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Ba làchủ động cung cấp thông tin, định hướng nhận thức tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Hiện nay, Việt Nam có hơn 58 triệu người đã sử dụng tài khoản facebook và tiếp nhận rất nhiều thông tin qua mạng xã hội này. Thế nhưng, những nguồn thông tin chính thống và có thẩm quyền từ các cơ quan chức năng trên các trang mạng xã hội lại rất ít. Khi có sự việc nhạy cảm xảy ra thường phản ứng chậm, hình thức thông tin chưa phù hợp,... khiến cho tin giả, tin bịa đặt, tin suy diễn xuất hiện tràn lan, không có nguồn để xác thực, kiểm chứng tính đúng sai, thật giả lẫn lộn, gây xáo trộn, hoang mang dư luận công chúng. Vì vậy, các cơ quan chức năng phải nhạy bén, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin theo Luật An ninh mạng và Quy chế phát ngôn, nhất là các vấn đề có liên quan đến Quân đội. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần chỉ đạo cơ quan chức năng bám sát định hướng của trên, chủ động xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn đơn vị đóng quân. Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo 35 các cấp tập trung biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo,… làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng cho lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Ở từng cấp, cần duy trì tốt nền nếp chế độ hội ý cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp đấu tranh. Trong đó, cần chỉ rõ mục tiêu, luận điểm chống phá của các thế lực thù địch trong các tin, bài; cung cấp luận cứ đấu tranh phản bác từ hệ thống ngân hàng đã được biên soạn sẵn, làm cơ sở cho lực lượng viết bài tham gia đấu tranh.
Bốn làtích cực ứng dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, khai thác có hiệu quả công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Các cơ quan, đơn vị kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng, đặc biệt là Bộ Tư lệnh 86, theo chức năng, nhiệm vụ đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Hoàn thiện, đưa vào khai thác, sử dụng các phần mềm quản lý kết quả đấu tranh và hỗ trợ các hoạt động đấu tranh trên không gian mạng, thực hiện các chiến dịch truyền thông chủ động. Nghiên cứu, đề xuất việc sử dụng phần mềm Mocha Viettel, sản xuất điện thoại di động nội bộ, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí bảo đảm an toàn, vừa góp phần quản lý tình hình tư tưởng, dư luận và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ Quân đội trên không gian mạng.
Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu, các đơn vị Quân đội cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

CỤC BỘ, BÈ PHÁI TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ - HỆ LỤY VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH



Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ: cục bộ, bè phái trong công tác cán bộ là căn bệnh rất nguy hiểm, một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, nhận diện và kiên quyết đấu tranh, loại bỏ “căn bệnh” nguy hiểm này, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao sức chiến đấu, uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề cấp bách hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng thời đánh giá cao vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ. Người khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc; huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”1. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đã sớm phát hiện những “lỗ hổng” và hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ. Trong đó, “cục bộ, bè phái” là “căn bệnh” rất nguy hiểm, gây mất đoàn kết trong Đảng, làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, dẫn đến suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
 Hiện nay, căn bệnh này đã và đang len lỏi, biến hóa rất tinh vi trong thực hiện nguyên tắc, quy chế, quy định, quy trình của công tác cán bộ. Và có thể nhận diện rõ,  như: tư tưởng “một người làm quan, cả họ được nhờ”, “hậu duệ”, “đồ đệ”, “địa phương chủ nghĩa”, “lợi ích nhóm”, “cánh hẩu”, v.v. Điều đó dẫn đến việc xem xét, quy hoạch, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ sai lệch, nảy sinh cơ hội, tham nhũng và nhiều căn bệnh khác nguy hại cho Đảng, cho tổ chức, v.v. Dễ nhận thấy là, hành vi trái nguyên tắc, vi phạm dân chủ, đề cao cá nhân, độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, thậm chí biến cơ quan thành “gia đình trị”, để rồi xuất hiện những “cấp ủy nội tộc”, “chi bộ dòng họ”, “ủy ban dòng họ A”, “cơ quan bộ của tỉnh B”, ngành của “biển số xe C”, v.v. Điều đó tất yếu làm nảy sinh các hành vi: xu nịnh, tâng bốc, bao che khuyết điểm, dìm người tốt, người thẳng thắn, trung thực; thậm chí vi phạm nguyên tắc trong bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm bằng các hành vi vận động hành lang, vận động dòng họ, vận động không bầu cho cán bộ luân chuyển từ địa phương khác đến, rỉ tai, mua chuộc, ép buộc, đe dọa những người không a dua theo; cất nhắc, bổ nhiệm những người thân quen không đủ điều kiện, tiêu chuẩn, uy tín, rồi bao biện “cho nợ tiêu chí”, “bồi dưỡng sau, vừa làm vừa bồi dưỡng”, v.v.
Những biểu hiện trên của “căn bệnh” này là rất nguy hại, làm chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, mất niềm tin của cán bộ vào tổ chức, xa rời quần chúng nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”2; đồng thời, nó chính là căn nguyên thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm mất sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, làm suy yếu Đảng và đội ngũ cán bộ của Đảng.
Tính chất nguy hại của tư tưởng, biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ còn là cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận thành tựu của công tác xây đảng nói chung, công tác cán bộ của Đảng ta nói riêng. Đặc biệt, trước thềm Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch tiếp tục tìm mọi cách đưa ra những luận điệu phản động, tuy không mới nhưng với tần suất cao hơn, tinh vi và xảo quyệt hơn, như: “cuộc đấu tranh chống tham nhũng vừa qua chỉ là cuộc đấu đá, thanh trừng lẫn nhau giữa các phe cánh trong Đảng Cộng sản Việt Nam”, “chủ trương không có vùng cấm, không có ngoại lệ chỉ là khẩu hiệu suông”, “hạ bệ được quan tham này, thì quan tham khác lại xuất hiện”, v.v. Đây là những luận điệu vô cùng nguy hiểm, đánh vào ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Những biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ hiện nay do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do nhận thức sai lệch về công tác cán bộ của Đảng, sự chi phối bởi lợi ích, nhất là về quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết trong Đảng và sự lợi dụng chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, để đấu tranh, loại bỏ triệt để những biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay cần phải được tiến hành đồng bộ, quyết liệt; trong đó, tập trung thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiến hành đợt sinh hoạt chính trị sâu, rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về tính chất nguy hại của biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ, cùng những giải pháp, cách thức phòng ngừa, đấu tranh. Đây là giải pháp quan trọng, không chỉ nâng cao vai trò tiền phong, bản chất cách mạng của người cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn khơi dậy và phát huy vai trò, trách nhiệm trong phòng ngừa, đấu tranh với căn bệnh nguy hại - “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ được giao trọng trách tiến hành công tác cán bộ của Đảng. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang chuẩn bị tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, để công tác chuẩn bị nhân sự cán bộ cho nhiệm kỳ mới đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, lựa chọn được các đồng chí thực sự tiêu biểu về tài, đức vào vị chí lãnh đạo, không có biểu hiện “cục bộ, bè phái”, các cấp, các ngành phải tiến hành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng; trọng tâm là, quán triệt sâu sắc Chỉ thị 35-CT/TW, ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đặc biệt, phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quy định 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, nhất là những nội dung trực tiếp ngăn chặn biểu hiện “cục bộ, bè phái”, như: tự giác báo cáo với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo quản lý khi có người thân (bố, mẹ, vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột) là người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thực hiện quy trình công tác cán bộ. “Nghiêm cấm các hành vi: Để người khác, nhất là vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để thao túng, can thiệp công tác cán bộ”3. Để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần quan điểm “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị” hiện nay. Từ đó, chuyển biến về nhận thức, đấu tranh kiên quyết ngay từ trong suy nghĩ, tư tưởng, đến hành động của mỗi cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ được giao trọng trách tiến hành công tác cán bộ.
Hai là, đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo và các khâu, bước, quy trình công tác cán bộ. Trên thực tế, tình trạng “cục bộ, bè phái” thường tiềm ẩn trong tư tưởng, suy nghĩ và hành động của cả người được giao trọng trách làm công tác cán bộ và cả phía cán bộ, đảng viên thuộc đối tượng của công tác cán bộ; thường nảy sinh ngay trong quá trình tiến hành các khâu, các bước trong quy trình công tác cán bộ. Thực tiễn cho thấy, ở đâu cấp ủy đảng luôn chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, xây dựng được quy chế, thực hiện nghiêm quy chế, quy định, xây dựng hệ thống tiêu chí cán bộ một cách đồng bộ, chuẩn hóa, thì ở đó công tác cán bộ bảo đảm chất lượng, không có hiện tượng mất dân chủ, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, bè phái trong công tác cán bộ và ngược lại. Do đó, đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng có vai trò hết sức quan trọng trong khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh trong công tác cán bộ. Trong đó, các cấp, các ngành và địa phương cần đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư, cấp ủy cấp tỉnh, huyện không là người địa phương; luân chuyển cán bộ, đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ,… góp phần khắc phục tư tưởng, biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát, giám sát nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ, bè phái trong các khâu, các bước quy trình công tác cán bộ. Đây là giải pháp quan trọng, có có ý nghĩa trực tiếp khắc phục biểu hiện “cục bộ, bè phái” khi mới nảy sinh. Khi cơ chế và công tác kiểm soát, giám sát càng chặt chẽ, đầy đủ thì nguy cơ, biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ sẽ được hạn chế, loại bỏ. Theo đó, cấp ủy đảng, trước hết là ủy ban kiểm tra các cấp, từ Trung ương đến địa phương, cơ sở phải phát huy cao độ vai trò, trách nhiệm trong sàng lọc, phát hiện những biểu hiện “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ. Phải kiểm soát quyền lực một cách thực sự, chặt chẽ, kết hợp kiểm soát từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài; chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, họ hàng trong công tác cán bộ. Đồng thời, cần có cơ chế và chú trọng phát huy vai trò phản biện dư luận xã hội, ý kiến của nhân dân thông qua các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, trong tiến hành công tác cán bộ. Đây là một trong những kênh, biện pháp rất quan trọng góp phần ngăn chặn tệ “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ.
Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cấp ủy viên và người đứng đầu cấp ủy. Công tác cán bộ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các cấp ủy đảng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng đóng vai trò quyết định đến sự thành công của công tác cán bộ nói chung và trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ nói riêng. Vì vậy, cùng với việc chấp hành nghiêm điều lệ, quy chế, giữ vững nguyên tắc, dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, các cấp ủy đảng, người đứng đầu cấp ủy phải trung thực, nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, khắc phục ngay trong mình những biểu hiện cục bộ, địa phương, “cánh hẩu”, né tránh, nể nang, ngại va chạm. Phải có dũng khí, dám thẳng thắn bảo vệ cái đúng, kiên quyết can ngăn cái sai, chống cho được tệ bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và cũng không để bị lợi ích nào cám dỗ, chi phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen. Thực hiện đúng đắn, đầy đủ những nội dung trong Quy định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó có công tác cán bộ. Kiên quyết không bố trí cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, nhất là đối với người nhà, người thân; để vợ (chồng), bố, mẹ, con, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để vụ lợi. 
Căn bệnh “cục bộ, bè phái” trong công tác cán bộ hiện nay biểu hiện hết sức tinh vi, gắn chặt với những căn bệnh chạy chức, chạy quyền, lợi dụng, lạm dụng quyền hạn, chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, v.v... Do đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và hệ thống chính trị cần phải có quyết tâm cao, kiên trì, dũng cảm và có nhiều phương thức, biện pháp kiên quyết đấu tranh khắc phục nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, toàn Đảng luôn đoàn kết, thống nhất, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, hoàn thành sứ mệnh và xứng đáng là người lãnh đạo đất nước, dân tộc trong tình hình mới.
_________________
1 - Hồ Chí Minh- Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 10.
2 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 297.
3 - Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị“Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, Hà Nội, ngày 23 tháng 9 năm 2019.


ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI TRÊN LĨNH VỰC VĂN HỌC – NGHỆ THUẬT HIỆN NAY



Văn học - nghệ thuật là một trong những lĩnh vực mà các thế lực thù địch, phản động cùng những phần tử cơ hội thường xuyên lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta. Những biểu hiện của âm mưu này ra sao, cần có lý giải như thế nào là những câu hỏi bức thiết cần được giải đáp.
Văn học - nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của văn hóa, tác động trực tiếp đến quan điểm, nhận thức, tư tưởng, tình cảm và thẩm mỹ của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nếu như văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là sức mạnh nội sinh của đất nước, thì văn học - nghệ thuật là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân - thiện - mỹ của con người, là một trong những nguồn lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhận thức sâu sắc điều đó, trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển văn học - nghệ thuật theo hướng vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa bảo tồn cốt cách, bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Vì vậy, văn học - nghệ thuật của nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp tham gia sự nghiệp đổi mới đất nước, miêu tả chân thật, sinh động sự nảy sinh và phát triển cái mới, cái tốt đẹp, cao cả trong đời sống; đồng thời, nghiêm khắc lên án, phê phán những cái xấu xa, thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển con người, phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, có một thực tế là tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật đã thể hiện ngày càng rõ hơn, tinh vi hơn, cả trực tiếp lẫn gián tiếp trong quá trình sáng tạo, quản lý, truyền bá lý luận, phê bình văn học - nghệ thuật. Chúng xác định đây là “mũi đột phá”, “thọc sâu”, nhằm làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo “khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào và tiến tới xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số hoạt động văn học - nghệ thuật, một số tác phẩm xa rời những vấn đề lớn của đời sống đất nước, lảng tránh những vấn đề đang đặt ra trong sự phát triển; đi vào những cái tầm thường, coi đó là mục tiêu của sáng tạo văn học - nghệ thuật. Nghiêm trọng hơn là trong giới văn nghệ sĩ đã có người phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Đã xuất hiện nhiều tác phẩm có dụng ý chính trị rõ rệt phủ định con đường và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội, cổ súy quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Họ sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn học - nghệ thuật lệch lạc, bóp méo, bôi đen lịch sử hoặc dùng những hình tượng mang tính ẩn dụ đen tối nhằm giễu nhại con đường cách mạng của dân tộc mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Mặc dù một số văn nghệ sĩ kể cả ở trong nước và hải ngoại luôn rêu rao quan điểm “Văn học - nghệ thuật chân chính phải độc lập với chính trị”, nhưng họ lại luôn sử dụng văn học - nghệ thuật làm công cụ tuyên truyền nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Thực chất, họ đã dùng những thủ pháp nghệ thuật để vu cáo, xuyên tạc, bôi bẩn các giá trị văn hóa dân tộc, các thành tựu cách mạng cả trong quá khứ và hiện tại.
Theo suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải trải qua biết bao hy sinh, gian khổ trong các cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Các tác phẩm văn học - nghệ thuật theo đó cũng đồng hành cùng công cuộc trường chinh của dân tộc, khích lệ, cổ vũ tinh thần yêu nước của quân và dân ta. Thế nhưng, các thế lực thù địch - những kẻ cơ hội chính trị vẫn lừa phỉnh độc giả, cố tình bóp méo sự thật. Với luận điệu Nổi loạn là bản chất của sự sáng tạo,... những tác giả có ý đồ cố tình công bố những tác phẩm xếp vào hàng “đổi mới”, nhưng kỳ thực không có tư tưởng gì mới, mà chỉ bộc lộ những bất mãn, chống đối, xuyên tạc và vô hình làm cho các thế lực thù địch triệt để lợi dụng tung hô, cổ súy. Họ đang mưu toan dấy lên một cuộc gọi là “chấn hưng văn hóa dân tộc” bằng việc phủ nhận, cố tình lãng quên thành tựu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Những tác phẩm họ đã công bố là thứ văn chương mưu đồ chính trị rõ rệt. Trong khi luôn kêu gào phải “cởi trói” cho văn nghệ sĩ và văn học phải độc lập với chính trị, một số nhà văn, nhà thơ còn có tư tưởng (và ôm mộng) nguyền rủa, chửi bới văn học cách mạng. Hùa theo khuynh hướng này là một số nhà phê bình văn học đã dùng mọi thủ pháp học thuật để tìm cách lăng xê tác giả - tác phẩm, coi đó là những tác phẩm văn học đích thực, là sáng tạo, là đổi mới, v.v. Một điều dễ nhận thấy là, nội dung chính của những tác phẩm dạng này có tư tưởng khôi phục, giải oan, đề cao các nhân vật lịch sử đã từng có tội với dân tộc. Tiêu biểu, như: xét lại hoàn cảnh trốn chạy, đầu hàng giặc Nguyên Mông của gia quyến Trần Ích Tắc; tư tưởng thương dân, tránh đổ máu của Phan Thanh Giản; lòng yêu nước của Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, v.v. Thiết nghĩ, những trang viết về các nhân vật kể trên nhằm giải thích cho sự phản bội đầu hàng, sự hèn nhát với giặc để đánh tráo công - tội là luận điệu rất xảo trá và nhuốm màu đen tối, đi ngược hoàn toàn với thực tiễn lịch sử văn học cách mạng.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tăng cường kích động xu thế “giải thiêng” trong văn học. Về bản chất, xét mặt tích cực, đây là một trong những dấu hiệu thể hiện sự đổi mới trong tư duy, cảm thức, cách tiếp cận và phương thức tự sự lịch sử đương đại. Tuy nhiên, một số cây bút có tư tưởng phản động đã cố tình “cài cắm” luận điệu tự do trong sáng tác và coi đó là “bản lĩnh” của các nhà văn. Thậm chí họ còn cả gan phát tán những tài liệu, công trình nghiên cứu, trích dẫn và bình luận với dụng ý xấu các cuốn sách, tư liệu khiến cho hình tượng mất đi tính huyền thoại, sự tôn nghiêm, làm giảm đi giá trị lịch sử của thần tượng. Đáng chú ý là, xuất hiện một số tác giả cổ súy cho xu hướng này và khẳng định như là một sự “cách tân” trong văn học. Đó thực sự là một mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch trên mặt trận mềm, đáng tiếc là một số cây bút chủ quan, mất cảnh giác vội vã ủng hộ sự hạ bệ, giải thiêng đầy ắp động cơ chính trị. Họ không nhận ra rằng, điều đó đã góp phần làm xói mòn giá trị chân, thiện, mỹ cao đẹp, đánh mất lòng tự tôn, tự hào dân tộc, coi nhẹ giá trị nhân văn cốt lõi của sáng tạo văn học nghệ thuật. Biểu hiện thường thấy là một số tác giả hải ngoại đã phát tán nhiều tài liệu, bình luận với dụng ý hạ thấp, bôi nhọ danh dự Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố tình trích dẫn và bình luận dụng ý xấu các cuốn sách, tư liệu đã hội thảo về Bác Hồ, các chí sĩ yêu nước, anh hùng dân tộc. Một số tác giả công bố những bài phân tích ca ngợi một chiều các nhân vật cơ hội chính trị, tư tưởng dao động bằng nhiều chi tiết không có thật, ca ngợi một chiều, lẩn tránh cái nhìn toàn diện, biện chứng và dẫn đến sự cố tình không trung thực trong học thuật. Do vậy, hơn lúc nào hết, người đọc hiện nay cần có cái nhìn khách quan, trung thực, biết gạn đục, khơi trong để không mất thì giờ với những câu chuyện bịa đặt.
Một biểu hiện nguy hiểm khác đó là, để đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, âm mưu của các thế lực thù địch là nhất thiết phải thực hiện “dân chủ” trong đời sống xã hội; tăng cường kích động văn nghệ sĩ phát tán những công trình nghiên cứu, lôi kéo một bộ phận văn nghệ sĩ ngả nghiêng theo các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật về Đảng và Nhà nước ta với mục tiêu hòng thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam bằng hệ giá trị văn hóa tư sản. Bằng sự ảnh hưởng của tên tuổi các nhà văn, nhà thơ lớn, họ có thể dễ dàng đưa ra những lập luận, quan điểm và hướng dư luận đi theo mình. Trước những vấn đề nhạy cảm chính trị, những văn nghệ sĩ có tư tưởng ngả nghiêng thực sự là mối nguy hại khó lường. Biểu hiện thường thấy đó là các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề bức xúc của xã hội, làm nóng lên những vấn đề là hiện tượng như khiếu kiện đất đai, công cuộc phòng chống tham nhũng của Đảng ta, tình hình Biển Đông,... nhằm thổi phồng những nguy cơ, mặt trái của đời sống xã hội để tăng cường chống phá. Có tác phẩm đòi lật án, xét lại như vấn đề cải cách ruộng đất trước đây. Còn có những quan điểm nhầm lẫn giữa cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc chống kẻ thù xâm lược với những cuộc nội chiến phi nghĩa, hao xương tổn máu mà các thế lực phản động quy kết, xuyên tạc chân lý, giễu nhại con đường cách mạng mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Một số văn nghệ sĩ chỉ chú trọng “phanh phui” mặt tiêu cực, góc tối, cái xấu của xã hội và con người với một giọng điệu đầy ác ý và vô cảm. Số lượng “tác phẩm” loại này không nhiều nhưng tác hại lại rất lớn, vì nó đánh phá vào niềm tin của con người; dẫn dụ một bộ phận cán bộ, quần chúng tự tách mình ra khỏi cuộc sống, tự coi mình là vô can để có quyền phủ định, giễu nhại, phán xét.
Trong Lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam (tháng 7-2018), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: văn học - nghệ thuật trực tiếp tham gia công cuộc đổi mới đất nước, miêu tả cho hay, cho chân thực, cho sinh động và có sức thuyết phục sự nảy sinh và phát triển cái mới, cái tốt đẹp, cao cả trong đời sống. Dũng cảm phê phán, lên án những cái xấu xa, thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất, tham nhũng, thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội, qua đó góp phần thiết thực vào sự thắng lợi của sự nghiệp phát triển con người, phát triển đất nước. Đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của văn học - nghệ thuật Việt Nam hôm nay và mai sau. Đồng thời, cũng thể hiện quan điểm và tư duy biện chứng, xuất phát từ thực tiễn của Đảng ta trên cơ sở thấu hiểu sâu sắc sứ mệnh, chức năng, nhiệm vụ của văn học - nghệ thuật. Trong các chức năng lớn của văn học - nghệ thuật, như: chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, thì giáo dục là chức năng chủ chốt, góp phần điều chỉnh xã hội. Trong đời sống hiện nay, có thể dễ dàng nhận thấy sự xuống cấp của đạo đức xã hội, sự băng hoại văn hóa truyền thống, đặc biệt là sự suy thoái về tư tưởng, phẩm chất cách mạng của một số cán bộ, đảng viên đã trở thành lực cản với sự phát triển của đất nước. Sự xuống cấp đó, một phần do chúng ta chưa coi trọng phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc phát triển văn hóa, con người. Hơn nữa, tác động tinh vi của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật trong thời kỳ mới vừa là vấn đề của chính trị, vừa là vấn đề của khoa học. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hóa, văn nghệ là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, tinh tế và nhạy cảm. Vì thế, bảo vệ vững chắc, chủ động, kiên định và linh hoạt lĩnh vực này là góp phần trực tiếp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho văn nghệ sĩ sáng tạo, cũng cần kịp thời phát hiện, ngăn ngừa các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, giá trị của những tác phẩm văn học - nghệ thuật chẳng những để làm gương cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau. Trách nhiệm đó đang đặt lên vai các văn nghệ sĩ, đưa nền văn học -  nghệ thuật ngày càng tiến bộ, luôn là một phần tinh túy của văn hóa, là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực phát triển đất nước.

HƯ CẤU HAY BÔI NHỌ ANH HÙNG DÂN TỘC



Thời gian qua, một số người đã tự cho mình “quyền năng hư cấu” trong sáng tác văn học, nghệ thuật, bịa đặt ra những chi tiết phi lý, bôi nhọ, xúc phạm các danh nhân, anh hùng dân tộc. Đây đích thực là hành động phi nghệ thuật, mượn danh nghệ thuật để tuyên truyền những giá trị phi nhân văn, phản động, xuyên tạc lịch sử cần lên án, đấu tranh loại bỏ.
Đó chính là việc một số văn nghệ sĩ hoặc là do hạn chế về kiến thức lịch sử, hoặc là do non kém về tay nghề đã có những sáng tác hoặc phát ngôn thể hiện thái độ “đạp đổ”, “hạ bệ”, bịa đặt, bôi đen các danh nhân lịch sử - văn hóa, anh hùng dân tộc. Họ đã mượn “tinh thần đổi mới” để biểu đạt những anh hùng dân tộc bằng một cách nhìn, cách tiếp cận theo hướng của con người tự nhiên, con người bản năng; đưa hình tượng nghệ thuật là những anh hùng, vĩ nhân về với đời thường, để họ “thật hơn”, có “chất người” hơn. Họ còn cho rằng: “không nên phong thánh cho con người, hãy trả con người về với đúng kích thước của nó”. Thậm chí, có người coi hư cấu các nhân vật anh hùng trong lịch sử là “quyền sáng tác của nhà văn”, sự đồng tình hay phản bác là quyền của bạn đọc - đó là “biểu hiện của cái nhìn dân chủ”(!)
Cái thứ được gọi là “biểu hiện của cái nhìn dân chủ”, hay chỉ là mượn dân chủ, lợi dụng văn học, nghệ thuật để bịa đặt, đưa ra những thông điệp mù mờ, bệnh hoạn để xuyên tạc những hình tượng đã “đóng đinh” trong lòng nhân dân ta, dân tộc ta; làm cho mọi người hoài nghi nhân tính, có cái nhìn méo mó, lệch lạc, biến dạng các giá trị lịch sử và nhân cách văn hóa của các anh hùng dân tộc trong đời sống tinh thần của nhân dân, gây tổn thương lương tri, đạo lý dân tộc. Đó thực sự là hành động phản bội lại lịch sử, bôi nhọ tổ tiên, phủ nhận giá trị lịch sử, văn hóa, phủ nhận truyền thống, đạo lý mà dân tộc ta đã xây dựng hàng nghìn năm.
Như chúng ta đã biết, văn học, nghệ thuật thuộc ý thức xã hội, phản ánh hiện thực bằng các hình tượng nghệ thuật cụ thể. Văn học, nghệ thuật có đa chức năng, như: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, giải trí, giao tiếp, tổ chức, điều chỉnh xã hội, v.v. Không thể phủ nhận khả năng kỳ diệu của văn học, nghệ thuật; đó là giúp con người nhận thức, khám phá hiện thực khách quan, làm chuyển biến tư tưởng, tình cảm, điều chỉnh hành vi sống và thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người và xã hội. Người nghệ sĩ tài năng là người nắm bắt một cách mẫn cảm lý tưởng của thời đại, xây dựng nên hình tượng nghệ thuật để hướng dẫn con người theo tư tưởng, hành động cao đẹp. Mặc dù hình tượng nghệ thuật là sự chứa đựng trong đó những vấn đề về cuộc sống, nhưng không phải là sự sao chép nguyên bản hiện thực cuộc sống, mà quá trình xây dựng hình tượng nghệ thuật đòi hỏi phải có sự kết hợp cả nguyên tắc khái quát hóa và điển hình hóa. Nghĩa là, từ những vấn đề thực tiễn của đời sống hiện thực, người nghệ sĩ phải khái quát hóa để tìm ra được cái bản chất, cái quy luật của cuộc sống. Điển hình hóa là phải tìm ra được cái riêng, cái cá tính, cái điển hình trong cái chung. Để kết hợp được khái quát hóa và điển hình hóa trong hình tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ cần có sự hư cấu. Tuy nhiên, sự hư cấu phải có hạn độ.
Tưởng tượng, hư cấu là thuộc tính của văn học, nghệ thuật và là quyền năng sáng tạo của văn nghệ sĩ, nhưng phải dựa trên nguyên tắc cao nhất là chân - thiện - mỹ. Hư cấu phải là sự tập hợp, sắp xếp, lựa chọn nhiều tài liệu từ một hay nhiều hiện tượng khác nhau mà tái tạo, tìm kiếm thông qua trí tưởng tượng để tạo dựng nên một sự vật, hiện tượng mới vừa riêng biệt vừa thể hiện được bản chất của cuộc sống. Trong sáng tạo nghệ thuật, bất kỳ tác phẩm nào cũng phải có hai phần: phần từ đời sống thực và phần hư cấu của văn nghệ sĩ. Hai phần này có vai trò, vị trí ngang nhau, không thể thiếu nhau và không thể đối lập, tách biệt nhau. Nếu tác giả nào đó chỉ quan tâm, đề cao phần đời sống thực thì tác phẩm ấy sẽ thành tư liệu lịch sử, ghi chép đời sống, không thể là nghệ thuật - sáng tạo. Ngược lại, nếu ai tự vỗ ngực cho rằng: tôi là văn nghệ sĩ, tôi sáng tác tác phẩm lịch sử, tôi không cần sự chuẩn xác của lịch sử, tôi chỉ cần hư cấu,... thì tác phẩm đó sẽ phi thực tế, phi lịch sử. Như vậy, họ sẽ đánh mất đi vai trò văn nghệ sĩ chân chính của chính mình.
Đối với đề tài về các anh hùng dân tộc, hư cấu được xem như một quy luật điển hình hóa trong văn học, nghệ thuật để có nhận thức sâu sắc hơn về bản thân họ, để hình tượng nghệ thuật - người anh hùng dân tộc sinh động hơn, điển hình hơn, khái quát hơn; nghĩa là mang những đặc điểm thẩm mỹ chân thực hơn mà không làm mất đi sự tự do sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Hư cấu là để thỏa mãn nhu cầu khám phá bản chất thật, bản chất “người” của những nhân vật lịch sử là thần tượng của công chúng, nhưng phải giúp cho mọi người có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc và nhân văn hơn.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng giải phóng dân tộc và chống giặc ngoại xâm; họ cũng đồng thời là những danh nhân văn hóa, đại biểu của văn hóa dựng nước, giữ nước. Đó là những thần tượng trong lòng nhân dân, là sự phóng chiếu tư tưởng, đạo đức, khát vọng của cộng đồng; đồng thời, là chất liệu để dệt nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt và cũng đặt ra bổn phận cho văn học - nghệ thuật. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: cái cao quý của một đất nước, một dân tộc là ở giá trị văn hóa; văn học - nghệ thuật có nhiệm vụ và tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị cao quý ấy. Theo đó, trong văn học - nghệ thuật, cái nhìn lý tưởng hóa đã xây dựng nên hình tượng nhân vật trung tâm với tư thế và vẻ đẹp hào hùng. Họ chính là hóa thân của một dân tộc anh hùng; mang trong mình những phẩm chất giản dị, bình thường mà phi thường về sức mạnh tinh thần. Cho nên, trong sáng tạo nghệ thuật, những anh hùng dân tộc cần được ghi nhận, mô tả như những con người đẹp nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến đấu nhưng không khiên cưỡng, xơ cứng, mà trở nên sinh động hơn, gần gũi hơn với đời thực, làm cho những hình tượng này đẹp lên trong con mắt của các thế hệ sau.
Sáng tác các loại hình văn học, nghệ thuật về các anh hùng dân tộc, trước hết tác giả phải có cái “tâm”, không được đem “tà tâm” gửi vào tác phẩm của mình. Bởi, sáng tác về các anh hùng dân tộc là sáng tác những hình tượng nghệ thuật, mà qua đó khái quát nên những quy luật lịch sử, những bài học nhân sinh một cách gián tiếp theo phương thức tiếp nhận đặc thù của nghệ thuật. Xây dựng hình tượng người anh hùng dân tộc trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật là một hình thức giáo dục sinh động, dễ nhớ và gây ấn tượng sâu sắc để người đọc, người xem hiểu biết đầy đủ những giá trị lịch sử truyền thống của các thế hệ đi trước, xây dựng lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức, trách nhiệm tiếp tục phát huy giá trị truyền thống đó. Trên cơ sở quan điểm, lý tưởng thẩm mỹ và sự cảm nhận sâu sắc, lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ những anh hùng dân tộc, bằng tài năng sáng tạo và trách nhiệm công dân của mình, văn nghệ sĩ cần tạo ra các tác phẩm văn học - nghệ thuật về những nhân vật lịch sử này để góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục, định hướng cho con người vươn tới. Do đó, hư cấu về anh hùng dân tộc trong văn học, nghệ thuật tuyệt nhiên không phải là phóng đại, bịa đặt, gán ghép cho nhân vật lịch sử những chi tiết về tính cách, tình cảm, tư tưởng xa lạ. Ngược lại, hư cấu luôn phải được kiểm soát bằng lô-gic của nghệ thuật và lịch sử. Qua sự hư cấu hình tượng những anh hùng dân tộc mà tác động vào tư tưởng, tình cảm con người, tạo nên những ấn tượng sâu sắc, thấm thía, lâu bền; không gò bó, áp đặt, mà tự nguyện, tự giác, tự cảm hóa, khuyên răn con người. Đó là quá trình tự giáo dục, tự trải nghiệm, tự thừa nhận, tự điều chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức của các hình tượng nghệ thuật mà tác phẩm đó xây dựng nên. Con người sẽ tự rút ra bài học, tự điều chỉnh hành vi, lối sống để hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống.
Là quốc gia có vị thế địa chính trị quan trọng, đất nước và con người Việt Nam luôn gắn liền với bề dày lịch sử hào hùng, với nhiều biến động, nhiều sự kiện, thời khắc cá nhân anh hùng mang dấu ấn thời đại. Ðây chính là nền tảng, là kho tư liệu vô giá để gợi mở nhiều cảm hứng sáng tác cho đội ngũ văn nghệ sĩ. Trong bầu không khí đổi mới của đất nước hơn 30 năm qua, văn học - nghệ thuật Việt Nam đã có những tác phẩm tìm tòi sáng tạo theo khuynh hướng này và đạt được những giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật nhất định. Những tác phẩm ấy đã phần nào giúp công chúng tiệm cận gần hơn với các bậc vĩ nhân, anh hùng dân tộc, nhân vật lịch sử,… khi họ được miêu tả gần hơn với cuộc sống đời thường, để công chúng chiêm ngưỡng và học tập; qua đó, góp phần vun đắp cho một hiện tại tốt đẹp hơn. Nhưng thực tiễn sáng tạo văn chương nói chung, sáng tạo nghệ thuật về các anh hùng dân tộc nói riêng lại chưa đáp ứng được kỳ vọng của xã hội, của cộng đồng thưởng thức, chưa sánh vai được với một số quốc gia trong khu vực. Hiện nay, chúng ta đang thiếu hẳn tác phẩm lịch sử có giá trị nhân văn sâu sắc về các anh hùng dân tộc, như: “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, “Trăng nước Chương Dương”, “Ông trạng thả diều”, v.v. Trong khi đó, những tác phẩm như kiểu “Trở lại Lệ Chi Viên” của Nguyễn Thúy Ái1 đã hư cấu theo kiểu “thêm râu thêm ria” với những chi tiết xúc phạm Danh nhân văn hóa, Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Thật không thể chấp nhận được khi Nguyễn Trãi trong tác phẩm đó lại là con người háo danh, mưu mô với những mưu đồ chính trị đen tối, v.v. Thực chất, đây chính là sự lợi dụng văn học - nghệ thuật để xuyên tạc, bóp méo lịch sử, làm biến dạng anh hùng dân tộc, làm tầm thường hóa cái cao cả, gây tổn thương lương tri, đạo lý dân tộc. Và đó sẽ là những nhân tố, những điều kiện để các thế lực đen tối, phần tử phản động,... mượn cớ để xét lại lịch sử, phủ nhận truyền thống, đạo lý của dân tộc; dần dần làm phai nhạt, dẫn đến mất dần nền văn hóa tốt đẹp, truyền thống hào hùng hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Những tư tưởng, hành động đó cần được cả xã hội kiên quyết đấu tranh, lên án, làm cho chúng không có “mảnh đất dung thân”, để cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại.
Đại tá, TS. PHẠM QUANG THANH, Trường Sĩ quan Chính trị
_______________
1 - Truyện ngắn “Trở lại Lệ Chi Viên” (trong tập truyện Tột đỉnh tình yêu) đã bị Nhà Xuất bản Trẻ quyết định thu hồi sau hai tháng ra mắt độc giả.

NHẠT PHAI LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG - “ĐƯỜNG GẦN” DẪN ĐẾN SUY THOÁI



QĐND - Trong thời khắc thiêng liêng của buổi lễ kết nạp Đảng, lời nói đầu tiên của mỗi đảng viên vang lên tha thiết, xúc động từ trái tim mình là: “Trước Quốc kỳ, Đảng kỳ và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tôi xin thề “Tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng…”.
Lời thề đó được nhiều thế hệ đảng viên cộng sản khắc cốt ghi tâm trong suốt cuộc đời, nhưng cũng có người để cho lý tưởng cách mạng của Đảng “buông trôi”, nhạt nhòa theo năm tháng, thậm chí đi ngược lại lý tưởng mình hằng theo đuổi, tôn thờ.
Từng có ý kiến cho rằng, thời buổi kinh tế thị trường mà nói đến lý tưởng cách mạng nghe có vẻ cũ kỹ, sáo mòn, khô khan, không hợp thời, khó hội nhập với thế giới. Thậm chí có ý kiến khuyến nghị: Cứ tập trung chăm lo phát triển kinh tế, làm giàu đi, khi mọi người, mọi nhà đều sung túc, của cải xã hội dồi dào, thì đương nhiên là hiện thực hóa lý tưởng rồi. Thoạt nghe thì tưởng đúng, nhưng sự thật đó là thái độ cổ xúy cho tư tưởng cấp tiến, dễ làm những người cộng sản rơi vào tâm thế dao động, thiếu lập trường kiên định, mất phương hướng rèn luyện, phấn đấu để thực hiện những mục đích cao cả mà sự nghiệp cách mạng đã đặt ra.
Thời nào cũng vậy, lý tưởng cách mạng chính là “chiếc la bàn” dẫn dắt niềm tin, định hướng đường đi nước bước đúng đắn để mỗi đảng viên không đi xa, đi chệch khỏi quỹ đạo mà Đảng đã vạch ra. Đề cao lý tưởng cách mạng là tiền đề, cơ sở để những người cộng sản có thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và nhân dân. 
Trong thời chiến, dù muôn vàn gian khổ, nhưng Đảng ta tự hào đã rèn luyện được một đội ngũ đảng viên tràn đầy lý tưởng cách mạng và giàu tinh thần cống hiến, hy sinh vì Tổ quốc. Theo lịch sử ghi lại, chỉ tính hai năm 1931-1932, trong cuộc “khủng bố trắng” của thực dân Pháp đã có hàng vạn cán bộ, đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị giam cầm, tù đày, giết hại. Những trại giam, như: Côn Đảo, Phú Quốc, Lao Bảo, Sơn La, Hỏa Lò… được ví như địa ngục trần gian, lò tra tấn thời trung cổ, khiến hàng nghìn người con ưu tú của Đảng bị hành hạ dã man và rất nhiều người không còn cơ hội để tiếp tục thực hiện lý tưởng đấu tranh cách mạng cao đẹp của mình. Gần 16 vạn đảng viên anh dũng hy sinh trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc trở thành gần 16 vạn đóa hoa bất tử về sự dâng hiến, hy sinh và làm sáng ngời những trang sử vàng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó cũng là bằng chứng sinh động về sự kiên trung, bất khuất và một lòng một dạ son sắt thủy chung của đảng viên đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.
Thời nay, trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc và mặt trái kinh tế thị trường phần nào làm nhạt phai lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Sự nhạt phai đó biểu hiện dưới nhiều khía cạnh chệch choạc. Thay vì đề cao lý tưởng “Tổ quốc là trên hết”, nhiều người chỉ nhăm nhăm chăm lo quyền lợi cá nhân, bảo kê lợi ích nhóm, bất chấp pháp luật, chà đạp đạo lý để co kéo lợi ích tối đa về bản thân, gia đình và bộ phận nhỏ nhoi của mình.
Thay vì nguyên tắc làm việc “dĩ công vi thượng” (lấy việc công trên hết), nhiều người đã lợi dụng cương vị, chức trách, quyền hạn của mình để làm việc vì động cơ cá nhân, vụ lợi, thiếu chú trọng hoặc không thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu, đề ra các giải pháp sáng tạo nhằm làm chuyển biến tiến bộ, toàn diện các mặt công tác của tổ chức, cơ quan, đơn vị. 
Thay vì đề cao quan điểm “dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc), một bộ phận cán bộ do tham nhũng, vơ vét mà sa đà vào lối sống vinh thân phì gia, xa hoa, cách biệt với người dân, không quan tâm đến cuộc sống vất vả của biết bao người lao động và dân nghèo.
Thay vì thực hiện phương châm “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tìm mọi kẽ hở của cơ chế, “khe hổng” của chính sách, luật pháp để bòn rút của công, gây nhiễu nhương, phiền hà doanh nghiệp và người dân mà thực chất là muốn người khác phải lót tay cho mình thì mới giải quyết công việc hanh thông.  
Thay vì “nói đi đôi với làm”, “nói đúng quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng”, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên lại nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo, phát ngôn vô tổ chức, vô ý thức kỷ luật, gây tổn hại đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động xấu đến dư luận xã hội. Rồi tình trạng một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao khi đăng đàn, viết báo, viết sách thì lên mặt “đức cao vọng trọng” để khuyên răn, chỉ bảo, giáo huấn cấp dưới và nhân dân phải đề cao lý tưởng, coi trọng đạo đức, nâng tầm văn hóa, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng phía sau những lời hay ý đẹp, mỹ từ ấy là một tâm địa ích kỷ, nhỏ nhen, ham hố tầm thường của chính người trong cuộc.
Có một sự thật xót xa là trong số hơn 70 cán bộ cao cấp bị xử lý kỷ luật từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, nhiều người từng một thời không thiếu nhiệt huyết, lý tưởng cách mạng, nhưng khi “leo lên” những vị trí quan trọng, được kẻ tung người hứng nên sinh ra chủ quan, tự mãn, say sưa với quyền lực, đắm chìm vào lợi ích và lại thiếu rèn luyện bản lĩnh cách mạng, thiếu tu dưỡng, thiếu nghiêm khắc với chính bản thân và không thủy chung với lý tưởng mình đã lựa chọn, cho nên “ngã ngựa giữa đường” và trả giá rất đắt.
Thật ra, lý tưởng cách mạng không phải là cái gì đó xa xôi, trừu tượng, khó hiểu, khó thực hiện, mà đó chính là nhận thức đúng Cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng; nắm vững, vận dụng nhuần nhuyễn và thực hiện hiệu quả nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, gắn rèn luyện phẩm đạo đức với nâng cao năng lực công tác, trong đó lấy việc giữ đức làm gốc.
Nếu như trước đây, lý tưởng cách mạng của Đảng đòi hỏi người đảng viên có tinh thần dấn thân, xông pha vào nơi gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; thì thời nay, lý tưởng cách mạng của Đảng mong muốn, yêu cầu cán bộ, đảng viên cần đề cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; biết giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó phải lấy lợi ích xã hội, lợi ích tập thể làm trọng; biết xử lý đúng mực, hợp lý, hợp tình mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ; biết gắn kết chặt chẽ và thực hiện giữa nói và làm, trong đó cần coi trọng làm đến nơi đến chốn, làm thực chất, làm hiệu quả, làm vì sự trưởng thành của bản thân và sự vững mạnh, tiến bộ của tập thể.
Không ai sinh ra đã hoàn hảo. Không người nào tự thân lớn lên, trưởng thành được nếu không có sự kiên trì rèn luyện, tu dưỡng ở mọi lúc, mọi nơi. Sinh thời, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nói, “lý tưởng, phẩm chất cách mạng chỉ có thể được hình thành trong quá trình đấu tranh cách mạng, trong sản xuất, chiến đấu và tu dưỡng”. Vì vậy, để lý tưởng cách mạng trong mỗi cán bộ, đảng viên không bị nhạt phai, mỗi chúng ta phải thường xuyên nung nấu ý chí, bền bỉ tu thân tích đức, tự nhắc lòng mình không bao giờ được phép xa rời con đường đã chọn, đi ngược mục tiêu mình đã tôn thờ, làm trái lương tâm đạo đức của chiến sĩ cách mạng, buông bỏ phẩm chất tiên phong, gương mẫu của người cộng sản.
Nếu cứ để một chút lơ là, một chút lơi lả, một chút dễ dãi, một chút “thỏa hiệp” với chính mình thì theo ngày tháng, “một chút” đó sẽ lớn dần lên thành “mụn nhọt”, thậm chí thành “ung thư” thì phẩm chất, nhân cách, tư cách của cán bộ, đảng viên sẽ rơi vào tình trạng “chết lâm sàng”. Từ đó, lý tưởng cách mạng không phải là nhạt phai, mà đã thoái hóa rồi biến người cộng sản thành “bóng ma” của chính mình!

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...