Thứ Năm, 18 tháng 4, 2024

Nguy hại từ sự thờ ơ, vô cảm của cán bộ, công chức

 Trong khi dư luận nói nhiều đến tình trạng cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, không dám làm khiến hàng loạt công việc đình trệ thì một hiện tượng khá phổ biến và cũng là “trọng bệnh” của đội ngũ cán bộ, công chức, đó là tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc, nhất là giải quyết công vụ. Đây là vấn đề đáng lo ngại bởi những hệ lụy mà nó gây nên.

1. Có việc liên quan đến giấy tờ nhà đất tôi buộc phải đến Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính (Bộ phận một cửa) của quận để thực hiện. Khu vực chờ đợi của người dân đông đúc, ngột ngạt, cũng không có nước uống. Để tiết kiệm thời gian, người dân chủ động phần kê khai trên hồ sơ trước nhưng bàn viết không có, cứ tự kê lên đùi mà viết. Cán bộ giải quyết công vụ ngồi ngăn cách với người dân qua vách kính chắn, thỉnh thoảng lại đưa điện thoại lên nhắn tin, ai thắc mắc thì hướng dẫn đại khái qua một ô kính nhỏ. Người có chút kinh nghiệm, tai thính thì ít hỏi lại, còn phần lớn người đi làm thủ tục lần đầu đều bỡ ngỡ: “Cái gì cơ? Viết vào đây ạ? Chỗ này viết gì anh, chị nhỉ? Rồi thỉnh thoảng lại có tiếng gắt gỏng, khó chịu kiểu ban phát từ người nhận hồ sơ. Chỉ cách nhau qua tấm kính mà cảm giác như công chức và người dân xa vời vợi. Trên thực tế, nhiều cán bộ nhận hồ sơ biết rõ giấy tờ có sai sót nhưng không nói ngay, có số điện thoại trên hồ sơ cũng chả gọi mà đến ngày trả kết quả mới nói là hồ sơ sai cần làm lại. Họ cứ vin vào các quy định cứng nhắc, thậm chí có người cố tình làm cho nó cứng nhắc hơn vì lý do khác.

Theo nghĩa hiểu chung nhất thì tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm nghĩa là mặc kệ. Đây là trạng thái trơ lì của cảm xúc, dửng dưng với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Cách làm việc này không khác gì một cái máy, không khẩn trương, không vội, không vì ai và đặc biệt, không cảm xúc. Họ vẫn làm việc nhưng không có trách nhiệm với công việc, với những người xung quanh; miễn là đánh trống, ghi tên đủ 8 tiếng ngồi ở cơ quan. Cũng có thể chất lượng công việc không quá tệ nhưng hoàn toàn không có tư tưởng đổi mới hay đột phá, còn đòi hỏi họ dấn thân, dám nghĩ, dám làm thì thật xa xỉ. Đó là thứ văn hóa không nhúc nhích, đợi nhắc thì làm, không nhắc cũng vẫn làm nhưng chậm trễ khi xử lý các nhiệm vụ được giao.

Nguy hại từ sự thờ ơ, vô cảm của cán bộ, công chức
Ảnh minh họa: TTXVN 

Tựu trung lại, có thể lý giải cho hiện tượng tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc của cán bộ, công chức đến từ mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất, đó là lối sống thực dụng, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Lối sống này khiến cán bộ, công chức có nhận thức và hành vi lệch lạc về trách nhiệm, về nghĩa vụ của mình, nhất là trong vai trò "công bộc" khi tiếp xúc và hành xử với dân; cho rằng mình có quyền ban phát, người khác phải cần mình mà không hiểu rằng, nghĩa vụ của mình là phục vụ, cao nhất là phục vụ nhân dân. Thứ hai, đó là những người luôn đòi hỏi cho cá nhân, nhất là lợi ích vật chất nhưng không bao giờ chịu hy sinh, thiệt thòi vì tập thể. Khi không được đáp ứng lợi ích đó, họ cứ dửng dưng không làm. Thứ ba, đó là những người thụ động. Mọi thứ với họ cứ làng nhàng, từ học hành, kiến thức, kỹ năng đến động cơ, thái độ, trách nhiệm trong công việc. Với họ “sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội”, vì làm việc trong môi trường bao cấp nên lương đã có Nhà nước trả, không phải bận tâm đến cơm áo gạo tiền. Thứ tư, đó là những người có xuất thân từ những gia đình có điều kiện, hoặc về kinh tế, hoặc về chính trị. Họ chỉ cần có một chỗ làm việc, một vị trí trong cơ quan công quyền để lấy vị thế và được bảo đảm các quyền lợi cho cá nhân. Những người như thế cũng không mưu cầu sự thăng tiến, cũng không có động lực phấn đấu cho công việc. Việc làm giàu của họ thường ở môi trường khác, hoặc có người khác làm giàu cho họ. 

2. Tâm lý, thái độ thờ ơ gây ra bệnh vô cảm của công chức, một loại bệnh đang được xem là “trọng bệnh”. Ngành y không có khái niệm bệnh vô cảm nên cũng không đưa ra phác đồ điều trị. Đây là căn bệnh do lối sống, môi trường và cách hành xử của con người tạo ra. Hệ lụy của tình trạng thờ ơ, vô cảm của công chức là vô cùng tệ hại, mà tệ hại nhất là thủ tiêu động lực làm việc, vươn lên của tập thể. Những cán bộ, công chức thờ ơ, vô cảm thường rất lười đi cơ sở và xa rời thực tiễn cơ sở. Chính vì lười đi cơ sở, không chịu va chạm với thực tiễn nên không nắm được công việc, quan liêu trong lĩnh vực mình quản lý, giải quyết. Thậm chí nếu được giao chức năng tham mưu để ban hành những chủ trương, chính sách, quyết sách thì đó là những “quyết định trên trời” gây bức xúc dư luận.

Trong một tập thể có những người thờ ơ, vô cảm với công việc thường dễ lây lan tâm lý này sang những người khác. Bởi nếu anh “sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội” mà không bị xử lý thì tôi cũng sẽ thế được, dần trở thành tâm lý đám đông. Khi con người không có động lực làm việc, giải quyết công việc không vì người khác thì sẽ không bao giờ dành hết trí lực cho công việc, không có tư tưởng nghĩ ra việc, tìm đến việc. Tệ hại là, số cán bộ, công chức thờ ơ, vô cảm, làng nhàng này lại không dễ gì đưa họ ra khỏi bộ máy công quyền. Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) từng phát biểu trước Quốc hội khi thảo luận về Bộ luật Lao động (sửa đổi) rằng: “Có những người mặc dù đã đến tuổi nghỉ hưu theo luật hiện hành, trong khi công việc làm năng suất không cao, "sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về", chỉ ở mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng không muốn nghỉ hưu, chờ cho đến đúng tuổi mới nghỉ”. Vì điều đó mà những người mới, nhất là những người trẻ có hoài bão, tâm huyết và trí tuệ, muốn được cống hiến trong bộ máy công quyền cũng khó có vị trí.

Trên thực tế, nghiên cứu khái quát của các nhà quản lý trong lĩnh vực công chức, viên chức đưa ra con số khoảng 30% cán bộ, công chức “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”. Xin dẫn lại một phát biểu năm 2013 của Phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khi ấy tại cuộc họp thứ nhất Ban chỉ đạo Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Điều này khiến cho bộ máy công quyền cồng kềnh trong khi công việc vẫn bị xem là chưa chạy. Trong khi đó, ngân sách nhà nước để nuôi bộ máy là không hề nhỏ mà đáng ra một phần số ngân sách này có thể tiết kiệm được.

Không chỉ vậy, những cán bộ có tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm trong giải quyết công vụ luôn ám ảnh người dân có suy nghĩ tiêu cực về đội ngũ cán bộ công quyền, những người được xem là công bộc của dân. Họ rất ngại đến cơ quan công quyền, trừ việc bất đắc dĩ. Tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm của công chức đã hình thành nên tư tưởng cho mình là người có quyền ban phát. Bởi thế lâu nay, khi người dân làm việc với cơ quan công quyền thường bị mặc định từ “xin” ở đó. Nguyện vọng, quyền lợi gì cũng mặc định trong “Đơn xin...”. Xin cho con đi học, xin giấy khai sinh, xin giấy khai tử, xin xác nhận hộ khẩu... Đây là quyền lợi chính đáng của người dân, đặc quyền của công dân được hưởng thụ dưới chế độ của Nhà nước ta. Vậy thì cán bộ cơ quan công quyền phải có nghĩa vụ thực hiện cho người dân chứ không phải là ban phát hay đặc quyền ở đó.

3. Dưới chế độ của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì cán bộ, công chức là công bộc của dân. Cũng có nghĩa, mọi cán bộ, công chức phải hết lòng, hết mình trong giải quyết công vụ, vì nhân dân phục vụ, tự mình đấu tranh với chính mình để loại bỏ tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm, cách làm việc làng nhàng không hiệu quả.

Trở lại từ lý luận, Các Mác từng có một luận điểm mang tính kinh điển, đã trở thành nền tảng, cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm này đã được ông luận giải một cách rất thuyết phục. Những cán bộ, công chức và chính mỗi người có tâm lý, thái độ thờ ơ, vô cảm với công việc nguyên nhân chính là do họ và họ là người quyết định điều đó trong môi trường đó. Môi trường làm việc rất quan trọng và có tác động lớn đến tình cảm, thái độ, trách nhiệm của mỗi người. Con người trong tập thể nếu không chịu va đập, không bị va đập, không qua trải nghiệm, gắn mình với thực tiễn sẽ ngày càng thờ ơ và ít sự cảm thông trong đời sống xã hội. Bởi thế, ở đâu môi trường làm việc yêu cầu cao, sự nghiêm túc, trách nhiệm, sự đánh giá công tâm, công bằng, thì ở đó mỗi cán bộ, công chức sẽ có động lực để thay đổi mình, buộc phải thay đổi mình.

Từ thực tiễn, chính các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong bộ máy Nhà nước phải đánh giá đúng thực chất hiệu quả công việc của công chức do mình quản lý. Ai cũng thấy nhiều cán bộ, công chức làm việc không hiệu quả theo kiểu “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về” diễn ra ở các cơ quan công quyền nhưng tỷ lệ báo cáo đánh giá chất lượng cán bộ, công chức hằng năm của hầu hết các cơ quan, đơn vị thường trên 90% hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều cơ quan, tỷ lệ này rất cao, thậm chí gần 100%. Chính việc đánh giá cán bộ không đúng, phân loại nể nang, không bám vào tiêu chí đã dẫn đến tình trạng “đánh bùn sang ao”, cán bộ làm tốt cũng như chưa tốt. Bất cập này khiến người làm tốt bị mất động lực phấn đấu, trong khi người chưa hoàn thành, hoàn thành thấp nhiệm vụ vẫn nghiễm nhiên tại vị, vẫn được hưởng đầy đủ các chế độ của một công chức. Và đương nhiên, họ cũng không có động lực để thay đổi chính mình. Dù Luật Cán bộ, công chức quy định nếu cán bộ hai năm không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ loại ra khỏi đội ngũ nhưng trên thực tế hằng năm vô cùng ít cán bộ bị loại khỏi bộ máy công quyền với lý do là không hoàn thành nhiệm vụ. Vậy nên, cốt lõi để làm cho mọi cán bộ, công chức thay đổi thái độ, trách nhiệm làm việc của mình thì tổ chức phải đánh giá đúng hiệu quả công việc của họ.

NGUYỄN HÀ MY

Phê phán thói vô cảm, “vì dân suông” của một bộ phận cán bộ, đảng viên

Một trong những biểu hiện suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra là: “Không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân”; “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

Không chỉ vậy, một số cán bộ, đảng viên thời nay còn có biểu hiện mị dân, “vì dân suông”, từ đó tạo khoảng cách với dân, gây mất niềm tin trong nhân dân. Do đó, chúng ta phải đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện vô cảm, “vì dân suông” để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, mẫn cán, thật sự vì dân, vì nước.

Tinh vi những biểu hiện mị dân, “vì dân suông”

Phê phán thói tiền hậu bất nhất, nói nhiều làm ít, dân ta có câu ca dao: “Nói chín thì phải làm mười/ Nói mười làm chín, kẻ cười người chê”. Hàm ý sâu sắc hơn, câu ca dao muốn nhắn nhủ, nhắc nhở con người phải luôn coi trọng giữ gìn chữ “tín”, nói đi đôi với làm; còn nếu ai mà nói nhiều hơn làm, dù làm chỉ kém nói một chút thôi thì cũng đáng coi thường, chê trách.

Phê phán thói vô cảm, “vì dân suông” của một bộ phận cán bộ, đảng viên
 Ảnh minh họa: Dân trí 

Thời nay, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện chỉ nói mà không làm, chỉ hứa rồi để đấy, chỉ thề thốt mà không hành động, người dân gọi đó là những kẻ nói suông, hứa suông, thề suông.

Cách đây 8 năm, ngày 27-5-2016, phát biểu tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ cảnh báo một số cán bộ, đảng viên có thái độ coi thường quần chúng, không lắng nghe ý kiến, không học hỏi người lao động, mà còn có biểu hiện “vì dân suông”, tức là chỉ nói mà không làm, hay hô hào, kêu gọi vì dân, nhưng lại không có những việc làm cụ thể, thiết thực để mang lại quyền, lợi ích chính đáng cho nhân dân.

Những biểu hiện “vì dân suông” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra khá tinh vi. Có cán bộ gần dân mà vẫn không hiểu lòng dân. Những cán bộ này tuy đến với dân, nhưng chỉ tuyên truyền, vận động, giải thích cho dân theo ý chỉ đạo áp đặt của mình mà không thành tâm lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân. Giả sử nếu có lắng nghe thì cũng “nghe để biết”, nhưng thực chất là bỏ ngoài tai, không tìm cách giải quyết thấu đáo những ý kiến, băn khoăn, vướng mắc của dân và cả những mong muốn chính đáng của bà con. Trong cuộc tiếp xúc cử tri ngày 14-10-2023 tại Hà Nội trước kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở cán bộ, đảng viên nói chung, đại biểu Quốc hội và HĐND nói riêng cần khắc phục bệnh hình thức, khi tiếp xúc, đối thoại với dân thì phải “tuyệt đối tránh tình trạng hình thức, ngồi ra vẻ chú ý lắng nghe nhưng lại không nghe”.  

Ngoài ra còn có những cán bộ tuy bề ngoài gần dân mà thực chất lại sống xa dân. Số cán bộ này khi gặp dân thì vẫn “mồm năm miệng mười”, cố gắng không làm mếch lòng người khác, nhưng bản thân và gia đình lại có một cuộc sống biệt lập, khác xa người dân. Nhờ các mối quan hệ “bôi trơn” và biết kiếm chác mà họ có nhà to, xe đẹp, thu nhập khủng, gia đình ung dung hưởng thụ một cuộc sống đề huề trong nhung lụa, mặc cho bao người dân lao động vẫn quanh năm tảo tần, lam lũ vì miếng cơm, manh áo. Với họ, tiếp xúc với dân chỉ là nghĩa vụ đơn thuần chứ không thực sự tâm huyết với dân, chung sức đồng lòng gánh vác bao nỗi lo toan hằng ngày của người dân. Bởi nếu thương yêu quần chúng cần lao, họ đâu lợi dụng kẽ hở pháp luật, đục nước béo cò để nhăm nhăm vun vén lợi lộc cho cá nhân, cốt để vinh thân phì gia. 

Điều đáng nói, những động thái “vì dân suông” thường được bao bọc một lớp hào nhoáng, tinh vi mà không phải người dân nào cũng dễ nhận diện. Hơn nữa, để dễ bề che mắt thiên hạ, bên ngoài thì bao giờ họ cũng đề cao quan điểm “dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc) và luôn chủ định làm một vài việc bề nổi nào đó nhằm vừa tránh bị mang tiếng là không thân thiện với dân, vừa phần nào lấy lòng dân. Suy cho cùng, một khi cán bộ coi việc gần dân chỉ là tấm bình phong, là màn kịch để che giấu những mục đích, động cơ thiếu trong sáng của mình thì đó là một thứ gần dân hình thức, giả dối, thực chất là mị dân.

Tác hại của thói vô cảm, “vì dân suông”

Thói vô cảm, “vì dân suông” là một trong những biểu hiện suy thoái đáng báo động đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đề cập vấn đề này, Đảng ta cho rằng, trong điều kiện hiện nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan điểm quần chúng, về quyền làm chủ của nhân dân cũng đều là vô nghĩa và không có sức thuyết phục.

Sau khi Liên Xô vừa sụp đổ, một số học giả nước này đã làm cuộc điều tra xã hội học rất đáng suy ngẫm. Trong phiếu điều tra, trả lời câu hỏi “Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho ai?", thì có tới 85% ý kiến cho là đại diện của giới cán bộ quan chức nhà nước quan liêu, chỉ có 11% cho là đại diện của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Một đảng cộng sản cầm quyền mà tỷ lệ giới chức quan liêu, xa rời quần chúng, vô cảm với dân lớn đến mức nghiêm trọng như vậy, thế nên lúc gặp sóng gió không được nhân dân ủng hộ và bị các thế lực khác tước quyền lãnh đạo cũng không có gì khó hiểu!

Đâu chỉ có chuyện cán bộ sống quan liêu, “vì dân suông” xảy ra bên Liên Xô, mà ngay ở nước ta cũng cần nhắc lại vụ việc một bộ phận cán bộ, đảng viên vô cảm, sống xa dân nên để lại một bài học xương máu về mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Năm 1997, một bộ phận không nhỏ nông dân tỉnh Thái Bình tụ tập đông người phản đối cấp ủy, chính quyền có nguyên nhân chủ yếu là do quyền làm chủ của người dân đã bị vi phạm nghiêm trọng, chính quyền cơ sở huy động quá sức dân, thậm chí lạm thu nhiều khoản bất chính, trong khi đó một số cán bộ chủ chốt ở địa phương giàu lên một cách bất minh và lại có lối sống xa hoa, kệch cỡm, nên càng gây bất bình trong nhân dân. Sau sự kiện đáng buồn này đã có hơn 2.000 cán bộ, đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật, hơn 70% số tổ chức cơ sở đảng phải thay từ một nửa đến hai phần ba cấp ủy. 

Nhắc lại những ví dụ nêu trên để thấy rằng, quần chúng nhân dân nhìn nhận, đánh giá Đảng chủ yếu là thông qua phẩm chất, tư cách, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Nói quần chúng giảm sút lòng tin đối với Đảng không phải là giảm sút lòng tin đối với lý tưởng, sự nghiệp của Đảng, mà là đối với những cán bộ, đảng viên đã thoái hóa, hư hỏng và không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo, chỉ biết lo vun vén lợi lộc cho bản thân, gia đình mà không có hành động thiết thực để góp phần chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Cán bộ, đảng viên cần trọng dân thực tâm, chăm lo cho dân thật lòng

Từ những thăng trầm, hưng vong của các vương triều phong kiến Việt Nam trong lịch sử, từ những thành bại trong việc huy động lòng dân, phát huy sức dân trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha đã đúc kết những lời thấm thía và trở thành bài học nhắc nhở muôn đời cho con cháu hôm nay và mai sau, đó là: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi); “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” (Trần Hưng Đạo); nước phải lấy dân làm gốc, vì “Gốc có vững, cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (Hồ Chí Minh).

Cách đây 12 năm, ngày 7-6-2012, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Quy định số 101-QĐ/TW “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, đã quy định 7 nội dung cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm nêu gương, trong đó có 2 nội dung liên quan đến ý thức, tác phong, phong cách ứng xử của cán bộ với nhân dân, gồm: “Nêu gương về tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng”; “Nêu gương về ý thức phục vụ nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, làm việc với thái độ khách quan, công tâm, tập trung sức giải quyết những lợi ích chính đáng của nhân dân”. Thực chất của những quy định này là yêu cầu cán bộ, đảng viên không vô cảm, không “nói suông” với nhân dân, không sống xa dân.

Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thời nay phải khắc cốt ghi tâm lời Bác Hồ chỉ dẫn: “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được, trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”. Nếu cấp ủy đảng, chính quyền nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng mà cứ phải tất ta tất tưởi “chạy ngược chạy xuôi” bởi lòng dân phân tâm, ly tán thì nguy cơ tan rã niềm tin của dân với Đảng, với chế độ ta là khó tránh khỏi. Đó là bài học không thể xem thường.

Muốn được lòng dân thì cán bộ, đảng viên phải thực tâm nói đi đôi với làm, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin, tuyệt đối tránh những biểu hiện vô cảm, mị dân, “vì dân suông”. Khi được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, nhất định khối sức mạnh đại đoàn kết toàn dân sẽ được củng cố, tăng cường và trở thành sức mạnh dời non lấp biển, từ đó chúng ta có thể đạp bằng mọi chông gai, vượt qua mọi khó khăn, thử thách trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từng nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ bất cứ kẻ thù nào dù là hung bạo nhất, chỉ sợ mất lòng dân. Lòng dân, đó là quốc bảo dựng nước và giữ nước Việt Nam”.

Đại tá NGUYỄN TRUNG ĐẮC, Chính ủy Sư đoàn 316, Quân khu 2

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan

 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký văn bản yêu cầu các bộ ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan.

* Số hóa chứng từ thuộc hồ sơ hải quan tiến tới phi giấy tờ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phát triển và sự gia tăng của thương mại điện tử, công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thời gian qua, Chính phủ, đã có nhiều văn bản chỉ đạo về công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan đã quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành các giải pháp để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp, tiếp tục nâng cao hiệu quả và sự minh bạch trong công tác hải quan và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.

Tuy nhiên, dự báo thời gian tới tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; ở trong nước hoạt động sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn, để tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu, tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin theo hướng số hóa chứng từ thuộc hồ sơ hải quan tiến tới phi giấy tờ trong thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, dần tiến đến chấm dứt việc yêu cầu người khai hải quan phải nộp chứng từ giấy thuộc bộ hồ sơ hải quan khi làm thủ tục hải quan.

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phát triển và sự gia tăng của thương mại điện tử, công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan đóng vai trò vô cùng quan trọng. 

Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cấp phép, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để kịp thời phát hiện những bất cập, vướng mắc và kiến nghị các Bộ quản lý chuyên ngành và cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung; đẩy mạnh cải cách, ứng dụng công nghệ thông tin, chia sẻ dữ liệu với cơ quan hải quan để phục vụ thông quan hàng hóa.

* Bảo đảm trang thiết bị phục vụ công tác hiện đại hóa ngành hải quan

 Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan bảo đảm trang thiết bị phục vụ công tác hiện đại hóa ngành hải quan, công tác kiểm tra giám sát, kiểm soát hải quan tại các khu vực cửa khẩu, cảng biển, hạn chế sự tiếp xúc giữa người dân, doanh nghiệp với cơ quan hải quan bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật.

Tăng cường các hoạt động hợp tác, trao đổi thông tin dữ liệu hải quan với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đối tác thương mại chiến lược, có kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào các quốc gia này và ngược lại.

* Chấn chỉnh, xử lý đơn vị, công chức hải quan có hành vi vi phạm pháp luật, gây phiền hà, sách nhiễu

 Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan thường xuyên tổ chức đối thoại, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, đánh giá mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính tại cơ quan hải quan các cấp; kịp thời kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý đối với đơn vị, công chức hải quan có hành vi vi phạm pháp luật, gây phiền hà, sách nhiễu, không kịp thời giải quyết, để vướng mắc kéo dài mà không đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên ngành, cấp phép đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế trong năm 2024: áp dụng triệt để nguyên tắc quản lý rủi ro, thừa nhận lẫn nhau trong hoạt động kiểm tra; giảm tỷ lệ các lô hàng phải lấy mẫu để phân tích, kiểm tra; thống nhất nguyên tắc một mặt hàng chỉ do một đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm quản lý, kiểm tra.

* Nhanh chóng số hóa thủ tục xuất nhập khẩu qua biên giới

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ động phối hợp với Bộ Công an triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và nhanh chóng số hóa thủ tục xuất nhập khẩu qua biên giới, xây dựng cửa khẩu thông minh nhằm giảm thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp.

Ủy ban nhân dân các tỉnh biên giới xây dựng quy hoạch tổng thể khu vực cửa khẩu biên giới đất liền trên cơ sở các Quyết định quy hoạch cửa khẩu trên các tuyến biên giới đất liền Việt Nam với các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện bố trí các khu vực nhà kiểm soát liên hợp, địa điểm làm việc cho các lực lượng chức năng tại cửa khẩu, địa điểm tập kết, kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu tạo điều kiện hiện đại hóa công tác quản lý chuyên ngành và các hoạt động thương mại, logistics tại cửa khẩu; không để xảy ra tình trạng ùn tắc hàng hóa, phương tiện, gây mất trật tự an toàn, an ninh trên địa bàn.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ được giao tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp được giao tại Quyết định số 628/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2030 để chủ động thực hiện các biện pháp phù hợp, kịp thời, hiệu quả theo thẩm quyền và quy định pháp luật; đặc biệt là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan, phục vụ người dân, doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, du lịch, tạo môi trường xuất nhập khẩu minh bạch, công bằng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, bảo đảm an toàn trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia; kịp thời đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề phát sinh, vượt thẩm quyền.

Thủ tướng Chính phủ giao Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao.

NGỌC ANH

Chiến dịch Điện Biên Phủ: Ngày 19-4-1954, quân ta bắn cháy xe tăng địch

 Chiến dịch Điện Biên Phủ: Ngày 19-4-1954, mặc dù máy ngắm súng ĐKZ bị hỏng, nhưng đồng chí Trần Đình Hùng đã bình tĩnh lắp đạn, ngắm mục tiêu qua nòng súng và bắn cháy một chiếc xe tăng. Chiến công của anh đã kết thúc công việc lấp đường hào, buộc địch phải rút lui.

Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết chỉ đạo Đảng ủy Mặt trận khắc phục mọi khó khăn, quyết đánh thắng quân địch và huy động toàn lực của nhân dân, của Đảng và Chính phủ làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nghị quyết nêu rõ: "Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này".

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh thuộc Liên khu 3, Liên khu 4, Việt Bắc, Tây Bắc... đã nỗ lực vượt bậc chạy đua với giặc, chạy đua với thời gian, với mưa lũ, quyết huy động mọi nguồn sức mạnh của hậu phương, chiến tranh nhân dân thực hiện thắng lợi mọi việc bảo đảm cung cấp tiếp tế cho bộ đội.

Chiến dịch Điện Biên Phủ: Ngày 19-4-1954, quân ta bắn cháy xe tăng địch

Xe tăng địch phản kích bị bắn cháy trên đồi A1. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Ở ngoài mặt trận, tranh thủ lúc tạm ngưng tiến công, các đơn vị kịp thời chấn chỉnh bổ sung quân số, trang bị và tiến hành việc tổng kết kinh nghiệm huấn luyện bổ sung. Một số phân đội mới như đơn vị hỏa tiễn 122mm và một số đại đội ĐKZ-75mm được tổ chức ngay tại mặt trận. Do bộ đội đã trải qua một cuộc chiến đấu dài ngày trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn dẫn tới sức khỏe bị giảm sút nhiều nên Bộ Chỉ huy Chiến dịch chỉ đạo các đơn vị ra sức phấn đấu "bình thường hóa sinh hoạt" tổ chức tốt việc ăn ngủ, giải trí cho bộ đội. Công tác vệ sinh phòng bệnh và giữ vệ sinh chiến hào được coi trọng. Công tác điều trị thương, bệnh binh tại mặt trận đã được thực hiện ngày càng tốt hơn, góp phần nhanh chóng khôi phục lại sức chiến đấu của các đơn vị.

Sáng 19-4, ba mũi hào của Trung đoàn 36 đã đâm thẳng vào sát hàng rào của địch tại cứ điểm 206. ĐKZ bắn sập dần những ụ súng ở tiền duyên. Trong đêm thỉnh thoảng lại có một loạt súng cối nã vào vị trí. Quân địch luôn luôn thấp thỏm tưởng là trận đánh đã bắt đầu. Máy bay phải thả dù tiếp tế trực tiếp xuống cứ điểm. Nhưng những tên lính không dám rời hầm ra lấy dù vì sợ đạn bắn tỉa của ta.

Cứ điểm 206 kêu cứu với Mường Thanh. Không thể để mất tiếp vị trí này, vì mất nó là mất sân bay, De Castries buộc phải điều hai trung đội bộ binh và hai xe tăng, cùng một trung đội lê dương từ khu vực trung tâm tiến ra dưới sự yểm hộ của pháo binh, lấp các chiến hào. Trung đội bảo vệ chiến hào của ta buộc phải lùi ra xa, dùng súng bắn tỉa quân địch. Mặc dù máy ngắm súng ĐKZ bị hỏng, nhưng đồng chí Trần Đình Hùng đã bình tĩnh lắp đạn, ngắm mục tiêu qua nòng súng và bắn cháy một chiếc xe tăng. Chiến công của anh đã kết thúc công việc lấp đường hào, buộc địch phải rút lui.

Chiến dịch Điện Biên Phủ: Ngày 19-4-1954, quân ta bắn cháy xe tăng địch
Để bảo vệ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, năm 1954 Pháp đã huy động 10 xe tăng, thuộc dòng xe M24. Đây là loại xe tăng hạng nhẹ do Mỹ chế tạo năm 1943, được đưa vào sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong đó có một xe tăng chỉ huy, 9 chiếc còn lại bố trí thành 3 phân đội. Xe tăng chỉ huy và hai phân đội chốt tại Trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một phân đội ở phân khu Nam. Kết thúc chiến dịch, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt 8 xe tăng và thu 2 chiếc nguyên vẹn. Trong đó 3 chiếc đang được trưng bày tại chân đồi A1, cứ điểm Điện Biên Phủ. Ảnh: vnexpress.net. 

Các chiến sĩ Trung đoàn 36 cũng bắt đầu gặp một khó khăn mới. Chiến hào vào gần cứ điểm thì "con cúi" giảm tác dụng, nó không ngăn được hỏa lực lướt sườn cũng như lựu đạn từ trong đồn ném ra và còn làm lộ vị trí của bộ đội. Một số chiến sĩ bị thương. Tốc độ đào chiến hào bị chậm lại hẳn. Mấy chiến sĩ, vốn là du kích ở địch hậu, đề nghị cho đào dũi, khoét ngầm dưới mặt đất vào tới lô cốt địch, vừa giảm thương vong vừa đảm bảo yếu tố bí mật. Lúc đầu cán bộ ngại làm theo cách này sẽ kéo dài thời gian chuẩn bị. Nhưng khi cho một tổ đào thử, thấy không chậm hơn đào chiến hào lộ thiên, vì có thể đào cả ban ngày. Phương án đào dũi được chấp nhận, tuy có vất vả, nhưng tránh được thương vong.

THÀNH VINH (lược trích)

Cội nguồn đoàn kết dân tộc

 Hằng năm, cứ dịp Giỗ Tổ Hùng Vương (ngày 10-3 Âm lịch), người Việt dù ở nơi đâu cũng tổ chức nhiều hoạt động phong phú, đa dạng hướng về cội nguồn, bởi từ bao đời nay, trong tâm thức của "con Lạc cháu Hồng", Hùng Vương là vị vua thủy tổ dựng nước, là tổ tiên của dân tộc Việt Nam.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành loại hình tín ngưỡng văn hóa tôn giáo đặc sắc trong đời sống văn hóa, là biểu tượng cho tinh thần đại đoàn kết toàn dân, thể hiện đạo lý tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc. Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành ngày quốc lễ, là ngày hội chung của người dân Việt Nam, ngày hàng triệu trái tim đều đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về một hướng.

Cội nguồn đoàn kết dân tộc
Ảnh minh họa: Chinhphu.vn 

Năm 2012, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) cũng đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là di sản đầu tiên của Việt Nam được vinh danh ở loại hình tín ngưỡng và cũng là lần đầu tiên UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ Tổ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Điều này càng khẳng định giá trị văn hóa của dân tộc, góp phần công nhận tầm quan trọng của nghi lễ thờ cúng tổ tiên dân tộc Việt ở các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (có cộng đồng người Việt sinh sống).

Đối với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức ngày Giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ để thể hiện lòng thành kính, biết ơn của con cháu với các thế hệ tổ tiên, mà còn góp phần gìn giữ, giáo dục truyền thống văn hóa cho các thế hệ sau. Với họ, Giỗ Tổ Hùng Vương chính là cách để khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, góp phần củng cố thêm khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ông Đặng Trung Phước, Chủ tịch Hội Canada-Việt Nam, chia sẻ rằng đây là dịp để những người Việt Nam xa quê hương tụ hội tại "Ngôi nhà Việt Nam" ở Ottawa và cùng hướng về đất nước cũng như tưởng nhớ công ơn của các Vua Hùng. Chính trong những dịp quây quần tham gia nghi lễ Giỗ Tổ như vậy, người Việt Nam ở nước ngoài càng thấm thía ý nghĩa thiêng liêng của hai chữ “đồng bào”.

Tại lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vừa diễn ra ngày 13-4 ở Kuala Lumpur, bà Trần Thị Chang, Chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị Malaysia-Việt Nam, nhấn mạnh việc tổ chức Giỗ Tổ thể hiện tình cảm thiêng liêng, in sâu trong tâm khảm mỗi người dân đất Việt, giúp bà con cộng đồng hiểu thêm về giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, tăng cường đoàn kết, truyền lửa cho thế hệ trẻ cùng hướng về quê hương, đất nước.

Nhằm bảo tồn và quảng bá rộng rãi ở nước ngoài “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”, dự án ''Ngày Quốc Tổ Việt Nam toàn cầu" đã được triển khai tổ chức từ năm 2015.

Với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, dự án "Ngày Quốc Tổ Việt Nam toàn cầu" còn là cơ hội góp phần tăng cường sự hiểu biết, chia sẻ, giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng người Việt Nam vào quá trình hội nhập với người dân nước sở tại.

Thông qua việc tổ chức Giỗ Tổ, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là thế hệ kiều bào thứ hai, thứ ba hiểu thêm về giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, tăng cường đoàn kết, cùng hướng về quê hương, đất nước, qua đó hun đúc tinh thần dân tộc, vượt qua thử thách và vươn lên, khẳng định vị thế con người Việt Nam.

Có thể thấy, việc tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm, đặc biệt là ở nước ngoài, chính là sợi dây gắn kết các thế hệ người Việt, chuyển tải những nét sinh hoạt văn hóa tâm linh đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ, nhất là thế hệ trẻ. Từ đó, khơi dậy lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nêu cao ý nghĩa của lòng yêu nước thương nòi, biết ơn công lao gây dựng đất nước. Tới dự lễ Giỗ Tổ và vinh danh con cháu Vua Hùng tổ chức tại thành phố Saint Petersburg (Liên bang Nga) ngày 13-4, lãnh đạo Viện Hồ Chí Minh thuộc Đại học Quốc gia Saint Petersburg, Giáo sư Vladimir Kolotov nhắc lại câu nói của Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, khẳng định câu nói đó chính là cội nguồn của khối đại đoàn kết dân tộc, trở thành nội lực mạnh mẽ giúp Việt Nam giành độc lập, xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế và đóng góp trách nhiệm cho cộng đồng thế giới.

TTXVN

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...