NGUYỄN ÁI QUỐC
VÀ LỚP HUẤN LUYỆN Ở VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG
(LLCT) - Tháng
10-1940, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cho hơn 40 thanh niên các dân tộc Cao
Bằng vượt biên giới sang làng Nậm Quang (xã Cát Thôn, huyện Tĩnh Tây, tỉnh
Quảng Tây, Trung Quốc) - một làng nằm sát biên giới Việt -Trung để tìm đến với
cách mạng, với lãnh tụ cách mạng. Đây là bước chuẩn bị lực lượng vô cùng quan
trọng, làm nòng cốt cho cuộc trở về Tổ quốccủa Người để xây dựng căn cứ địa
cách mạng, trực tiếp chỉ đạo cách mạng trong nước đi tới thành công.
Trong hành trình 30
năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước,Nguyễn Ái Quốc -Hồ Chí Minh luôn có mong
muốn cháy bỏng sớm“trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).
Để thực hiện được
mong muốn đó, Người đã phải trải qua một chặng đường đầy gian nan, nguy hiểm,
dưới sự truy lùng gắt gao của thực dân Pháp, nên mặc dù nhiều lần tìm đường trở
về Tổ quốc nhưng đều chưa thực hiện được. Đầu năm 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
được phân công trở về hoạt động tại Côn Minh (Trung Quốc), được sự giúp đỡ của
những người cách mạng Trung Quốc, Người đã bắt được mối liên lạc với Ban Hải
ngoại của Đảng ta. Tình hình thế giới và trong nước thời gian này có những
chuyển biến nhanh chóng. Ngày 15-6-1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp. Ngày
22-6-1940, Chính phủ Pháp đầu hàng không điều kiện phát xít Đức. Nhận thấy thời
cơ giải phóng dân tộc đang tới gần, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập cuộc
họp với các đồng chí trong Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng ta, phân tích rõ tình
hình và tìm đường về nước lãnh đạo cách mạng.
Trên hành trình về
đến gần Tổ quốc, tháng 10-1940, khi được biết cóhơn 40 thanh niên các dân tộc
Cao Bằng dobị thực dân Pháp khủng bố đã vượt biên giới sang làng Nậm Quang, xã
Cát Thôn, huyện Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc-một làngnằm sátbiên giới
Việt -Trungđểtìmđến với cách mạng, với lãnh tụ cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã nói
với các đồng chí cùng hoạt động ở Quế Lâm: “Chúng ta sẽ tổ chức một lớp huấn
luyện cho các anh em, sau đó đưa anh em trở về củng cố và mở rộng phong trào
Cao Bằng và tổ chức liên lạc về nước”(2). Người còn nhận định: “Căn
cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng ta. Cao Bằng có phong
trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất
thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống
nữa mới có thể tiếp xúc toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên
và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến
công, lúc khó khăn có thể giữ”(3). Việc mở lớp huấn luyện cho những
thanh niên ưu tú của Cao Bằng tại vùng biên giới Việt -Trung là bước
chuẩn bị lực lượng vô cùng quan trọng, làm nòng cốt cho cuộc trở về Tổ quốccủa
Người để xây dựng căn cứ địa cách mạng, trực tiếp chỉ đạo cách mạng trong nước
đi tới thành công.
Vào hạ tuần tháng
12-1940, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số cán bộ rời Quế Lâm đi xuống Tĩnh Tây.
Ngay sau Tết Dương lịch năm 1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ từ trong nước sang gặp
Người tại làng Tân Khư, Tĩnh Tây. Đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương
Đảng báo cáo về tình hình trong nước, những công tác đã thực hiện được và việc chuẩn
bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ támvà đề nghị với Người chọn hướng Cao Bằng
để về nước vì đâylà tỉnh biên giới có phong trào cách mạngphát triểnsớm, đội
ngũ cán bộ tương đối vững vàng, đa số nhân dân có tinh thần giác ngộ cách mạng
cao;liên lạc quốc tế thuận tiện. Đề nghị của đồng chí Hoàng Văn Thụ rất trùng
hợp với nhận định trước đó của Người.Người đã tán thành và căn dặn số cán bộ về
nước trước tìm địa điểm làm căn cứ, phải chú ý hai điều kiện cơ bản là:có hàng
rào quần chúng bảo vệ và có đường rút lui.
Việc Nguyễn Ái Quốc
quyết định mở lớp huấn luyện cho những thanh niên từ Cao Bằng sang đã được
Người kể lại trong bài: Bác ăn tết với chúng tôi với bút
danh T.Lan đăng báo Nhân dân, số 2523, ngày 14-2-1961:
“Vào cuối năm 1940,
chúng tôi một nhóm thanh niên Cao-Bằng bí mật sang Trung Quốc đi tìm cách mạng,
tìm lãnh tụ cách mạng. Trong nhóm có các bạn Quảng Ba, Hoàng Sâm, Bằng Giang,
v.v...
Cũng trong lúc đó,
lại nghe tin có một nhóm cách mạng khác đến Quảng Tây. Chúng tôi lại đi tìm,
thì gặp các đồng chí Hoàng Văn Hoan, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... Rồi chúng
tôi gặp một cụ người gầy, trán cao, mắt sáng, ăn mặc như một bác nông dân Trung
Quốc. Chúng tôi cảm thấy ông cụ rất hiền lành và đối với chúng tôi rất bình
đẳng...
Ít hôm sau, ba đồng
chí Võ, Phạm, Hoàng ở lại Tĩnh Tây. Ông cụ thì bí mật cùng chúng
tôi về một làng Trung Quốc gần biên giới Cao Bằng, mở lớp huấn luyện. Ông cụ
tức là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Cùng đi có ông Thược, thày thuốc và ông
Lộc-“anh nuôi”(4).
Kế thừa kinh nghiệm
và thành công từlớp huấn luyện chính trị đầu tiên tại Quảng Châu(Trung
Quốc)những năm 1927- 1928, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sựcần thiết phải
mởlớp huấn luyện những thanh niên này nhằm đào tạo họ thành những cán bộ cốt
cán, để trở về Cao Bằng, xây dựng thí điểm các đoàn thể cách mạng, lập căn cứ
địa cách mạng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ghi trong Hồi ký: “Bác và anh Phùng
Chí Kiên về một làng cách Tĩnh Tây năm chục cây số. Bác cho người đến gọi anh
Đồng và tôi về để mở lớp huấn luyện… Các anh Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng và
tôi được Bác hướng dẫn làm chương trình huấn luyện. Bác phân công mỗi người làm
từng mục: tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh…”(5). Dựa
theo tài liệu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, các đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp đã biên soạn tập bài giảng cho lớp học, gồm sáu bài(6):
“Bài 1: Tình
hình thế giới, trong đó đề cập tới cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai,
phong trào cách mạng trên thế giới, về Liên bang Xô viết, về cuộc kháng Nhật
cứu nước của nhân dân Trung Quốc.
Bài 2: Tình
hình Đông Dương, trong đó giới thiệu về đặc điểm địa lý, tình hình kinh
tế, chính trị, về các giai tầng và các dân tộc Đông Dương, về thái độ của người
Pháp và Hoa kiều…
Bài 3: Vấn
đề cách mạng Việt Nam, trong đó giới thiệu về phong trào giải phóng
dân tộc Việt Nam, về những điều kiện đảm bảo của cách mạng, đồng thời giới
thiệu các đảng phái chính trị ở Đông Dương và chủ nghĩa dân chủ mới của Việt
Nam.
Bài 4: Về
công tác, chủ yếu hướng dẫn học viên cách điều tra, tuyên truyền, tổ chức,
huấn luyện và đưa quần chúng ra đấu tranh.
Bài 5: Vấn
đề khởi nghĩa, trong đó có hai nội dung chính là đánh du kích và khởi
nghĩa.
Bài 6: Một
người cách mạng phải như thế nào nói về tư cách của người cách mạng”(7).
Ngay từ những ngày
đầu tiên của lớp học, Người căn dặn học viên về năm điều nên làm và năm điều
nên tránh đối với dân. Năm điều nên làm là: Giúp dân những công việc thiết thực
hàng ngày; Tìm hiểu phong tục tập quán, nghiêm túc chấp hành điều lệ; Học tiếng
địa phương, dạy hát, dạy chữ, gây tình cảm tốt với dân; Tùy nơi, tùy lúc mà
tuyên truyền cách mạng cho thích hợp; Làm cho dân thấy mình là người đúng đắn,
chăm công việc, trọng kỷ luật, do đó dân càng tin và giúp ta.
Năm điều nên tránh
là: Tránh việc gì làm hại đến dân, làm bẩn,làm hỏng nhà cửa ruộng vườn của dân;
Tránh năn nỉ mua hoặc mượn thứ gì cho bằng được; Tránh sai lời hứa; Tránh phạm
đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân; Tránh lộ bí mật.
Người cũng đặc biệt
quan tâm đến việc sinh hoạt của lớp học và có những chỉ dẫn hết sức cụ thể: “Ở
nhà người ta, thì phải quét dọn sạch sẽ, ang nước phải đầy, bếp củi phải đủ”.
Mỗi ngày, cứ sáng dậy thì Bác cùng chúng tôi quét dọn trong nhà ngoài sân. Xong
rồi, mới vào lớp. Buổi chiều thì cùng nhau đi lấy củi. Vài hôm sau, cả làng tấm
tắc khen ngợi. Ban huấn luyện chia làm mấy tổ, mỗi tổ ở chung một nhà. Buổi
sớm, Bác nói chuyện chung với cả ban. Chiều và tối, các tổ nghiên cứu riêng. Tôi
nhớ Bác nói về mấy vấn đề: thời sự, Cách mạng Nga, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
đế quốc, Cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt trận Việt Minh, cách
tuyên truyền, cổ động, tổ chức, và tư cách người cách mạng...
Bác nói như kể
chuyện, vui vẻ, dễ hiểu, dễ nhớ. Nói xong một đoạn, Bác lại hỏi, mọi người đã
hiểu rõ chưa? Trong tổ chúng tôi giúp đỡ lần nhau, cho nên hiểu và nhớ được
hết”(8).
Tuy lớp huấn luyện
được tổ chức trong thời gian ngắn, điều kiện vật chất thiếu thốn, bữa ăn chỉ có
cháo bẹ với rau rừng, nhưng các học viên học tập rất hăng say. Các học viên đã
được nghe lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền đạt những vấn đề cơ bảnvề tình hình thế
giới và trong nước;về tổ chức đoàn thể quần chúng, cách điều tra, tuyên truyền,
tổ chức huấn luyện và đấu tranh cách mạng, học cách dân vận, giữ mối quan hệ
tốt đẹp với nhân dân nước bạn. Nhờ đó, các học viên đã tiếp thụ được những hiểu
biết cơ bản về chủ trương, đường lối cách mạng trong điều kiện lịch sử mới, nắm
được cách thức gây dựng, phát triển phong trào…Bên cạnh đó, các học viên đã tạo
được sự thiện cảm, yêu mến của nhân dân địa phương: “Lớp huấn luyện rất sôi
nổi, dân chủ và vui vẻ. Bà con Trung Quốc trong làng không hiểu chúng mình dạy
cái gì, học cái gì, nhưng đều khen thanh niên Việt Nam đoàn kết, chăm học,
siêng làm. Bà con trong làng nhất là những người cho mượn nhà rất mến chúng ta.
Vì vò nước bao giờ cũng đầy, đống củi bao giờ cũng cao, nhà cửa bao giờ cũng
sạch, trong nhà có việc gì chúng ta cũng ra tay làm giúp. Đặc biệt các em nhi
đồng luôn luôn xoắn xít chung quanh anh em ta để học hát, học nhảy múa, không
nghịch ngợm, và đánh nhau như trước nữa. Chúng ta đã góp phần làm cho cái làng
tịch mịch trong một thung lũng âm u vui hẳn lên... Bác bảo các đồng chí thanh
niên: “Đó là một cách dân vận thiết thực đấy”(9).
Lớp huấn luyện kết
thúc sau 15 ngày vào khoảng giáp Tết Tân Tỵ năm 1941, doQuốc dân Đảng lùng sục
ráo riết tạivùng Nậm Quang.Trước những biển chuyển nhanh chóng của tình hình,
Nguyễn Ái Quốc lên kế hoạchcùng đoàn cán bộ về nước. Trước khi trở về Tổ quốc,
Người và các học viên đã ở lại đón Tết cùng với nhân dân địa phương: “Sáng 30
Tết, chúng tôi làm mấy mâm cơm nếp và thịt lợn, mời các vị phụ lão và những
người tai mắt trong làng đến chén một bữa vui vẻ.
Để khỏi phạm đến
phong tục mê tín của dân làng, Bác dặn chúng tôi: “Mồng 1 Tết, các chú phải ở
trong nhà, không được đi ra ngoài. Nếu các chủ nhà mời ăn Tết, thì mỗi tổ cử
một vào người đi thôi...”.
Mồng 1 Tết, suốt cả
buổi sáng cả làng chỉ lo cúng quảy. Trước hết họ cúng tổ tiên, rồi họ cúng cả
ràn trâu, chuồng lợn, cái cối giã gạo, cái cuốc làm vườn, cái liềm, cái rạ...
mọi nông cụ làm ăn đều được cúng. Sau đó thôn trưởng vào mời chúng tôi ăn Tết”(10).
Sáng mùng một Tết,
Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí trong đoàn đi chúc tết nhân dân hai làng Nậm
Quang và Nậm Tấy, Tĩnh Tây. Người mặc bộ quần áo Nùng màu chàm, đầu vấn khăn,
tay chống gậy. Theo phong tục người Nùng ở đây, Người tặng mỗi nhà một tờ giấy
hồng điều trên có ghi bốn chữ Hán “Cung chúc Tân niên” (Chúc mừng năm mới). Các
cháu nhỏ được Người tặng tiền phong bao, mỗi gói một xu đồng.
Sáng mồng hai Tết,
tức ngày 28-1-1941, trời chưa sáng, sương mù còn dày đặc, đoàn rời Nậm Quang
lên đường về nước. Khi đặt chân đến cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung,
địa phận thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng, Người đứng lặng hồi lâu,
xúc động. Giây phút đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, nơi địa đầu Tổ quốc sau
này được Chủ tịch Hồ Chí Minh kể lại: “Chiều hôm đó, đồng chí Quảng Ba dẫn Bác
và cả nhóm thanh niên về PắcBó. Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất bao nhiêu
thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu thương nhớ, đợi chờ.
Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia
giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động. Từ hôm đó, cái hang PắcBó trở nên “đại
bản doanh” của chúng ta”(11).
Mảnh đất Pác Bó (Cao
Bằng), nơi có địa thế hiểm trở, núi non hùng vĩ, nhân dân sớm được giác ngộ,
kiên cường tranh đấu, trung thành với Đảng, với cách mạng, đã được Người được
chọn làm nơi đặt cơ quan chỉ đạo phong trào cách mạng. Pác Bó trở thành đầu
nguồn cách mạng, cũng từ đây, chúng ta đã xây dựng được khu giải phóng rộng lớn
gồm 6 tỉnh (Cao - Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà).
Có thể nói, nếu như
các học viên của lớp huấn luyện chính trị do Người đào tạo tại Quảng Châu,
Trung Quốc là những hạt giống đỏ cho cách mạng Việt Nam, thì
các học viên của lớp huấn luyện ngắn hạn vùng biên này được Người ví là “43
con đại bàng bay cao” và Người tiên đoán “sẽ có điềm lành tốt đẹp”;“Từ đó,
phong trào phát triển rất nhanh, chẳng bao lâu đã xây dựng được nhiều nơi căn
cứ vững chắc của cách mạng. Cách một năm sau, tổ chức Việt Minh đã khắp tỉnh
Cao Bằng và lan đến các tỉnh lân cận”(12).
77 năm đã trôi qua,
nhưng sự kiện lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cho những thanh niên ưu
tú của Cao Bằng tại vùng biên giới Việt -Trung vẫn để lại cho Đảng ta những
kinh nghiệm, bài học quý báu; giúp chúng tanhận thức rõ hơn quan điểm của Hồ
Chí Minh:“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, một khi đã có đường lối
cách mạng đúng đắn thì công tác cán bộ luôn là khâu quyết định.“Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đây là di sản và những bài học
quýgiá về công tác cán bộ củaChủ tịch Hồ Chí Minh để lại.
________________
(1) Trần Dân
Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nxb Văn học, Hà Nội, 1969, tr.49.
(2) Võ Nguyên
Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1969, tr.33.
(3) Vũ Anh: Những
ngày gần Bác, in trong cuốn Bác Hồ về nước, Hội Văn học nghệ
thuật Cao Bằng, Cao Bằng, 1986, tr. 19.
(4) Tài liệu lưu tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(5) Võ Nguyên
Giáp: Đầu nguồn, Nxb Văn học, Hà Nội, 1972, tr.98
(6) Các tài liệu sau
in thành sách nhan đề là “Con đường giải phóng”
(7) Tư liệu lưu tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ký hiệu: H2C7/3.
(8), (10), (12)
T.Lan: Bác ăn tết với chúng tôi, Tài liệu bản thảo lưu tại Bảo
tàng Hồ Chí Minh.
(9), (11)T. Lan:Vừa
đi đường vừa kể chuyện, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.72, 73.
Nguyễn Văn Dương
Khu Di tích Hồ Chí
Minh tại Phủ Chủ tịch