Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, để công nghiệp văn hóa nước ta sớm phát triển cần đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm, xây dựng ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam “Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp - Cạnh tranh” trên nền tảng văn hóa “Dân tộc – Khoa học – Đại chúng” của Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943.
“Mỏ vàng đừng để lãng quên”
Báo cáo đánh giá về kết quả triển khai, thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; định hướng và giải pháp phát triển các ngành CNVH Việt Nam trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng nêu rõ: Đây là Hội nghị đầu tiên về CNVH ở quy mô toàn quốc, được Thủ tướng Chính phủ gợi mở, giao nhiệm vụ cho Bộ VHTTDL nghiên cứu, tham mưu, chuẩn bị kỹ lưỡng để tổ chức với lời căn dặn “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm, có mỏ vàng đừng để bị lãng quên”.
Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 (Chiến lược 1755), xác định các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm 12 lĩnh vực: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc; (3) Phần mềm và các trò chơi giải trí; (4) Thủ công mỹ nghệ; (5) Thiết kế; (6) Điện ảnh; (7) Xuất bản; (8) Thời trang; (9) Nghệ thuật biểu diễn; (10) Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; (11) Truyền hình và phát thanh; (12) Du lịch văn hóa. Trong đó, Bộ VHTTDL được giao quản lý trực tiếp 5/12 ngành (gồm: quảng cáo; điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; du lịch văn hóa).
Chiến lược 1755 xác định mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp khoảng 3% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Đối với tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm.
Trong giai đoạn 2018-2022, các bộ, ngành, địa phương đã kịp thời chỉ đạo và phê duyệt các kế hoạch, đề án, quy hoạch liên quan đến phát triển 12 ngành CNVH; bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý, điều kiện cho đầu tư, phát triển một số ngành nghề, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế.
Nhận thức của toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng của CNVH đã từng bước được nâng cao. Một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đã đầu tư, nắm bắt cơ hội, hình thành các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Các ngành công nghiệp có khả năng phát triển nhanh, lâu dài và bền vững, có giá trị tôn vinh văn hóa, bản sắc dân tộc, định vị thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế.
CNVH đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước. Các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp đáng kể vào nền kinh tế, trong giai đoạn từ 2018-2022, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD).
Bên cạnh kết quả đạt được, việc phát triển các ngành CNVH vẫn còn nhiều bất cập và thách thức đặt ra như: Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật (luật, nghị định) quy định thực hiện nội dung quản lý nhà nước về công nghiệp văn hóa. Đồng thời, còn thiếu các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp về thu hút nguồn vốn, phát triển nguồn lực để hỗ trợ, thúc đẩy các ngành CNVH phát triển toàn diện trên cả nước nói chung và ở từng địa phương nói riêng.
Nguồn lực đầu tư mang tính dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa tập trung phát triển một số lĩnh vực chuyên ngành có lợi thế, tiềm năng nhằm tạo ra các sản phẩm chủ lực, trọng tâm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Nguồn nhân lực trong các ngành CNVH còn thiếu về số lượng và chất lượng. Chính sách đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa còn chưa thực sự khuyến khích và thu hút nhân lực vào lĩnh vực này.
Chưa có Chỉ số thống kê về ngành công nghiệp văn hoá trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Thống kê của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan có liên quan mới chỉ đáp ứng yêu cầu báo cáo phục vụ công tác quản lý, chưa được thực hiện toàn diện và đầy đủ dẫn đến việc đề xuất giải pháp phát triển của từng lĩnh vực chưa kịp thời và sát thực tế.
Nội dung, hình thức các sản phẩm, dịch vụ trong các ngành công nghiệp văn hóa (phần mềm, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, kiến trúc, thời trang…) chưa thực sự khai thác được hết các đặc trưng văn hoá bản địa để tạo sự độc đáo, riêng có trong các sản phẩm, dịch vụ qua đó nâng cao giá trị sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh, hấp dẫn khách hàng trong nước và quốc tế.
Một số bộ phận doanh nghiệp và nhân dân chưa thực sự quan tâm đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nên việc vi phạm và xâm phạm thời gian qua đã tác động trực tiếp đến những người làm sáng tạo, đồng thời gây cản trở cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa.
Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa chưa thường xuyên, chặt chẽ, đồng bộ.
Nhằm mục đích tìm ra những giải pháp, sáng kiến để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các ngành CNVH Việt Nam theo hướng hiệu quả, bền vững và hội nhập, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng đưa ra những mục tiêu trọng tâm:
Phát triển các ngành CNVH Việt Nam trở thành ngành kinh tế quan trọng, trong đó tập trung phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành CNVH có tiềm năng, lợi thế nhằm đạt mục tiêu các ngành CNVH đóng góp 7% GDP và tiếp tục góp phần phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ CNVH đa dạng, chất lượng cao dựa trên yếu tố đổi mới, sáng tạo, văn hóa truyền thống và tôn trọng bản quyền; nâng cao giá trị của các sản phẩm, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Xác định lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm phát triển CNVH dựa trên lợi thế sẵn có của Việt Nam, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
Hình thành các trung tâm CNVH trọng điểm, như tại TP Hà Nội, TP Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh; định hình, mở rộng và phát triển mạng lưới các thành phố sáng tạo trên cả nước (Quảng Ninh, Quảng Nam, Kiên Giang, Huế, Đà Lạt…).
Tại Hội nghị, nhiều đại biểu, cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực CNVH đã trao đổi thẳng thắn, nêu nhiều ý kiến, giải pháp tích cực phát huy tối đa vai trò, vị trí và sứ mệnh của các ngành CNVH trong phát triển đất nước.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thanh Lâm đề xuất: Trong những quyết sách tới đây, Nhà nước cần thúc đẩy CNVH bằng biện pháp tham gia thị trường như là một khách hàng lớn của văn hóa, là khách hàng khó tính nhưng cũng là khách hàng sòng phẳng có đủ nguồn lực để trang trải. Hiện nay, việc Nhà nước tham gia thị trường và mua dịch vụ công trong rất nhiều lĩnh vực có vướng về thể chế xác định giá, về kinh tế kỹ thuật, quy trình thẩm định rất phức tạp. Năm nay cũng là năm chúng ta sửa đổi các thể chế để thực hiện Luật Giá sửa đổi và thực hiện các cơ chế khác để giải phóng các đơn vị sự nghiệp công trong đó có các đơn vị sự nghiệp công trong lĩnh vực văn hóa. Chúng tôi đề xuất cải cách thể chế này để Nhà nước có thể tham gia thị trường.
Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến thực trạng gọi là “xâm lăng văn hóa”, vào tận phòng ngủ của mỗi gia đình, hiện diện trên điều khiển tivi, xem Youtube, các kênh nước ngoài dễ hơn Truyền hình Việt Nam. Để lập lại trật tự và cân bằng ở lĩnh vực này, từ năm 2024, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị tất cả các nền tảng tivi thông minh của Việt Nam phải cài sẵn các ứng dụng về báo chí, truyền hình.
Tới đây nếu Thủ tướng Chính phủ đồng ý, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ VHTTDL sẽ phối hợp đề xuất có quyết định của Thủ tướng bắt buộc cài sẵn ứng dụng nền tảng OTT lên các sản phẩm thiết bị thông minh. Chúng tôi kêu gọi sự tham gia của Bộ Công Thương ở lĩnh vực này. Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ sớm đề xuất một số thể chế, đặc biệt trong hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Báo chí lần này đưa chính sách xuất khẩu các sản phẩm văn hóa thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình trên không gian số.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc đề xuất 2 nhóm giải pháp là huy động nguồn lực và đánh giá sự đóng góp của các ngành công nghiệp văn hóa. Chỉ tiêu về văn hóa như Thủ tướng đã chỉ đạo khi phát biểu khai mạc thuộc trách nhiệm của ngành văn hóa, và Tổng cục Thống kê sẽ phối hợp với Bộ trong quá trình thực hiện. Dành gói tín dụng ưu đãi khoảng 20-30 nghìn tỷ đồng cho ngành CNVH.
Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận và đánh giá cao sự chuẩn bị, báo cáo và các ý kiến tại Hội nghị; giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu các ý kiến; sớm hoàn thiện để trình ban hành văn bản phù hợp sau Hội nghị, tinh thần là sau Hội nghị có chuyển biến về nhận thức, tư duy và hành động, tạo ra sản phẩm, kết quả cụ thể cho phát triển ngành công nghiệp văn hóa.
Về tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, Thủ tướng chỉ rõ, chưa quy định rõ vai trò quản lý nhà nước, trách nhiệm, quyền hạn đối với một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp văn hóa (như thiết kế mỹ thuật công nghiệp, thiết kế thời trang); cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ.
Thể chế, cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa chưa theo kịp thực tiễn; công tác tổ chức thực hiện trong một số ngành, lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa chưa hiệu quả (như việc xử lý các vấn đề sao chép, vi phạm bản quyền...).
Nguồn lực đầu tư cho CNVH chưa tương xứng, còn dàn trải; việc huy động các nguồn lực ngoài Nhà nước, phương thức đối tác công tư (PPP) chưa đạt yêu cầu.
Nội dung, hình thức sản phẩm, dịch vụ trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa còn hạn chế (thiếu những sản phẩm, tác phẩm lớn, phản ánh được hơi thở, sự phát triển KTXH của đất nước; một số tác phẩm có biểu hiện "lệch chuẩn"); dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như suy thoái kinh tế, dịch bệnh… (Phim nước ngoài chiếm trên 70% phim chiếu rạp; phim truyền hình chủ yếu là phim nước ngoài)
Nguồn nhân lực trong các ngành CNVH chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cả về số lượng và chất lượng; thiếu chính sách đãi ngộ phù hợp.
Nhiều lĩnh vực trong CNVH chưa chuẩn hóa được phương pháp thống kê, thiếu hệ thống theo dõi, nên rất khó đánh giá tình hình phát triển (hiện 3/5 lĩnh vực chủ yếu có chỉ tiêu theo dõi trong Chiến lược phát triển CNVH nhưng chưa có số liệu đánh giá cụ thể).
Về nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, CNVH có tiềm năng lớn, phong phú, đa dạng nhưng cơ chế, chính sách, thể chế còn hạn hẹp, chưa tương xứng với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước.
Đây là lĩnh vực có nội hàm rộng, phạm vi lớn, đa ngành, lĩnh vực, phát triển văn hóa và CNVH không phải nhiệm vụ của riêng Bộ VHTTDL mà cần huy động các cấp, các ngành, các địa phương cùng vào cuộc, huy động được sự đồng lòng, ủng hộ, tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp.
Chưa hình thành thói quen, ý thức trong việc tôn trọng, bảo vệ và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Việc khai thác, sản xuất, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ nhiều lúc, nhiều nơi chưa tuân thủ các quy định, nhất là về sở hữu trí tuệ.
Chưa thực sự chú trọng xây dựng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu quốc gia với chất lượng, tính sáng tạo, giá trị thưởng thức và sử dụng cao, hình thức hấp dẫn, có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế, phản ánh được vẻ đẹp của đất nước, con người, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, sự phát triển năng động và khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Chưa có chiến lược xúc tiến, quảng bá CNVH tầm quốc gia, tầm quốc tế, xứng tầm với các sản phẩm văn hóa.
Quan điểm phát triển các ngành CNVH thời gian tới, Thủ tướng chỉ rõ:
- Phát triển CNVH phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, các nghị quyết chuyên đề, Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng, Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943), phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc.
- Phát triển CNVH phải góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; phải được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, kết nối các hoạt động sáng tạo, văn hóa, nghệ thuật với sản xuất, kinh doanh, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa, dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. CNVH phải được tiếp cận bình đẳng với các ngành công nghiệp khác về tiếp cận vốn, đất đai, thuế và các ưu đãi khác.
- Phát triển có trọng tâm, trọng điểm CNVH theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, sáng tạo, có tính cạnh tranh cao, đồng thời đa dạng hóa, liên kết đa ngành, đa lĩnh vực; phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường và xu thế của thời đại.
- Phát triển CNVH phải gắn liền với việc quảng bá, lan tỏa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Phát triển văn hóa phải gắn liền với phát triển du lịch.
- Các sản phẩm, dịch vụ CNVH phải đảm bảo đáp ứng được các yếu tố "Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp – Lành mạnh - Cạnh tranh – Bền vững", trên nền tảng "Dân tộc - Khoa học - Đại chúng" theo Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943), từng bước tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm và dịch vụ mang tầm quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phải đồng bộ, quyết liệt, kiên trì, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các chính sách có tính chất đột phá nhằm chuyển hóa tài nguyên văn hóa "tiềm năng" thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh cao.
Thủ tướng chỉ rõ, các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức cần quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn, có trọng tâm, trọng điểm hơn nữa; chủ động, phối hợp chặt chẽ, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp văn hóa, khuyến khích mọi sự tìm tòi, sáng tạo, tôn trọng tự do sáng tạo; chú trọng những ngành có nhiều tiềm năng, lợi thế (như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, phần mềm và các trò chơi giải trí), để đến năm 2030 giá trị gia tăng của các ngành CNVH đóng góp cao vào GDP.
Về các nhiệm vụ cụ thể, các bộ ngành, cơ quan, địa phương liên quan phải tập trung tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, cách tiếp cận phù hợp, binh đẳng về chính sách thuế, đầu tư, đất đai, tiếp cận tín dụng và các chính sách khác.
Căn cứ tình hình thực tế để xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, bố trí quỹ đất, cơ sở hạ tầng cho các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là phát triển các không gian sáng tạo, trung tâm hỗ trợ sáng tạo và người thực hành sáng tạo trên địa bàn; lựa chọn lĩnh vực công nghiệp văn hóa có tiềm năng, thế mạnh để phát triển nhanh, bền vững
Đẩy mạnh liên kết vùng, địa phương trong phát triển, khai thác và kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Xây dựng các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa đặc trưng của địa phương, gắn các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa với du lịch và đẩy mạnh phát triển kinh tế ban đêm.
Tăng cường các hoạt động truyền thông, quảng bá văn hóa, công nghiệp văn hóa.
Thủ tướng cho rằng một Hội nghị không thể giải quyết được tất cả các vấn đề đặt ra, nhưng tin tưởng rằng sau Hội nghị này, chúng ta sẽ vững tin hơn, có khí thế mới, động lực mới để phát triển ngành CNVH.
Tin, ảnh: VƯƠNG HÀ