Thứ Ba, 19 tháng 3, 2024

Công nghiệp văn hóa: Mỏ vàng đừng để lãng quên

 Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, để công nghiệp văn hóa nước ta sớm phát triển cần đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm, xây dựng ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam “Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp - Cạnh tranh” trên nền tảng văn hóa “Dân tộc – Khoa học – Đại chúng” của Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943.

“Mỏ vàng đừng để lãng quên”

Báo cáo đánh giá về kết quả triển khai, thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; định hướng và giải pháp phát triển các ngành CNVH Việt Nam trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng nêu rõ: Đây là Hội nghị đầu tiên về CNVH ở quy mô toàn quốc, được Thủ tướng Chính phủ gợi mở, giao nhiệm vụ cho Bộ VHTTDL nghiên cứu, tham mưu, chuẩn bị kỹ lưỡng để tổ chức với lời căn dặn “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm, có mỏ vàng đừng để bị lãng quên”.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
 Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng phát biểu tham luận trung tâm tại Hội nghị. Ảnh: NHẬT BẮC

Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 (Chiến lược 1755), xác định các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm 12 lĩnh vực: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc; (3) Phần mềm và các trò chơi giải trí; (4) Thủ công mỹ nghệ; (5) Thiết kế; (6) Điện ảnh; (7) Xuất bản; (8) Thời trang; (9) Nghệ thuật biểu diễn; (10) Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; (11) Truyền hình và phát thanh; (12) Du lịch văn hóa. Trong đó, Bộ VHTTDL được giao quản lý trực tiếp 5/12 ngành (gồm: quảng cáo; điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; du lịch văn hóa).

Chiến lược 1755 xác định mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp khoảng 3% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Đối với tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm.

Trong giai đoạn 2018-2022, các bộ, ngành, địa phương đã kịp thời chỉ đạo và phê duyệt các kế hoạch, đề án, quy hoạch liên quan đến phát triển 12 ngành CNVH; bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý, điều kiện cho đầu tư, phát triển một số ngành nghề, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế.

Nhận thức của toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng của CNVH đã từng bước được nâng cao. Một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đã đầu tư, nắm bắt cơ hội, hình thành các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Các ngành công nghiệp có khả năng phát triển nhanh, lâu dài và bền vững, có giá trị tôn vinh văn hóa, bản sắc dân tộc, định vị thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế.

CNVH đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước. Các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp đáng kể vào nền kinh tế, trong giai đoạn từ 2018-2022, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD).

Bên cạnh kết quả đạt được, việc phát triển các ngành CNVH vẫn còn nhiều bất cập và thách thức đặt ra như: Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật (luật, nghị định) quy định thực hiện nội dung quản lý nhà nước về công nghiệp văn hóa. Đồng thời, còn thiếu các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp về thu hút nguồn vốn, phát triển nguồn lực để hỗ trợ, thúc đẩy các ngành CNVH phát triển toàn diện trên cả nước nói chung và ở từng địa phương nói riêng.

Nguồn lực đầu tư mang tính dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa tập trung phát triển một số lĩnh vực chuyên ngành có lợi thế, tiềm năng nhằm tạo ra các sản phẩm chủ lực, trọng tâm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Nguồn nhân lực trong các ngành CNVH còn thiếu về số lượng và chất lượng. Chính sách đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa còn chưa thực sự khuyến khích và thu hút nhân lực vào lĩnh vực này.

Chưa có Chỉ số thống kê về ngành công nghiệp văn hoá trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Thống kê của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan có liên quan mới chỉ đáp ứng yêu cầu báo cáo phục vụ công tác quản lý, chưa được thực hiện toàn diện và đầy đủ dẫn đến việc đề xuất giải pháp phát triển của từng lĩnh vực chưa kịp thời và sát thực tế.

Nội dung, hình thức các sản phẩm, dịch vụ trong các ngành công nghiệp văn hóa (phần mềm, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, kiến trúc, thời trang…) chưa thực sự khai thác được hết các đặc trưng văn hoá bản địa để tạo sự độc đáo, riêng có trong các sản phẩm, dịch vụ qua đó nâng cao giá trị sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh, hấp dẫn khách hàng trong nước và quốc tế.

Một số bộ phận doanh nghiệp và nhân dân chưa thực sự quan tâm đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nên việc vi phạm và xâm phạm thời gian qua đã tác động trực tiếp đến những người làm sáng tạo, đồng thời gây cản trở cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa.

Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa chưa thường xuyên, chặt chẽ, đồng bộ.

Nhằm mục đích tìm ra những giải pháp, sáng kiến để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các ngành CNVH Việt Nam theo hướng hiệu quả, bền vững và hội nhập, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng đưa ra những mục tiêu trọng tâm:

Phát triển các ngành CNVH Việt Nam trở thành ngành kinh tế quan trọng, trong đó tập trung phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành CNVH có tiềm năng, lợi thế nhằm đạt mục tiêu các ngành CNVH đóng góp 7% GDP và tiếp tục góp phần phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.

Xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ CNVH đa dạng, chất lượng cao dựa trên yếu tố đổi mới, sáng tạo, văn hóa truyền thống và tôn trọng bản quyền; nâng cao giá trị của các sản phẩm, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa.

Xác định lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm phát triển CNVH dựa trên lợi thế sẵn có của Việt Nam, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.

Hình thành các trung tâm CNVH trọng điểm, như tại TP Hà Nội, TP Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh; định hình, mở rộng và phát triển mạng lưới các thành phố sáng tạo trên cả nước (Quảng Ninh, Quảng Nam, Kiên Giang, Huế, Đà Lạt…).

Tại Hội nghị, nhiều đại biểu, cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực CNVH đã trao đổi thẳng thắn, nêu nhiều ý kiến, giải pháp tích cực phát huy tối đa vai trò, vị trí và sứ mệnh của các ngành CNVH trong phát triển đất nước.

Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thanh Lâm đề xuất: Trong những quyết sách tới đây, Nhà nước cần thúc đẩy CNVH bằng biện pháp tham gia thị trường như là một khách hàng lớn của văn hóa, là khách hàng khó tính nhưng cũng là khách hàng sòng phẳng có đủ nguồn lực để trang trải. Hiện nay, việc Nhà nước tham gia thị trường và mua dịch vụ công trong rất nhiều lĩnh vực có vướng về thể chế xác định giá, về kinh tế kỹ thuật, quy trình thẩm định rất phức tạp. Năm nay cũng là năm chúng ta sửa đổi các thể chế để thực hiện Luật Giá sửa đổi và thực hiện các cơ chế khác để giải phóng các đơn vị sự nghiệp công trong đó có các đơn vị sự nghiệp công trong lĩnh vực văn hóa. Chúng tôi đề xuất cải cách thể chế này để Nhà nước có thể tham gia thị trường.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
 Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thanh Lâm phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: NHẬT BẮC

Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến thực trạng gọi là “xâm lăng văn hóa”, vào tận phòng ngủ của mỗi gia đình, hiện diện trên điều khiển tivi, xem Youtube, các kênh nước ngoài dễ hơn Truyền hình Việt Nam. Để lập lại trật tự và cân bằng ở lĩnh vực này, từ năm 2024, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị tất cả các nền tảng tivi thông minh của Việt Nam phải cài sẵn các ứng dụng về báo chí, truyền hình.

Tới đây nếu Thủ tướng Chính phủ đồng ý, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ VHTTDL sẽ phối hợp đề xuất có quyết định của Thủ tướng bắt buộc cài sẵn ứng dụng nền tảng OTT lên các sản phẩm thiết bị thông minh. Chúng tôi kêu gọi sự tham gia của Bộ Công Thương ở lĩnh vực này. Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ sớm đề xuất một số thể chế, đặc biệt trong hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Báo chí lần này đưa chính sách xuất khẩu các sản phẩm văn hóa thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình trên không gian số.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc đề xuất 2 nhóm giải pháp là huy động nguồn lực và đánh giá sự đóng góp của các ngành công nghiệp văn hóa. Chỉ tiêu về văn hóa như Thủ tướng đã chỉ đạo khi phát biểu khai mạc thuộc trách nhiệm của ngành văn hóa, và Tổng cục Thống kê sẽ phối hợp với Bộ trong quá trình thực hiện. Dành gói tín dụng ưu đãi khoảng 20-30 nghìn tỷ đồng cho ngành CNVH.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
 Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc đề xuất các giải pháp. Ảnh: NHẬT BẮC

Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận và đánh giá cao sự chuẩn bị, báo cáo và các ý kiến tại Hội nghị; giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu các ý kiến; sớm hoàn thiện để trình ban hành văn bản phù hợp sau Hội nghị, tinh thần là sau Hội nghị có chuyển biến về nhận thức, tư duy và hành động, tạo ra sản phẩm, kết quả cụ thể cho phát triển ngành công nghiệp văn hóa.

Về tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, Thủ tướng chỉ rõ, chưa quy định rõ vai trò quản lý nhà nước, trách nhiệm, quyền hạn đối với một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp văn hóa (như thiết kế mỹ thuật công nghiệp, thiết kế thời trang); cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ.

Thể chế, cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa chưa theo kịp thực tiễn; công tác tổ chức thực hiện trong một số ngành, lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa chưa hiệu quả (như việc xử lý các vấn đề sao chép, vi phạm bản quyền...).

Nguồn lực đầu tư cho CNVH chưa tương xứng, còn dàn trải; việc huy động các nguồn lực ngoài Nhà nước, phương thức đối tác công tư (PPP) chưa đạt yêu cầu.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tổng kết Hội nghị. Ảnh: NHẬT BẮC

Nội dung, hình thức sản phẩm, dịch vụ trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa còn hạn chế (thiếu những sản phẩm, tác phẩm lớn, phản ánh được hơi thở, sự phát triển KTXH của đất nước; một số tác phẩm có biểu hiện "lệch chuẩn"); dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như suy thoái kinh tế, dịch bệnh… (Phim nước ngoài chiếm trên 70% phim chiếu rạp; phim truyền hình chủ yếu là phim nước ngoài)

Nguồn nhân lực trong các ngành CNVH chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cả về số lượng và chất lượng; thiếu chính sách đãi ngộ phù hợp.

Nhiều lĩnh vực trong CNVH chưa chuẩn hóa được phương pháp thống kê, thiếu hệ thống theo dõi, nên rất khó đánh giá tình hình phát triển (hiện 3/5 lĩnh vực chủ yếu có chỉ tiêu theo dõi trong Chiến lược phát triển CNVH nhưng chưa có số liệu đánh giá cụ thể).

Về nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, CNVH có tiềm năng lớn, phong phú, đa dạng nhưng cơ chế, chính sách, thể chế còn hạn hẹp, chưa tương xứng với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước.

Đây là lĩnh vực có nội hàm rộng, phạm vi lớn, đa ngành, lĩnh vực, phát triển văn hóa và CNVH không phải nhiệm vụ của riêng Bộ VHTTDL mà cần huy động các cấp, các ngành, các địa phương cùng vào cuộc, huy động được sự đồng lòng, ủng hộ, tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp.

Chưa hình thành thói quen, ý thức trong việc tôn trọng, bảo vệ và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Việc khai thác, sản xuất, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ nhiều lúc, nhiều nơi chưa tuân thủ các quy định, nhất là về sở hữu trí tuệ.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
Các đại biểu tham dự Hội thảo. Ảnh: NHẬT BẮC 

Chưa thực sự chú trọng xây dựng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu quốc gia với chất lượng, tính sáng tạo, giá trị thưởng thức và sử dụng cao, hình thức hấp dẫn, có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế, phản ánh được vẻ đẹp của đất nước, con người, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, sự phát triển năng động và khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Chưa có chiến lược xúc tiến, quảng bá CNVH tầm quốc gia, tầm quốc tế, xứng tầm với các sản phẩm văn hóa.

Quan điểm phát triển các ngành CNVH thời gian tới, Thủ tướng chỉ rõ:

- Phát triển CNVH phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, các nghị quyết chuyên đề, Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng, Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943), phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc.

- Phát triển CNVH phải góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; phải được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, kết nối các hoạt động sáng tạo, văn hóa, nghệ thuật với sản xuất, kinh doanh, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa, dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. CNVH phải được tiếp cận bình đẳng với các ngành công nghiệp khác về tiếp cận vốn, đất đai, thuế và các ưu đãi khác.

- Phát triển có trọng tâm, trọng điểm CNVH theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, sáng tạo, có tính cạnh tranh cao, đồng thời đa dạng hóa, liên kết đa ngành, đa lĩnh vực; phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường và xu thế của thời đại.

- Phát triển CNVH phải gắn liền với việc quảng bá, lan tỏa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Phát triển văn hóa phải gắn liền với phát triển du lịch.

- Các sản phẩm, dịch vụ CNVH phải đảm bảo đáp ứng được các yếu tố "Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp – Lành mạnh - Cạnh tranh – Bền vững", trên nền tảng "Dân tộc - Khoa học - Đại chúng" theo Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943), từng bước tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm và dịch vụ mang tầm quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

- Việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phải đồng bộ, quyết liệt, kiên trì, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các chính sách có tính chất đột phá nhằm chuyển hóa tài nguyên văn hóa "tiềm năng" thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh cao.

Thủ tướng chỉ rõ, các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức cần quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn, có trọng tâm, trọng điểm hơn nữa; chủ động, phối hợp chặt chẽ, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp văn hóa, khuyến khích mọi sự tìm tòi, sáng tạo, tôn trọng tự do sáng tạo; chú trọng những ngành có nhiều tiềm năng, lợi thế (như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, phần mềm và các trò chơi giải trí), để đến năm 2030 giá trị gia tăng của các ngành CNVH đóng góp cao vào GDP.

Về các nhiệm vụ cụ thể, các bộ ngành, cơ quan, địa phương liên quan phải tập trung tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, cách tiếp cận phù hợp, binh đẳng về chính sách thuế, đầu tư, đất đai, tiếp cận tín dụng và các chính sách khác.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
Hội nghị tổ chức trực tuyến tới các tỉnh, thành phố. Ảnh: NHẬT BẮC

Căn cứ tình hình thực tế để xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, bố trí quỹ đất, cơ sở hạ tầng cho các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là phát triển các không gian sáng tạo, trung tâm hỗ trợ sáng tạo và người thực hành sáng tạo trên địa bàn; lựa chọn lĩnh vực công nghiệp văn hóa có tiềm năng, thế mạnh để phát triển nhanh, bền vững

Đẩy mạnh liên kết vùng, địa phương trong phát triển, khai thác và kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Xây dựng các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa đặc trưng của địa phương, gắn các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa với du lịch và đẩy mạnh phát triển kinh tế ban đêm.

Tăng cường các hoạt động truyền thông, quảng bá văn hóa, công nghiệp văn hóa.

Thủ tướng cho rằng một Hội nghị không thể giải quyết được tất cả các vấn đề đặt ra, nhưng tin tưởng rằng sau Hội nghị này, chúng ta sẽ vững tin hơn, có khí thế mới, động lực mới để phát triển ngành CNVH.

Tin, ảnh: VƯƠNG HÀ

Ngăn ngừa suy thoái trong công nghiệp văn hóa

 Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) Việt Nam, diễn ra ngày 22-12-2023 ở Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh yêu cầu: Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, tư duy đến hành động, đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm... đồng thời nhận diện thời cơ, thách thức của CNVH Việt Nam trong thời gian tới...

Tư duy phiến diện và hành động “ăn xổi”

Công nghiệp văn hóa là một khái niệm có biên độ tư duy và phạm vi ứng dụng rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, đa phương thức. Trên thế giới, tùy vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và đặc trưng văn hóa, mỗi quốc gia có cách phát triển CNVH khác nhau.

Tại Việt Nam, CNVH trên thực tế đang là lĩnh vực khá non trẻ. Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, Đảng, Nhà nước ta đã có định hướng phát triển CNVH từ sớm và tư duy phát triển CNVH được bổ sung, phát triển qua từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trên lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.

Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành CNVH của Chính phủ ngày 22-12-2023 đã chỉ rõ: Nội dung, hình thức sản phẩm, dịch vụ trong các lĩnh vực CNVH còn hạn chế (thiếu những sản phẩm, tác phẩm lớn, phản ánh được hơi thở, sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; một số tác phẩm có biểu hiện "lệch chuẩn"); dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài...

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn

Sự “lệch chuẩn” trong CNVH, từ những góc nhìn cận cảnh trên thực tế, có thể thấy, nó xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNVH của Đảng. Từ đó dẫn đến tư duy phiến diện trong một bộ phận tổ chức, cá nhân làm văn hóa. Lối tư duy ấy sinh ra cách làm thực dụng, “ăn xổi”. Đơn cử, tại TP Hồ Chí Minh, ngành công nghiệp giải trí có sự bứt phá, vươn lên bằng các mô hình xã hội hóa. Sự huy động các nguồn lực, trong đó có nguồn lực từ kiều bào và hợp tác quốc tế đã thổi một luồng gió mới cho thị trường giải trí ở TP Hồ Chí Minh.

Hàng loạt mô hình sân khấu xã hội hóa, hãng phim tư nhân, công ty dịch vụ giải trí... ra đời, đem đến cho thị trường sự đa dạng về loại hình, phong phú về sản phẩm. Nhưng rồi, chỉ được một thời gian, nhiều mô hình đã bị thoái trào, nhiều doanh nghiệp giải thể, nhiều sân khấu đóng cửa, một số hãng phim chỉ còn cái tên trong quá khứ. Thậm chí, không ít tổ chức, cá nhân (trong đó có một số người nổi tiếng) vi phạm pháp luật đã bị truy tố.

Nhìn từ khía cạnh văn hóa tư tưởng, có thể thấy, điều đáng lo ngại hiện nay chính là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống trong CNVH. Để kiếm nhiều tiền, muốn nhanh chóng nổi tiếng, không ít tổ chức, cá nhân sẵn sàng sử dụng chiêu trò phản cảm bằng mọi giá. Sự xuất hiện nhan nhản các danh hiệu tự phong, kiểu như: “Nữ hoàng”, “ông vua”, “nam thần”, “thánh nữ”, “ngôi sao”... cùng việc “bội thực” các cuộc thi nhan sắc khiến tình trạng “lệch chuẩn” trong thị trường giải trí ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó là sự “lệch chuẩn” về tư tưởng, nội dung tác phẩm.

Những ồn ào dư luận xoay quanh một số bộ phim điện ảnh, tác phẩm văn học thời gian qua cho thấy, nhiều giá trị cốt lõi của văn hóa, truyền thống dân tộc bị “hư cấu” theo những góc nhìn phiến diện. Phẩm chất anh hùng, lòng yêu nước hun đúc nên cốt cách dân tộc bị “pha loãng”, trở nên hời hợt, nhạt nhòa. Thậm chí, có lúc nó bị biến thành công cụ, chi tiết để chọc cười, câu khách...

Xu thế tất yếu và tính cấp thiết “lấy xây để chống”

Nguyên nhân căn bản của những hạn chế, bất cập nêu trên chính là do môi trường CNVH bị chi phối, ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá nhân. Thực trạng này đòi hỏi phải chấn chỉnh, khắc phục cách làm “ăn xổi”, manh mún, chụp giật; đồng thời phải đổi mới mạnh mẽ nhận thức, tư duy và hành động trong CNVH. Báo cáo tổng kết công tác năm 2023 của ngành tuyên giáo TP Hồ Chí Minh do đồng chí Phan Nguyễn Như Khuê, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TP Hồ Chí Minh trình bày tại hội nghị ngày 28-12-2023 cũng nêu rõ: Công tác đấu tranh, phòng, chống luận điểm xấu độc trên không gian mạng thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật chưa kịp thời; việc thực hiện cơ chế đặt hàng tác phẩm văn học nghệ thuật đối với đội ngũ sáng tạo ngoài công lập chưa tạo được sự thu hút đối với các nguồn lực xã hội...

Phát triển CNVH là xu thế tất yếu. Trong chiến lược phát triển Việt Nam hùng cường, tiềm năng, thế mạnh từ văn hóa dân tộc cần được khai mở, tận dụng, phát triển một cách mạnh mẽ, toàn diện. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khẩn trương triển khai có trọng tâm, trọng điểm ngành CNVH và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.

Để CNVH phát triển bền vững với tinh thần khẩn trương theo định hướng của Đảng, phương châm kết hợp “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được nhất quán từ chủ trương vĩ mô đến ứng dụng, phát triển các mô hình, loại hình từ cơ sở. Chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế được Đảng ta xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) chính là một trong những nguyên tắc nền tảng để đổi mới tư duy, hành động “xây” và “chống” trong CNVH. Mục tiêu phát triển đã được Chính phủ xác định rõ, đến năm 2030 đạt 7% tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ CNVH.

Cơ cấu CNVH bao gồm nhiều lĩnh vực, song ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng, như: Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thủ công mỹ nghệ, quảng cáo, phần mềm và các trò chơi giải trí, truyền hình và phát thanh, thời trang, du lịch văn hóa...

Các ngành ưu tiên phát triển cũng chính là những lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố nhạy cảm. Thời cơ cho CNVH rất lớn, nhưng thách thức cũng đến từ chính yếu tố nhạy cảm của nó mà nhiều khi hiệu lực luật pháp không can thiệp được.

Để “xây” và “chống” có hiệu quả, phải lấy vũ khí văn hóa đạo đức đẩy lùi mầm mống phản văn hóa, quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong hoạt động văn hóa. Mục tiêu kinh tế của CNVH không chỉ có việc nâng tầm, nâng chất lượng các yếu tố về nhân lực, vật chất, công nghệ... mà cần coi trọng giá trị cốt lõi của văn hóa. Cùng với đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong môi trường CNVH, cần phát huy vai trò của các tổ chức hội, đoàn, hiệp hội từ Trung ương đến địa phương trong quản lý, định hướng lao động nghề nghiệp của văn nghệ sĩ và doanh nghiệp.

Để “xây” tốt thì phải ngăn ngừa mầm mống suy thoái ngay từ tư duy, ý tưởng sáng tạo, biểu diễn, phổ biến tác phẩm. Vai trò nòng cốt của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong các hội, đoàn, hiệp hội cần được đề cao để hội viên các ngành, các lĩnh vực có môi trường lao động, cống hiến lành mạnh, đúng định hướng của Đảng. Muốn CNVH phát triển bền vững, phải đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để có tác phẩm lớn.

Tác phẩm lớn xứng tầm thời đại luôn được hình thành trên nền tảng truyền thống văn hóa, cốt cách dân tộc. Rời bỏ giá trị cốt lõi ấy, tác phẩm chỉ là sự vay mượn, lai căng, nó có thể gây sốt thị trường ở một lúc, một nơi nào đó, nhưng chắc chắn khó tránh khỏi "chết yểu". Mà bản chất CNVH thì không thể nào chấp nhận những "cái chết" kiểu như vậy.

PHAN TÙNG SƠN

Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 “Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân sinh ra chủ quan và suy thoái về tư tưởng chính trị, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa sự tồn vong của Đảng.

Vì thế, chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu thường xuyên và cấp bách hiện nay.

Sự nguy hại của “bệnh lười” học tập, coi khinh lý luận

Nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của lý luận Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là Chủ nghĩa Lênin”. Việc khẳng định Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt và lựa chọn Chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt chính là việc xác định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thực hiện tư tưởng này của Người, suốt từ khi thành lập đến đầu năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động, nhờ đó mà Đảng luôn luôn vững mạnh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi to lớn.

Đại hội lần thứ VII (6-1991), Đảng xác định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Từ đây, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" alt="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" class="vllogo"></a>
Ảnh minh họa:Internet

Từ vai trò to lớn và hết sức quan trọng của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang đặt ra yêu cầu thường xuyên và cấp bách đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận, góp phần tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm túc yêu cầu thường xuyên, cấp bách này, các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quyết định bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong suốt 94 năm qua. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mắc phải “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhìn nhận thực trạng của “căn bệnh” này, từ tháng 10-1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “bệnh chủ quan” của không ít cán bộ, đảng viên, mà theo Người: “Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”. Người cho rằng “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay là “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Tiếp đó, Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh, cần “khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”.

Điều đáng lo ngại hiện nay là một số cơ sở nghiên cứu, giáo dục-đào tạo (GD-ĐT), nhất là những cơ sở nghiên cứu, GD-ĐT lý luận chính trị chưa thật chú trọng quan tâm và đặt ra yêu cầu cao về học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó dẫn tới một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, sinh viên và học viên sau đại học còn ngại, né tránh, mắc “bệnh lười” học tập và tìm tòi, nghiên cứu để nắm vững tính cách mạng, khoa học, nhân văn trong tư tưởng, quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và bảo vệ, vận dụng, phát triển sáng tạo những tư tưởng, quan điểm đó trong thực tiễn. Bên cạnh đó, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, sách tham khảo, khóa luận, luận văn và luận án nghiên cứu trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn không chú trọng đi sâu luận giải có tính hệ thống đầy đủ và sâu sắc cơ sở lý luận và những nội dung lý luận cụ thể, cần thiết liên quan tới đề tài nghiên cứu-biểu hiện của “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi đó, có nhiều hội đồng nghiệm thu đề tài, duyệt sách và chấm khóa luận, luận văn, luận án đã coi nhẹ và không kiên quyết đòi hỏi thực hiện nghiêm túc yêu cầu này, dẫn tới dễ dãi, bỏ qua hạn chế, góp phần làm cho “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng thêm trầm trọng hơn.

“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dẫn tới nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên mà còn làm cho họ thiếu hiểu biết sâu sắc về lý luận, từ đó không dám và không có khả năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tính cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để góp phần bảo vệ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.

Giải pháp căn cơ góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

Thực trạng và tính chất nguy hại của “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên nêu trên đặt ra yêu cầu thường xuyên và cấp bách phải kiên quyết chống “căn bệnh” này, góp phần bảo vệ và tăng cường nền tảng tư tưởng của Đảng thêm vững chắc trong tình hình mới.

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc, hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã xác định: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Học tập, nghiên cúu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư duy khoa học, có phương pháp làm việc biện chứng; có phương thức lãnh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... phù hợp với quy luật khách quan. Nếu không học tập, nghiên cứu sẽ không có hiểu biết về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dễ lạc phương hướng và “mù chính trị”, thậm chí xa rời cách mạng. Học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ góp phần để cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, vận dụng hiệu quả những tri thức lý luận vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà còn là cẩm nang để giúp mỗi cán bộ, đảng viên gần dân, hiểu dân và trọng dân, xứng đáng là người lãnh đạo gương mẫu, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Hai là, xây dựng chế tài, kịp thời có biện pháp xử lý mọi biểu hiện “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh thực hiện nghiêm túc quy định trong Điều lệ Đảng về trách nhiệm của đảng viên phải tích cực học tập lý luận nói chung, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, địa phương phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phòng, chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cơ sở nghiên cứu, GD-ĐT lý luận chính trị cần có các điều khoản cụ thể, đầy đủ trong quy chế, quy định về nghiên cứu khoa học và GD-ĐT để khắc phục “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, cần có chế tài đủ mạnh và kịp thời xử lý với những biện pháp kiên quyết để chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh biểu hiện ở kết quả của những sản phẩm nghiên cứu như đề tài khoa học các cấp, sách chuyên khảo, tham khảo, khóa luận, luận văn, luận án...

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đẩy mạnh đấu tranh phê bình và tự phê bình chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kiểm tra, thanh tra là khâu không thể thiếu nhằm bảo đảm nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp về bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, góp phần khắc phục “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các cơ sở nghiên cứu, GD-ĐT lý luận chính trị càng phải chú trọng tăng cường kiểm tra, thanh tra, qua đó nhân rộng những điển hình tiên tiến, những mô hình hay, cách làm tốt trong học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, phát hiện những biểu hiện của “căn bệnh” này để có biện pháp phòng ngừa, xử lý kịp thời.

Cần đẩy mạnh đấu tranh phê bình và tự phê bình chống mọi biểu hiện “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tự phê bình và phê bình là để hướng tới làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận ra những khuyết điểm, giúp nhau sửa chữa và khắc phục “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị. Trong tình hình hiện nay, để đấu tranh chống “căn bệnh” này có hiệu quả, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên “mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa” như Hồ Chí Minh đã dạy.

Bốn là, phát huy vai trò tự giác học tập và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần lời dạy đó của Người, thường xuyên học tập, trau dồi nâng cao trình độ lý luận và phẩm chất đạo đức cách mạng, gắn việc học lý luận với thực tiễn công việc hằng ngày. Trong học tập, nghiên cứu cần “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”(1), tránh giáo điều, tiếp thu lý luận một cách máy móc, kinh viện, tránh lý luận suông, không biết vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể.

“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là một trong những mối đe dọa “đạo đức, văn minh” và sự tồn vong của Đảng; nó sinh ra “bệnh chủ quan” và dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây chính là một trong những khuyết điểm, sai lầm trong đội ngũ chiến sĩ tiên phong của Đảng. Chính vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng lúc này cần phải thấm nhuần lời dạy của V.I. Lênin: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta... Nếu chúng ta sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”. Từ đó, phải kiên quyết chống “căn bệnh” này, thông qua tích cực học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, H, tập 11, tr.611.

Trung tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN BẠO, Giám đốc Học viện Chính trị

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...