Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018


BÌNH TĨNH, TỈNH TÁO, CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG CÁI NHÌN LỆCH LẠC VỀ GIÁO DỤC VIỆT NAM

QĐND - Những ngày qua, trong khi hàng triệu học sinh, sinh viên háo hức bước vào năm học mới 2018-2019, thì trên nhiều trang mạng xã hội, nhất là các trang mạng của những phần tử cơ hội và một số tờ báo điện tử nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam đã có những nhận định chủ quan, cái nhìn sai trái, ý kiến lệch lạc về giáo dục Việt Nam. Cần phải vạch rõ “chân tướng” đằng sau những luận điệu này.

Chuyện bé xé ra to, gắn vấn đề giáo dục với mưu đồ chính trị
Nguyên cớ khởi đầu từ một clip đăng trên trang mạng xã hội quay cảnh một người được cho là giáo viên tiểu học đang hướng dẫn phụ huynh cách dạy con lớp 1 đánh vần theo cuốn Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) của một giáo sư. Một câu chuyện giảng dạy theo phương pháp mới tưởng như bình thường, nhưng nó bị đẩy lên quá mức làm “nóng” dư luận. Nhân cơ hội này, một số người vốn có cái nhìn định kiến, cực đoan và những kẻ có tư tưởng cơ hội chính trị, bất mãn, thù hằn với chế độ Việt Nam đã cố tình làm to chuyện, phức tạp hóa vấn đề, thậm chí gắn vấn đề giáo dục với vấn đề chính trị với những toan tính xấu.
Không chỉ đưa ra các nhận định đầy miệt thị, ác ý như: “Cải cách giáo dục của Việt Nam mấy chục năm nay thất bại vì tư duy tiểu nông, vì bóc ngắn cắn dài”, “Giáo dục Việt Nam trong 30 năm qua không chỉ rối loạn bởi các đề án hoang tưởng tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng mà còn đối diện với cuộc khủng hoảng suy đồi đạo đức nghiêm trọng khiến niềm tin vào những gì được gọi là “cải cách” sụp đổ”; có người còn đưa ra cái gọi là “kiến nghị” rằng: “Nếu không làm được một bộ sách giáo khoa cho ra hồn, giải pháp khả thi là mua một bộ sách giáo khoa của Anh, Mỹ về cho các cháu học, cháu nào học được thì học mà không học được thì dịch ra tiếng Việt mà học”(!). Rồi một số người lại đề xuất cái gọi là “khuyến cáo”: “Những thiên thần vô tội không nên và không thể tiếp tục bị đem ra làm vật hy sinh cho các tranh cãi liên miên về cải cách giáo dục và chương trình-sách giáo khoa hay các thử nghiệm cải cách thi cử”. Họ còn lên tiếng lu loa: “Ý thức hệ giáo điều trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường vẫn gây nên sự ngộ nhận chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cải cách khiến cho mục đích giáo dục thiếu tính thực tế, sai với lẽ tự nhiên”(!)...
Trước đó, lợi dụng những sai phạm xảy ra ở Hội đồng thi Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ba tỉnh: Hà Giang, Sơn La và Hòa Bình, một số ý kiến cũng tỏ thái độ hằn học khi cho rằng “gian lận thi cử ở Hà Giang là bi kịch từ lỗi hệ thống”; “sự thối nát của nền giáo dục Việt có căn gốc từ thể chế chính trị”(!).
Những lời lẽ trên cần phải phê phán, bác bỏ vì nó đã được nhìn nhận qua “lăng kính màu đen”, đánh đồng hiện tượng với bản chất, lợi dụng vấn đề giáo dục để đan cài mục đích chính trị thiếu lành mạnh.
Về những sai phạm trong kỳ thi THPT quốc gia ở ba tỉnh nêu trên, ngay sau khi xảy ra vụ việc, những người gây ra sai phạm đã bị cơ quan chức năng khởi tố, bắt tạm giam vì đã phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ. Những bài thi, thí sinh được nâng điểm thi qua quá trình thẩm định chặt chẽ đã bị hạ điểm thi theo đúng quy chế. Có thể nói rằng, sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương, quyết liệt của các cơ quan chức năng góp phần nhanh chóng làm sáng tỏ vụ việc để dư luận xã hội hiểu đúng tình hình; tin tưởng vào việc tổ chức kỳ thi THPT quốc gia ngày càng được bảo đảm nghiêm túc, chặt chẽ hơn.
Không thể phủ nhận những thành tựu và nỗ lực đổi mới của giáo dục Việt Nam
Có thể nói rằng, việc nhiều người dân cũng như dư luận xã hội quan tâm đến những đổi mới của lĩnh vực giáo dục nói chung, chương trình cải cách giáo dục và sách giáo khoa nói riêng, là điều bình thường, vì sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Người dân lo toan đến giáo dục là lo toan đến vận mệnh đất nước. Thế nhưng, cần tỉnh táo nhận diện, phân biệt đâu là những ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, trách nhiệm, vì lợi ích chung; đâu là ý kiến đội danh “phản biện” mà “biện” thì ít, còn “phản” thì nhiều! Mặt khác, khi nhìn nhận, đánh giá về vấn đề giáo dục rất cần có thái độ thận trọng, khách quan và cái nhìn biện chứng, khoa học.
Ví như khi nhận định về tài liệu TV1-CNGD, không nên và cũng không thể chỉ lấy một phương pháp đánh vần mới, không giống cách đánh vần truyền thống, rồi đưa ra hai thái cực, hoặc là phủ nhận hoàn toàn, hoặc là ủng hộ tuyệt đối. Về vấn đề này, đại diện lãnh đạo Bộ GD&ĐT đã khẳng định, tài liệu TV1-CNGD về cơ bản bảo đảm các yêu cầu về mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng của môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) cấp tiểu học. Tài liệu này là một trong những phương án để các địa phương lựa chọn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình GDPT hiện hành, nhất là với học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, sẽ không mở rộng triển khai chương trình để giữ ổn định cho đến khi thực hiện Chương trình GDPT mới được triển khai từ năm học 2019-2020.
Mặc dù cơ quan chức năng đã thông tin chính thức như vậy, nhưng một số người coi việc đánh vần “lạ” theo tài liệu TV1-CNGD như là cái cớ để “xới tung” một vấn đề không mới, nhưng lại ẩn chứa những dụng ý chính trị cũ rích khi cho rằng, giáo dục Việt Nam “rối rắm vì thiếu triết lý”, lại “không cải tiến được vì không có làn gió mới, máu mới vào nền giáo dục”, rồi từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục, xuyên tạc bản chất của nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã được bao thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục bền bỉ vun trồng, bồi đắp suốt 73 năm qua.
Thực tế, nền giáo dục Việt Nam luôn vận động theo sự phát triển của xã hội. Việt Nam đã tiến hành ba lần cải cách giáo dục (các năm 1950, 1956, 1981) cho phù hợp với từng thời kỳ lịch sử và đáp ứng với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đang được triển khai tích cực với những bước đi, giải pháp phù hợp.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia giáo dục, kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng từ năm 2013 đến nay, nhiều đổi mới trong ngành giáo dục có tín hiệu khả quan. Việc triển khai chương trình GDPT mới đang đi đúng lộ trình. Theo kế hoạch đề ra đến năm học 2019-2020, chương trình GDPT mới sẽ được triển khai ở bậc tiểu học, bắt đầu từ lớp 1. Đến nay, đã có 24 trường đại học thí điểm tự chủ. Một trong những thành tựu của ngành giáo dục thời gian qua là chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững, nổi bật là các đoàn học sinh Việt Nam tham dự Olympic quốc tế hằng năm đều đoạt giải cao. Trong tháng 7-2018 vừa qua, 100% thí sinh Việt Nam dự thi Olympic quốc tế các môn: Vật lý, Toán học, Hóa học, Sinh học đều đoạt huy chương (gồm 7 huy chương vàng, 6 huy chương bạc, 5 huy chương đồng), trong đó, Việt Nam là một trong 10 nước đoạt từ hai huy chương vàng trở lên và xếp thứ hạng cao tại cuộc thi Olympic Vật lý quốc tế; đặc biệt thí sinh Nguyễn Phương Thảo đạt tổng điểm cao nhất cuộc thi trên tổng số 261 thí sinh tại Olympic Sinh học quốc tế tổ chức ở Iran.
Theo báo cáo được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 15-3-2018, 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới đang nằm ở khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. WB gọi Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục. Đầu tháng 6-2018, QS (Quacquarelli Symonds) của Anh quốc-một trong những bảng xếp hạng có uy tín hàng đầu thế giới-đã công bố bảng xếp hạng tốp 1.000 trường đại học thế giới, trong đó lần đầu tiên Việt Nam có hai đại diện là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Những kết quả này thêm một lần khẳng định quá trình đổi mới của giáo dục Việt Nam đang đi đúng hướng, được nhiều tổ chức quốc tế có uy tín ghi nhận.    
Nỗ lực vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục
Tất nhiên, nói thế không có nghĩa là giáo dục Việt Nam chỉ có những thành tựu, mà cũng đang phải vượt qua những thách thức không nhỏ. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo đã nhận thấy những bất cập, hạn chế của ngành giáo dục cần phải khắc phục, đó là: Chương trình học có môn còn quá tải; phương pháp dạy học còn thiên về truyền thụ kiến thức nên chưa phát huy được tính tích cực của người học; việc kiểm tra, thi cử còn nặng về điểm số dẫn tới áp lực cho học sinh; giáo dục đại học chưa đáp ứng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước…
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm từng bước khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực giáo dục, tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức GD&ĐT; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống GD&ĐT. Từ đầu năm 2018 đến nay, nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kỳ họp của Quốc hội đã góp ý, thảo luận sôi nổi về việc sửa đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục Đại học hiện hành để sớm thông qua vào kỳ họp gần nhất. Động thái này của Quốc hội cũng không ngoài mục đích tạo ra “cú hích” mới, động lực mới thúc đẩy sự phát triển giáo dục nước nhà trong thời gian tới.
Giáo dục liên quan đến mọi người, mọi nhà và ảnh hưởng mật thiết đến sự ổn định, phát triển của quốc gia. Do vậy, khi nhìn nhận, đánh giá về giáo dục rất cần phải được xem xét toàn diện, thấu đáo ở mọi khía cạnh, đặt trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa những thành quả đổi mới đã đạt được và những sức ỳ, lực cản trong lộ trình đổi mới cần phải khắc phục. Không nên lấy một vài cái sai đơn lẻ trong hoạt động giáo dục hay những vấn đề đang còn tranh luận để phủ nhận những nỗ lực đổi mới giáo dục cũng như những thành quả giáo dục của Việt Nam trong những năm qua. Vì điều đó làm tổn thương đến tình cảm, niềm tin, tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm cao cả của hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên và hàng vạn cán bộ quản lý giáo dục đang lặng thầm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.
THIỆN VĂN
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/binh-tinh-tinh-tao-canh-giac-truoc-nhung-cai-nhin-lech-lac-ve-giao-duc-viet-nam-549717


QUYỀN LỰC MỀM CỦA HỒ CHÍ MINH

(LLCT) - Trên cơ sở nhận thức cơ bản về quyền lực mềm, bài viết phân tích tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh trong việc sử dụng quyền lực mềm trên ba khía cạnh cơ bản. Một là, văn hóa Hồ Chí Minh - sức hấp dẫn mọi người và các dân tộc một cách tuyệt vời; Hai là, chính trị Hồ Chí Minh “đoàn kết và thanh khiết, sao cho được lòng dân” có giá trị cả trong và ngoài nước; Ba là, chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh chính danh và có giá trị đạo đức, làm bạn với tất cả các nước vì một nền hòa bình bền vững và thịnh vượng chung, thể hiện tình hữu nghị, mở cửa hợp tác với các nước
Sinh thời, Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “Quyền lực mềm”, nhưng những gì ngày nay ta hiểu về “Quyền lực mềm” (Soft power) lại in đậm trong di sản tư tưởng của Người.
Quyền lực là khả năng tác động vào người khác nhằm đạt được kết quả mong muốn. Có ba biện pháp chính: cưỡng ép, mua chuộc bằng sự hấp dẫn. Tính hấp dẫn thuộc loại quyền lực mềm với ba bộ phận cơ bản: văn hóa, chính trị và chính sách đối ngoại. Trong đó, văn hóa phải là những giá trị hấp dẫn được các dân tộc khác; chính trị có giá trị ở cả trong và ngoài nước và chính sách đối ngoại phải là chính danh và có giá trị đạo đức.
Quyền lực mềm nhưng lại có khả năng đem lại sức mạnh cứng, vì những nguồn lực văn hóa, chính trị, đối ngoại kết lại thành một khối, xuất phát từ tư duy của con người “chí công vô tư”, chính tâm, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh đã làm được điều đó, bởi: “Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình... Nếu so sánh với vũ khí thì điều đó quan trọng không kém tất cả vũ khí của Hạm đội 7... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”(1).
Rọi chiếu những hiểu biết căn cốt trên vào di sản Hồ Chí Minh dễ dàng nhận thấy Người đã sử dụng quyền lực mềm một cách khoa học, đạt đến trình độ nghệ thuật, tạo sức mạnh to lớn để nước ta từ một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng  thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
1. Văn hóa Hồ Chí Minh - sức hấp dẫn mọi người, mọi dân tộc
Đó là sức hấp dẫn bằng giá trị phổ quát toàn nhân loại. Văn hóa Hồ Chí Minh kết tinh từ ba tầng giá trị lớn: Một là, lý luận - tư tưởng của dân tộc, của phương Đông, phương Tây và chủ nghĩa Mác - Lênin; Hai là, thực tiễn Việt Nam, thế gới và trải nghiệm của chính Hồ Chí Minh; Ba là,phẩm chất Hồ Chí Minh - bậc đại nhân, đại trí, đại dũng.
Cội nguồn sâu xa trong văn hóa Hồ Chí Minh, tự bản thân nó đã có sức hấp dẫn mọi người, mọi dân tộc dù chế độ chính trị, chính kiến, cương vị, tài năng khác nhau. Thế giới gọi Hồ Chí Minh là một hiện tượng kỳ lạ, hiếm thấy, “chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”. Huyền thoại ngay khi còn sống và ngay từ những ngày đầu bước vào con đường hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Ở tuổi 33, mới trở thành người cộng sản được 3 năm, nhưng qua phong thái thanh cao, giọng nói trầm ấm, một phong cách ứng xử lịch thiệp và tế nhị, những người tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã “nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới... Từ Nguyễn Aí Quốc tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(2).
Là người cộng sản với tinh thần giải phóng dân tộc và đấu tranh cho quyền con người - quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, Hồ Chí Minh cũng là con người của hòa bình, nhân phẩm vì Người luôn đấu tranh cho sự phát triển của đất nước, của toàn nhân loại. Văn hóa Hồ Chí Minh là biểu tượng cho tinh thần các dân tộc không chịu sống nô lệ và cuộc chiến đấu cho nhân phẩm,  tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác.
Văn hóa Hồ Chí Minh là sự chung đúc những cái tốt, cái hay của văn hóa cổ, kim, Đông, Tây để tạo dựng, đắp bồi một bản sắc văn hóa Việt Nam, hợp với tinh thần dân chủ. Theo Người, Khổng giáo chú ý đến việc tu dưỡng đạo đức cá nhân, Thiên Chúa giáo lại chú ý đến lòng nhân ái, Tôn Dật Tiên quan tâm đến dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, ưu điểm của chủ nghĩa Mác là tính biện chứng. Người luôn cố gắng làm người học trò nhỏ của những người thầy này.
Hồ Chí Minh vừa cởi mở với thế giới, vừa quy tụ được những điểm tương đồng, tìm thấy mẫu số chung của con người cùng khổ, của các dân tộc bị chà đạp. Đó là một trong những nét tiêu biểu, đặc sắc nhất của văn hóa Hồ Chí Minh, tạo nên sức lôi cuốn kỳ diệu. Năm 1946, tâm sự với nhà báo Pháp Jean Lacouture (Giăng Lacutuyrơ), Người nói: “Một dân tộc như dân tộc của anh đã cho thế giới một nền văn hóa ca ngợi tự do thì dù sao đi nữa bao giờ cũng tìm thấy ở chúng tôi những người bạn. Anh có biết là không năm nào là tôi không say mê đọc lại Víchto Huygô và Misơlê”(3). Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh “đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn của kẻ địch của ông”(4).
Không chỉ là dân tộc Pháp. Theo Thượng nghị sĩ Anh William Warbey, “Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, ông đã có cơ hội biết và yêu nhân dân Mỹ, và qua sách báo, ông đã ngưỡng mộ chính khách của họ là Abraham Lincoln . Cuộc chiến đấu của Lincoln chống chế độ nô lệ và sự bóc lột lao động, đối với ông Hồ như là một tiếng vọng của chính sứ mạng của mình là giải phóng nhân dân Việt Nam”(5).
Văn hóa và tri thức Hồ Chí Minh trở thành một quyền lực, bởi như Edmond Michelet, Bộ trưởng các quân chủng Pháp, người được ủy nhiệm tiếp  Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pari (1946) nhận xét về sắc thái chính kiến của Hồ Chí Minh: “Đó là một người cộng sản theo lý tưởng... Tôi thấy ông dường như luôn luôn chịu ảnh hưởng của các tác giả lớn của ông là Mác, chắc chắn là cả Lênin nữa... Nhưng trong ông có Jaurè (Giôrex)... Ông là người đã chọn chủ nghĩa cộng sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc...Tôi cho là trong thế giới cộng sản, chắc chắn ông là một trong những người chấp nhận cách mạng cộng sản chủ nghĩa, phải!... nhưng trong tự do”(6). Ở một góc nhìn khác, Đavít  Hanbớcxtam, một chính khách Mỹ, nhận xét: “Hồ Chí Minh là một nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam”(7). Từ những đánh giá sáng suốt của chính khách đối phương, nhà văn hóa Hữu Ngọc viết: “Quả thật là Bác Hồ tìm một chủ nghĩa cộng sản có tình người, kế thừa những truyền thống cách mạng xã hội chủ nghĩa 1917, nhưng tiếp thu tinh hoa của những cuộc cách mạng tư sản, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc,- một chủ nghĩa cộng sản tôn trọng cá nhân, biết khóc, biết cười, biết ngâm vịnh”(8).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho chúng ta biết về phát biểu của một đại biểu Mỹ: “Nếu chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận được”; “chúng tôi đến đây, có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: “Muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”(9).
Nghiên cứu các cuộc hành trình trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, ông Hans D’Orville, Phó Tổng Giám đốc UNESCO đã khẳng định, “Bác Hồ là con người của đối thoại, trở thành công dân của thế giới, đồng thời là đại sứ của Việt Nam trên khắp toàn cầu”, “các chuyến bôn ba nước ngoài mà Người đã trải qua, những trào lưu tư tưởng mà ông đã tiếp nhận và đặc biệt là khả năng giao hòa những sự đa dạng mà Người đã tiếp thu đã khiến Hồ Chí Minh trở thành một người thầy về cuộc sống tiếp thu trong một thế giới có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay”(10).
Trong một thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng trong mọi khía cạnh cuộc sống của con người, UNESCO ý thức và cố gắng thúc đẩy các nền văn hóa xích lại gần nhau. Trong văn hóa Hồ Chí Minh, chúng ta cũng đã thấy rõ điều đó. Vì tư tưởng, hành động và ước vọng của Người là tôn trọng lẫn nhau giữa các nền văn hóa trong khu vực và trên thế giới. Những gì UNESCO thực hiện phù hợp với văn hóa Hồ Chí Minh, đó là đấu tranh để tăng cường sự đối thoại và hiểu biết lẫn nhau, tạo điều kiện cho sự tôn trọng các nền văn hóa của nhau, xóa bỏ những rào cản giữa các nền văn hóa khác nhau. Bởi trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa chính là công cụ hữu hiệu nhất để xây dựng hòa bình. Ông Hans D’Orville khẳng định: “Bản tính của Người là luôn lo lắng phấn đấu cho một tương lai được xây dựng trên nền tảng của sự công bằng, bình đẳng, biết truyền thụ và chia sẻ sự đa dạng văn hóa và để các nền văn hóa xích lại gần nhau”(11).
Tổ chức UNESCO đánh giá Hồ Chí Minh là một con người hội tụ nhiều tư  tưởng thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Thông điệp văn hóa Hồ Chí Minh mang giá trị toàn cầu và luôn có giá trị thời đại vì có điểm chung là lý tưởng về độc lập, tự do, hạnh phúc - “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” trên cơ sở dung hòa những sự khác biệt. Trong tiệc chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 7-2-1958, Thủ tướng Ấn Độ đã phát biểu cảm tưởng: “thật là một điều hân hạnh được gặp con người vĩ đại và có sức thu hút mãnh liệt đối với chúng ta. Mặc dầu trong thế giới ngày nay còn có khác biệt và xung đột, nhưng được gặp Bác Hồ, chúng ta thật sung sướng được thấy lòng tốt của con người..., tình bạn, lòng nhân ái sẽ vượt qua tất cả”(12).
2. Giá trị về mặt chính trị của Hồ Chí Minh: đoàn kết và thanh khiết
Sức mạnh mềm trong chính trị là sự khéo léo để thuyết phục, cảm hóa người khác, tức là chính trị phát triển thành văn hóa chính trị với một chỉnh thể cấu trúc bao gồm tri thức chính trị, hệ tư tưởng, đạo đức chính trị, năng lực hoạt động chính trị. Trong đó, quan trọng nhất là đạo đức chính trị vì nó tạo ra niềm tin chính trị.
Hồ Chí Minh cho rằng “văn hóa hiểu rộng cũng là chính trị. Chính trị hiểu sâu cũng là văn hóa”(13). Là một người có quyền lực - đứng đầu Chính phủ (1945-1969); Chủ tịch Đảng (1951-1969), nhưng không bao giờ Hồ Chí Minh hành xử như một người có quyền. Người xác định nhiệm vụ của mình là phục vụ nhân dân; Chính phủ là công bộc của dân: “Chính phủ Cộng hòa Dân chủ là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ... Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(14). Nhiều học giả trên thế giới nhận xét: “Là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người không tự giam mình trong tháp ngà. Về cơ bản, Người là một con người của quần chúng”(15). “Ông Hồ không cố ý tìm kiếm những cái trang sức cho quyền lực, vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân và với lịch sử đến nỗi không cần những pho tượng, những cái cầu, những pho sách và những tấm ảnh để chứng tỏ điều đó cho mình và cho thiên hạ thấy”(16).
Chính trị Hồ Chí Minh cần được hiểu sâu như Người từng nói: “Tóm lại chính trị là:1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”(17). Khi nói về đoàn kết, Hồ Chí Minh cho rằng “đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị”. Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư duy triết học cho thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc; dân tộc và quốc tế; giữa các tầng lớp xã hội cơ bản với các tầng lớp xã hội khác. Tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh cố tìm mẫu số chung của các dân tộc bị chà đạp thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ. Giá trị toàn cầu, giá trị thời đại và có ý nghĩa trường tồn của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là ở chỗ đó. Bởi vì “Trong thế giới ngày nay, không có cái gì có thể chống lại sự đoàn kết của nhân dân. Trong thế giới ngày nay không có gì quý báu hơn nhân dân. Không có gì mạnh mẽ hơn sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội không có gì đẹp đẽ hơn và vinh dự hơn là phục vụ nhân dân”(18).
Giá trị trong chính trị của Hồ Chí Minh thể hiện trong tư tưởng, phẩm chất, đạo đức của Người. Báo Pháp Lơ Phigarô nhận xét: “Cụ Hồ Chí Minh là người đã buộc Pháp phải bỏ thuộc địa quan trọng nhất là Đông Dương. Cụ Hồ đã chứng minh cho nước Mỹ hùng mạnh thấy rõ một cách đắng cay rằng con người có thể chiến thắng được vũ khí”(19).
3. Chính sách đối ngoại chính danh và có giá trị đạo đức
Quyền lực mềm nhìn nhận ở khía cạnh chính sách đối ngoại thì phải là một chính sách đối ngoại được coi là chính danh và có giá trị đạo đức. Chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh là làm bạn, thân thiện với tất cả các nước và không gây thù oán với nước nào. Chính sách đối ngoại đó đặt trên cơ sở các nước cùng tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào nội chính của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, cùng sống chung trong hòa bình; tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân các nước.
Chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh là thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì hòa bình, thịnh vượng chung, thể hiện thái độ bạn bè và trách nhiệm cùng các nước giải quyết những vấn đề về hòa bình, vì một thế giới tốt đẹp, một nền hòa bình bền vững và thịnh vượng. Trong bức điện ngày 14-1-1946 gửi các ông: Ăngđrê Grômưcô - đại diện của Liên Xô, Giêm Biếcnơ - Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, bác sỹ Cố Duy Quân - đại diện của Trung Quốc, Hồ Chí Minh trình bày nguyện vọng của nhân dân Việt Nam muốn được công nhận nền độc lập và nhận vào Liên Hợp quốc. Người khẳng định “chúng tôi tin rằng sự có mặt của chúng tôi trong hội nghị sẽ có ích nhiều cho việc giải quyết một cách nhanh chóng và hòa bình cho các vấn đề ở Đông Nam Á châu hiện nay”(20). Trong Công hàm gửi Chính phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và Vương quốc Anh ngày 18-2-1946, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định việc “hợp tác với các quốc gia khác trong việc xây dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn và một nền hòa bình bền vững. Những nguyện vọng đó là chính đáng và sự nghiệp hòa bình thế giới phải được bảo vệ”(21).
Tính chính danh và giá trị đạo đức trong chính sách đối ngoại của Hồ Chí Minh không những dựa trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền mà còn thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Ngay trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh vẫn đưa ra chính sách dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp quốc...”(22).
Trong một thế giới còn nhiều diễn biến rất phức tạp, khó lường, thì việc vận dụng và phát triển sáng tạo quyền lực mềm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
_______________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2018
(1), (3), (4), (7), (12), (15), (16), (19) Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb  Lao động - Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr.109, 32, 36, 116, 103, 104, 120, 19.
(2) Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.463, 462.
(5), (6), (8) Dẫn theo Hữu Ngọc: Phác thảo chân dung văn hóa Pháp,Nxb Ngoại văn Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr.22, 21, 21.
(9) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình hình thành và phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.9.
(10), (11) Hans D’Orville: “Bài phát biểu tại lễ mít tinh tại Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp ngày 14-5-2010, nhân kỷ niệm lần thứ 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh”, in trong Bảo tàng Hồ Chí Minh: Đặc san thông tin tư liệu, số 27, tháng 6-2010, tr.12, 13.
(13) Dẫn theo GS Đinh Xuân Lâm - TS Nguyễn Văn Khoan: Luật sư Phan Anh,Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2011, tr.326.
(14), (17) Hồ Chí Minh, Sđd, Toàn tập,t.5, tr.74-75, 75.
(18) Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh(trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb  Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.79.
(20), (21), (22) Hồ Chí Minh, Sđd, Toàn tập,t.4, tr.180, 210, 523.

PGS, TS Bùi Đình Phong
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
 http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2599-quyen-luc-mem-cua-ho-chi-minh.html



PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM: CHẾ ĐỘ MỘT ĐẢNG
KHÔNG THỂ CHỐNG THAM NHŨNG THÀNH CÔNG
Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng và đạt kết quả quan trọng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng vẫn có ý kiến cho rằng, với chế độ một đảng thì không thể chống tham nhũng thành công. Đây là luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, hòng hạ thấp vai trò, uy tín, phủ nhận bản chất, quyết tâm chính trị của Đảng, cần phải kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Tham nhũng là một vấn đề nan giải, một căn bệnh nhức nhối với những biến dạng rất phức tạp, đang hoành hành trên nhiều lĩnh vực, gây ra những hậu quả tiêu cực ở các quốc gia với chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, đấu tranh bài trừ tham nhũng được các nước, trong đó có Việt Nam rất quan tâm, coi đó là quyết tâm chính trị cao của Đảng, Nhà nước và được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, trên nhiều phương diện, như: pháp luật, hành chính, chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa, lối sống, v.v.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta đang diễn ra rất quyết liệt, không có vùng cấm, không kể cán bộ đương chức hay đã nghỉ hưu, tham nhũng vật chất hay tham nhũng quyền lực. Những kết quả đạt được trong cuộc đấu tranh này thời gian qua đã tạo cơ sở, nền tảng vững chắc trong xây dựng hệ thống chính trị, môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, củng cố được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cuộc chiến chống tham nhũng vẫn còn những vấn đề bất cập, chưa ngăn chặn được triệt để vấn nạn này. Lợi dụng vấn đề đó, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội tăng cường chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; một số người lợi dụng để kêu ca, phàn nàn về Đảng, về chế độ xã hội. Họ cho rằng: chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tham nhũng; tham nhũng là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam không những là nguyên nhân sinh ra tham nhũng mà còn không thể đấu tranh chống tham nhũng thành công, v.v. Từ đó, họ hồ đồ đưa ra kết luận: chỉ khi nào ở Việt Nam dẹp bỏ được chế độ độc đảng, thực hiện chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới có thể dẹp bỏ được.
Để phê phán, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái, thù địch cũng như những nhận thức không đúng trên, cần phải phân tích, luận giải tường tận hơn vấn đề tham nhũng. Trước hết, chúng ta thấy rằng, tham nhũng không phải do chế độ đa đảng hay một đảng, mà là do sự tha hóa quyền lực sinh ra. Bởi thế, ngay trong xã hội thực hiện chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn cứ hoành hành, thậm chí còn biểu hiện rất nguy hiểm, tình trạng tham nhũng còn leo đến tận các nguyên thủ quốc gia.
Ngay ở nước Mỹ, Hãng Pép-si từng đã dùng nhiều ưu đãi để tạo dựng quan hệ tốt với nghị sỹ R. Ních-xơn. Khi lên làm Tổng thống Mỹ, R. Ních-xơn đã chỉ thị gỡ bỏ hết các máy tự động bán Coca-cola trong dinh Tổng thống và thay vào đó là bán Pép-si. Đến lượt Hãng Coca-cola cũng làm chiêu trò tương tự với J. Các-tơ. Sau khi J. Các-tơ lên làm Tổng thống, thì lại gỡ bỏ hết các máy bán Pép-si trong dinh Tổng thống và thay vào đó bằng Coca-cola. Ở một số nước, có nguyên thủ quốc gia khi thôi giữ chức đã bị truy cứu về tội tham nhũng, như: Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc,… và gần đây là ở Ma-lai-xi-a. Theo đánh giá của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), một số nước theo thể chế đa đảng, không do Đảng Cộng sản cầm quyền, như: Cô-lôm-bi-a, Bra-xin, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a,... thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng”.
Ở mỗi nước có những cách thức tiến hành phòng, chống khác nhau, nhưng đều thể hiện quyết tâm chống tham nhũng: Trung Quốc ban hành các văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong cán bộ Đảng và Nhà nước. Luật Chống tham nhũng (năm 1989) của Sing-ga-po cho phép tòa án tịch thu tài sản của công chức nếu họ không giải thích được nguồn gốc tài sản đó. Thái Lan yêu cầu các cơ quan chức năng phải xem xét tất cả đơn thư tố giác của người dân về tham nhũng, dù có ký tên hay không ký tên. Một số nước: Cô-lôm-bi-a, Bra-xin, Sing-ga-po,... còn thiết lập các đường dây nóng để thu nhận tin tức về tội phạm nói chung và tham nhũng nói riêng, v.v.
Ở Việt Nam, Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xét về bản chất không có cơ sở sinh ra tham nhũng. Nhưng tại sao tham nhũng ở nước ta vẫn còn và thực sự nó đang là thứ “giặc nội xâm”, là “kẻ thù của nhân dân”? Cần thấy rằng, Nhà nước ta “trong một mức độ rất lớn, vẫn còn tàn dư của thời trước”, “vẫn là điển hình thực sự của bộ máy nhà nước cũ”1. Về khách quan, tham nhũng là do “vi rút” của xã hội cũ để lại và tác động vào xã hội mới, phản ánh tình trạng quan liêu và sự tha hóa quyền lực. Thừa nhận điều đó không có nghĩa là chúng ta “đầu hàng”, không thể khắc phục nổi tham nhũng, nhưng nói tiêu diệt được ngay vấn nạn này, thì chúng ta lại rơi vào không tưởng. Cần thấy rằng, ảnh hưởng của những “vi rút” đó đối với con người và xã hội, cũng như việc khắc phục nó đến đâu lại do sức đề kháng của chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, do năng lực của Đảng cầm quyền, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ phẩm chất, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo chống tham nhũng hiệu quả. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiền phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất nguyên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và nhân dân lao động, đảm bảo cho họ thực sự làm chủ cuộc sống, thoát khỏi đói nghèo, bất công, áp bức, phấn đấu đạt được “ấm no, tự do, hạnh phúc”. Bản chất cách mạng, tính tiền phong của Đảng và năng lực lãnh đạo, tổ chức thực tiễn là nhân tố cơ bản quyết định, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ khả năng lãnh đạo chống tham nhũng hiệu quả. Đây là vấn đề tất yếu khách quan, xuất phát từ chính nội lực của Đảng.
Luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam không có đủ khả năng lãnh đạo chống tham nhũng hiệu quả là luận điệu sai lầm, phản động. Cả về lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, tham nhũng gắn với cá nhân có quyền lực và tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với nhà nước và quyền lực. Chỉ có cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, nhưng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, thoái hóa, biến chất, thiếu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, của nhân dân mới có thể tham nhũng, suy thoái. Và, nếu để tình trạng này phát triển thì rất khó chống tham nhũng hiệu quả.
Trong tiến trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vấn đề chống tham nhũng luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới đất nước, công tác phòng, chống tham nhũng đã có những bước chuyển biến rất cơ bản, mạnh mẽ và tích cực. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã trở thành nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, được sự đồng lòng, giúp sức của mọi tầng lớp nhân dân và có hiệu quả, “lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” đang thực sự tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý nghiêm minh, nhất là những vụ án nghiêm trọng được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh. Như vậy, Đảng ta không chỉ có quyết tâm chống tham nhũng mà còn có đủ năng lực chống tham nhũng hiệu quả. Và hệ quả của nó là, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế trong năm 2017, đặc biệt quý I năm 2018, GDP đất nước tăng 7,38% so với cùng kỳ năm trước (cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây). Kết quả đó có sự đóng góp quan trọng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Đó là sự thật không thể bác bỏ. Vì thế, không thể xuyên tạc rằng, Đảng ta không đủ khả năng lãnh đạo chống tham nhũng hiệu quả.
Để có thể lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiệu quả, Đảng, Nhà nước ta đang công phá mạnh vào vấn đề then chốt là thể chế và quyền lực cá nhân. Đây là sự công phá mạnh vào tham nhũng, nhất là tham nhũng quyền lực, bởi tính chất nguy hại của nó. Thành công trong việc công phá vào vấn đề tham nhũng quyền lực sẽ làm rung chuyển các loại tham nhũng khác; vấn đề quyết định cho thành công của cuộc chiến chống tham nhũng. Đến nay, với quyết tâm chính trị cao và thực hiện những biện pháp quyết liệt, hữu hiệu, cùng với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng ta đã hạn chế được những biểu hiện tha hóa quyền lực và vấn nạn tham nhũng. Vì thế, Đảng luôn coi việc cải cách hành chính, tạo dựng Chính phủ liêm khiết, kiến tạo; xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, nhất là cán bộ chiến lược có phẩm chất, năng lực và uy tín,… là vấn đề quan trọng hàng đầu. Trong năm 2017, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành các quy định về công tác cán bộ được xem là bước đi quan trọng để siết chặt kỷ luật Đảng, khắc phục những bất cập, yếu kém về công tác này. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) nhấn mạnh phải tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ. Đồng thời, chú trọng thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu kiểm soát việc trao và thực thi quyền lực, ngăn chặn, loại trừ tham nhũng quyền lực. Xây dựng và thực hiện cơ chế đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả, gắn chặt với cơ chế tổ chức, hoạt động đồng bộ của Đảng, Nhà nước và cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đặc biệt, Đảng ta đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đề cao tự giác, tự phê bình và phê bình, tính chiến đấu trong hoạt động của tổ chức đảng, cấp ủy các cấp; phát huy trách nhiệm và vai trò gương mẫu của người đứng đầu, v.v. Một thực tế là, nếu chúng ta chống tham nhũng kém hiệu quả, thì các thế lực thù địch sẽ lợi dụng để xuyên tạc, kích động, đòi Đảng ta phải từ bỏ sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Nhưng khi chúng ta chống tham nhũng đạt kết quả tích cực, thì chúng lại giở giọng điệu xuyên tạc, rằng đó là cuộc đấu tranh phe phái, dù có quyết liệt thì cũng không thể thành công, vì do “một đảng cai trị”, v.v. Điều đó cho thấy âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch không thay đổi, cũ rích, chẳng lừa được ai.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Với quyết tâm chính trị cao, chủ trương, giải pháp khoa học, cuộc đấu tranh chống vấn nạn này dưới sự lãnh đạo của Đảng nhất định giành thắng lợi. Điều đó xuất phát từ bản chất, năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.
PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HƯỞNG - Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG*
_______________
* - Học viện Quốc phòng
1 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 435.
http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/phe-phan-quan-diem-che-do-mot-dang-khong-the-chong-tham-nhung-thanh-cong/12126.html


PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG: “NHÀ NƯỚC NÀO,
CHẾ ĐỘ NÀO CŨNG ĐƯỢC, MIỄN LÀ DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH”
Gần đây, có quan điểm cho rằng: “nhà nước nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh”. Thoạt nghe thì quan điểm này có vẻ “dễ dàng chấp nhận”, nhưng đằng sau đó là sự mập mờ, dối trá, ẩn chứa mưu đồ rất tinh vi, thâm độc, hòng phủ nhận bản chất của Nhà nước ta, hướng đất nước phát triển sang chế độ khác. Do vậy, phải kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Bản chất của nhà nước tư bản chủ nghĩa là không thay đổi
Các nhà kinh điển Mác – Lênin chỉ rõ, nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp và nó chỉ ra đời từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp; giai cấp nào thì nhà nước đó, hay nói cách khác: nhà nước mang bản chất của giai cấp sinh ra nó và phục vụ lợi ích của giai cấp ấy. Tuy nhiên, các nhà tư tưởng của giai cấp thống trị bóc lột lại luôn tìm cách che đậy, xuyên tạc bản chất giai cấp của nhà nước. Trước những biến đổi, thích nghi của nhà nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, các học giả tư sản càng ra sức tuyên truyền quan điểm: nhà nước tư bản hiện đại đã thay đổi bản chất, đã khắc phục được hạn chế của nhà nước “cổ điển” trước đây để trở thành nhà nước phi giai cấp, “siêu giai cấp”, “nhà nước phúc lợi chung”, “nhà nước nhân dân tự do”, … thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của xã hội và bảo đảm được phúc lợi cho mọi người. Những quan điểm đó đã không phản ánh đúng bản chất vốn có của nhà nước tư sản mà còn che đậy, xuyên tạc bản chất đích thực của nhà nước; lừa bịp quần chúng nhân dân, làm chệch hướng mục tiêu đấu tranh giai cấp, biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước, giai cấp thống trị.
Tại sao có thể khẳng định như vậy? Vì, trên cơ sở phân tích một cách lôgic và khoa học, khách quan về tính tất yếu sự ra đời của nhà nước, chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, nhà nước mang bản chất của giai cấp sinh ra nó; công cụ chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị, áp bức các giai cấp khác trong xã hội. Ph. Ăngghen viết: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”1. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không có nhà nước phi giai cấp, nhà nước chung chung của mọi giai cấp, mà nhà nước luôn mang bản chất, phục vụ cho giai cấp sinh ra nó.
Nhà nước tư bản chủ nghĩa là công cụ duy trì nền thống trị của giai cấp tư sản đối với nhân dân lao động, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Điển hình như ở Mỹ hiện nay, từ khi lên nắm quyền, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt các chính sách, như: Luật cải cách thuế và quy định hủy bỏ một phần Đạo luật Chăm sóc y tế giá rẻ (Obamacare),… đã làm cho bất công xã hội gia tăng khi chỉ làm lợi cho những người giàu và siêu giàu, còn những người nghèo và trung lưu thì càng nghèo đi. Ngoài ra, với việc đảo ngược hàng trăm văn bản dưới thời kỳ Tổng thống B. Obama về môi trường, năng lượng, các chính sách mới của ông Trump được cho là phục vụ những ông chủ doanh nghiệp giàu có, đặt lợi nhuận lên trên yếu tố môi trường, an toàn cũng như sức khỏe của người dân. Do đó, không chỉ là thu nhập giàu nghèo, văn hóa, ý thức hệ, nước Mỹ còn đang chứng kiến sự chia rẽ về tôn giáo, sắc tộc,… khi tâm lý thù địch, chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, phân biệt chủng tộc,… có xu hướng gia tăng nhiều nơi ngay trên đất Mỹ. Thượng nghị sĩ Bernie Sanders và 18 chính trị gia khác đã công bố thư ngỏ kêu gọi hành động để giảm mức chênh lệch giàu nghèo “đáng tủi hổ” ở nước Mỹ. Các chính trị gia này cũng đồng ý với nhận định của Liên hợp quốc, rằng: 1.500 tỷ USD giảm thuế của chính quyền Trump “hoàn toàn chỉ làm lợi cho người giàu, trong khi đẩy dân nghèo lún sâu vào cảnh khốn cùng”.
Như vậy, dù có che giấu dưới những hình thức tinh vi và bị khúc xạ qua những “lăng kính” như thế nào đi chăng nữa thì bản chất của nhà nước tư bản chủ nghĩa cũng không hề thay đổi, vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Khẳng định vấn đề này để thống nhất nhận thức rằng: bản chất giai cấp của nhà nước là nhân tố quan trọng, quyết định đến đường lối xây dựng đất nước, mang lại sự công bằng, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, chứ không phải “nhà nước nào, chế độ nào cũng được”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn, đang xây dựng là chế độ ưu việt, hơn hẳn nhà nước tư bản chủ nghĩa. Đó là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dùng để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không thể phủ nhận Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
  Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đó là thành quả của cuộc đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân cả nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Trong đó, bản chất giai cấp công nhân giữ vị trí cốt lõi, là hạt nhân chính trị sâu sắc, còn tính nhân dân và tính dân tộc giữ vị trí quan trọng trong các nhân tố cấu thành bản chất Nhà nước ta. Vì vậy, không thể nói “nhà nước nào, chế độ nào cũng được”! Nói như vậy là thể hiện thái độ thờ ơ, “xúc phạm” sự hy sinh của các thế hệ đi trước trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; phủ nhận sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đúng đắn của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình, thể hiện bản chất tốt đẹp của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,  phục vụ lợi ích của dân tộc, đã quản lý đất nước, làm tròn trọng trách mà nhân dân giao phó, được lịch sử ghi nhận, nhân dân tin tưởng, thế giới ngưỡng mộ.
Trong thực hiện chức năng đối nội
Trên lĩnh vực kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Việt Nam đạt những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình). Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tuy có chậm lại so với giai đoạn trước, nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Năm 2017, tăng trưởng kinh tế đạt 6,81%; thu nhập bình quân đầu người ước đạt khoảng 2.400 USD. Nhờ đó, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi. Riêng năm 2018, theo báo cáo của Chính phủ tại phiên Họp báo thường kỳ tháng 8-2018, có 12/12 chỉ tiêu mà Quốc hội giao có thể đạt và vượt, trong đó 8 chỉ tiêu vượt, 4 chỉ tiêu đạt. Tăng trưởng GDP năm 2018 có khả năng hơn 6,7%, thu ngân sách vượt dự toán 3-5%. Cùng với đó, nợ công giảm, lạm phát dưới 4%; năng suất lao động tăng; bảo đảm sự phát triển của đất nước không chỉ tăng trưởng theo số lượng mà chất lượng cũng được nâng lên; niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố; uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng cao.
Trên lĩnh vực chính trị, Nhà nước ta đã đạt được thành tựu quan trọng về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền con người, nhất là vấn đề quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được xác lập và thực thi trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 khẳng định nhất quán quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đồng thời, thể hiện đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp và pháp luật, v.v. Còn ở Mỹ, một đất nước mà các học giả tư sản thường ca ngợi là dân chủ, tự do nhất thế giới, nhưng có đầy rẫy sự vi phạm trắng trợn về quyền con người. Đơn cử như, quyền sống và đảm bảo an ninh cá nhân – quyền cơ bản nhất của con người - bị đe dọa. Mỗi năm ở Mỹ có khoảng 100.000 người bị trúng đạn, trong đó có khoảng 30.000 người thiệt mạng trong các vụ xả súng, mà Chính phủ Mỹ chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát. Việc kiểm soát, cấm bán súng cho cá nhân vẫn là chủ đề tranh cãi giữa các đảng phái, mà nguyên nhân là do lợi ích của các nhà tư sản sẽ bị ảnh hưởng nếu cấm bán súng cho cá nhân. Cùng với đó, nạn phân biệt chủng tộc diễn ra phổ biến; quyền của phụ nữ và trẻ em, nhất là phụ nữ gốc Phi chưa được đảm bảo, v.v. Điều đó cho thấy rõ tính ưu việt, bản chất dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, luôn hướng tới, đáp ứng tốt nhất các quyền chính đáng của con người, vì con người, được các quốc gia trên thế giới thừa nhận, đánh giá cao.
Trên lĩnh vực xã hội, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, v.v. Tính theo chuẩn mới: đến năm 2017, tỷ lệ người nghèo giảm xuống còn 7%. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), ngày 10-4-2018, với tiêu đề “Bước tiến mới: giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt Nam” cho biết: “70% người dân Việt Nam đã an toàn về kinh tế, trong đó 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới”. Việt Nam đã hoàn thành việc phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2010 và  mầm non năm 2017. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Chất lượng hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao. Việc thực hiện bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ được quan tâm, đạt kết quả cao. Hiện nay, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở Việt Nam khóa XIV (nhiệm kỳ 2016 - 2021) là 26,72%, tăng so với hai khóa trước đó, cao hơn mức trung bình của thế giới (23,6%), giữ vị trí tương đối trong khu vực và lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ. Các chính sách dân tộc, tự do tín ngưỡng tôn giáo ngày càng hoàn thiện được bảo đảm trong thực tiễn, v.v. Đó là điều đáng mừng. Bởi, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là đúng đắn, bảo đảm sự phát triển bền vững, mang lại công bằng cho người dân.
Trong thực hiện chức năng đối ngoại
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của các tổ chức quốc tế, đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 nước; trong đó, 3 đối tác chiến lược toàn diện, 13 đối tác chiến lược và 11 đối tác toàn diện. Đồng thời, tham gia nhiều tổ chức quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới, điển hình như: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO), Diễn đàn hợp tác Á–Âu (ASEM), v.v. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hiệp Quốc (ECOSOC), ủy viên Hội đồng chấp hành Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP),...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), v.v. Điều đó, không chỉ khẳng định uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Tuy nhiên, Nhà nước ta cũng thẳng thắn thừa nhận còn nhiều hạn chế trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế, nhất là tình trạng tham nhũng trong một bộ phận cán bộ, công chức, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Những tồn tại đó, hiện đang được Đảng, Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh, khắc phục với quyết tâm chính trị cao và đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng. Việc điều tra, đưa ra xét xử công khai các vụ án tham nhũng gần đây là một minh chứng. Qua đó, góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn sinh động trên đã khẳng định, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đủ năng lực để quản lý, tổ chức, xây dựng đất nước phát triển; và chỉ có Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, thể hiện tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc mới đem lại dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cho nhân dân, tất cả vì nhân dân phục vụ, chứ không thể là nhà nước nào khác.
HOÀNG TRƯỜNG
________
1 - C. Mác và Ph. Ăngghen - Toàn tập, Tập 22, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 290 - 291.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/phe-phan-quan-diem-cho-rang-nha-nuoc-nao-che-do-nao-cung-duoc-mien-la-dan-giau-nuoc-manh/12383.html


KHÔNG NÊN LỢI DỤNG SỰ MẤT MÁT CỦA NGƯỜI KHÁC
ĐỂ KÍCH ĐỘNG

Ông Lê Văn Hoàn, SN: 1964, trú tại xóm 3B, xã Quỳnh Lộc, thị xã Hoàng Mai. Vào ngày 14/09/2018 ông nhận được lời mời tham dự buổi tọa đàm Cựu Chiến Binh vùng Giáo thuộc thị xã Hoàng Mai, buổi tọa đàm bắt đầu từ 14h đến 17h.
Lúc 19h sau buổi tọa đàm giao lưu, ông ra về, 19h50 con rể gọi điện thoại được biết ông sắp về đến nhà, sau đó gia đình đã mất liên lạc với ông. Đến 9h ngày 15/9/2018, sau khi tiếp nhận tin báo, CA TX Hoàng Mai đã nhanh chóng phối hợp các ban ngành cùng gia đình và Giáo xứ đã tổ chức tìm kiếm. Đến đêm ngày 17/9/2018, đã tìm thấy thi thể của ông. Sau khi khám nghiệm tử thi, cơ quan chức năng đã bàn giao cho gia đình tổ chức lễ an táng. Sơ bộ kết luận giám định:
– Nạn nhân chết do ngạt nước.
– Không có vết thương cơ học trên cơ thể.
– Nạn nhân đã chết khoảng 3 ngày. 
Hiện chưa cơ quan chức năng đang truy tìm, vớt xe máy, điện thoại, đồng hồ… đi cùng nạn nhân và điều tra làm rõ sự việc.
Ông Hoàn ra đi không chỉ là mất mát của gia đình, giáo họ mà còn là sự mất mát của cựu chiến Binh thị xã Hoàng Mai nói chung, xã Quỳnh Lộc nói riêng. Trong khi chờ kết luận chính thức của cơ quan điều tra, thay vì lời chia buồn, an ủi động viên thì ở đâu đó, một số phần tử cực đoan, chức sắc có thái độ hằn thù với chính quyền lại lợi dụng vào sự việc đau buồn này để vu vạ với luận điệu sằng bậy “ông đã chết đúng quy trình” hay ông là “việt tân” nên bị áp sát.
Tiếc thương thay đức tin của chúa đang bị những kẻ ném đá giấu tay nhuốm bẩn. Cùng là tín hữu, họ không những không nói nên lời thương xót một mục tử nhân lành đã từng cống hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước mà còn đưa đẩy, bảo rằng ông ấy là “việt tân” để dễ bề xỏ xiên. Đành rằng mệnh người mỏng manh, nhưng mỗi một con người là một số phận, họ đã ra đi hãy để họ an nghị về với chúa, đừng vì động cơ cá nhân mà mang sự đau xót của họ ra làm chiêu bài kích động.
Một lần nữa xin chân thành gửi lời chia buồn sâu sắc nhất đến gia đình ông. Cầu chúc ông an lành về Thiên chúa.
http://ngheanthoibao.com/khong-nen-loi-dung-su-mat-mat-cua-nguoi-khac-de-kich-dong/


BAN CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH GIÁO PHẬN VINH
BẢO KÊ TRẮNG TRỢN CHO TỘI PHẠM KHỦNG BỐ VIỆT TÂN
Trên trang truyền thông của giáo phận Vinh ngày hôm nay (6/9) chính thức đăng “bản lên tiếng về các tù nhân lương tâm và thực trạng nhân quyền tại Việt Nam” của Ban Công lý và hòa bình Giáo phận Vinh do linh mục Nguyễn Văn Đính, quản hạt Thuận Nghĩa ký tên, đọc xong “Bản lên tiếng này” nhiều người càng nhận ra bản chất phản động, chống đối, và mạt hạ của một tổ chức nhân danh tôn giáo chân chính để bảo kê cho những tên tội phạm khủng bố Việt Tân chống phá đòi lật đổ nhà nước Việt Nam từ bấy lâu nay.
Trong cái gọi là “Bản lên tiếng này” chỉ có lý do duy nhất, một chiều gọi những tên khủng bố Việt Tân cộm cán này và với giọng xảo ngôn từ đầu đến cuối chỉ chăm chăm đánh lừa dư luận là “những nhà hoạt động vì môi trường”, sau đó đổ vấy các nhà chức trách và pháp luật Việt Nam bắt bớ những người “có trí thức và hoạt động vì những điều tốt đẹp cho xã hội”, điều đó thể hiện sự bịt bợm rất tởm lợm, bỉ ổi của một tổ chức tôn giáo chính danh.
Ai cũng biết rằng những tên khủng bố Việt Tân cộm cán lợi dụng Công giáo và núp danh, móc nối với các linh mục cực đoan trong Công giáo, đặc biệt là tại Giáo phận Vinh bấy lâu nay là những cánh tay nối dài giữa tổ chức khủng bố Việt Tân với thành phần tôn giáo phản động lợi dụng những vấn đề phát sinh, tồn đọng, xã hội đang bức xúc để kích động thực hiện âm mưu kích động biểu tình, bạo loạn, khủng bố chính quyền, ráo riết thực hiện âm mưu bằng được lật đổ chế độ Cộng sản ở Việt Nam gây nên chiến tranh loạn lạc để tạo cớ cho các nước Mỹ và phương Tây đến xâu xé dựng nên chính quyền thân Mỹ.
Ngoài cái giọng đạo đức giả như vậy, sự thật bên trong giáo phận Vinh đang đầy rẫy những vấn đề vi phạm phạm trù đạo đức, như những linh mục chân chính có tuổi đời và tuổi nghề thì bị hắt hủi, không trọng dụng, cách chức, thay vào đó là những tên linh mục trẻ cực đoan, húng máu, phá đạo, đặc biệt là quay lại hủy hoại môi trường, như linh mục Nguyễn Đình Thục ngang nhiên huy động giáo dân chặn dòng sông Thái để xây dựng công trình trái phép, gây ách tắc dòng chảy, ngập úng khi mùa mưa lũ; linh mục Đặng Hữu Nam là kẻ to mồm gào rú Fomorsa nhưng thời làm quản xứ Phú Yên lại bảo kê cho giáo dân giáo xứ Phú Yên đánh bắt cá bằng mìn hủy hoại môi trường biển; linh mục Nguyễn Ngọc Ngữ lại xúi chiên chiếm đất nông nghiêp ngang nhiên xây dựng trái phép nhà ở cho bản thân hưởng thụ thời còn làm quản xứ Đông Kiều; linh mục Nguyễn Đức Nhân như tên côn đồ xúi chiên chiếm đất nông nghiệp tại xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên… Trong khi mưa lũ gây ra thiệt hại về người và của trên địa bàn tỉnh Nghệ An và nhiều vùng trên cả nước thì không hề có động tĩnh giúp đỡ, ít ra hiệp thông cầu nguyện cho bà con vùng lũ vượt qua cơn bĩ cực, mà chỉ thấy hiệp thông cầu nguyện cho những tên tội phạm khủng bố Việt Tân đã bị pháp luật xử lý.
Những tên dẻ rách như Lê Đình Lượng, Nguyễn Viết Dũng, Nguyễn Văn Oai, Nga Phủ Lý, Hoàng Đức Bình… trước đây khi chưa có sự cố ô nhiễm môi trường Fomorsa gây ra, đều là những tên bất hảo tham gia tổ chức khủng bố Việt Tân, nhiều tên đã vào tù ra tội với nhiều tội danh hoạt động tuyên truyền, chống phá nhà nước đã được Tòa án xét xử và thụ án. Cho nên cái danh “những nhà hoạt động môi trường” là sự chụp mũ vinh danh xảo trá của Ban Công lý và Hòa bình thuộc Giáo phận Vinh tự bôi lên.
Qua đây thấy rõ, cái Ban Công lý và Hòa bình của Giáo phận Vinh ngày càng thối rữa, không phải là tổ chức của tôn giáo đơn thuần mà là một tổ chức đội lốt tôn giáo để bảo kê cho những tên tội phạm khủng bố Việt Tân thực hiện âm mưu phá hoại, lật đổ chính quyền, gây chiến tranh, bạo loạn cho xã hội.
http://ngheanthoibao.com/ban-cong-ly-va-hoa-binh-giao-phan-vinh-bao-ke-trang-tron-cho-toi-pham-khung-bo-viet-tan/


TỔ CHỨC KHỦNG BỐ VIỆT TÂN ĐANG LỢI DỤNG
THIÊN CHÚA GIÁO ĐỂ CHỐNG CHÍNH QUYỀN?
Đã từ lâu, “Việt tân” nhận định rằng chỉ có Thiên chúa giáo mới đủ khả năng đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam, do sự đối lập trong ý thức hệ, lực lượng giáo dân đông đảo, chức sắc được đào tạo cơ bản, có tổ chức và kỷ luật đáp ứng được những điều kiện của cuộc “đấu tranh bất bạo động”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” ở Việt Nam, thời gian qua, “Việt tân” đã đẩy mạnh hoạt động móc nối, liên kết với số phản động trong Thiên chúa giáo để chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.
“Việt tân” đã chỉ đạo cơ sở nội địa là giáo dân công giáo thành lập các hội, nhóm trá hình ở trong nước để phát triển lực lượng, hoạt động chống phá, gồm: Hội cựu lao động Đài Loan Hội dân oan Hà Nam do Trần Thị Nga cầm đầu; Cộng đoàn doanh nhân, trí thức Thái Hà do Lê Quốc Quân, Nguyễn Hữu Vinh và Trần Thị Hường cùng các linh mục Dòng chúa cứu thế Thái Hà thành lập theo chỉ đạo của “Việt tân”; Hội đồng liên tôn; Văn phòng truyền thông Công giáo do linh mục Lê Ngọc Thanh cầm đầu; Đảng dân chủ Thiên chúa giáo.
Đáng chú ý, từ năm 2013 đến nay, “Việt tân” đã phối hợp chặt chẽ với linh mục Đinh Hữu Thoại thành lập, điều hành các trang mạng “Thanh niên Công giáo”, “Nữ vương công lý”; các trang này lưu trữ hàng nghìn bài viết chống Đảng, Nhà nước, thường xuyên cập nhật các sự kiện, tình hình phức tạp ở trong nước; chỉ tính riêng trong dịp xét xử phúc thẩm Lê Quốc Quân, trang facebook “Thanh niên công giáo” do “Việt tân” trực tiếp quản lý đã có hàng nghìn lượt truy cập.
Ngoài ra, Việt tân gia tăng các hoạt động kích động quần chúng giáo dân biểu tình, gây rối an ninh trật tự. Trong các vụ việc phức tạp tại Con Cuông, Trại Gáo, Cầu Rầm (Nghệ An), Thái Hà, Dương Nội (Hà Nội), Hồ Ba Giang… “Việt tân” thường xuyên cử số cơ sở nội địa như Nguyễn Hữu Vinh, Lê Quốc Quyết, Trần Thị Nga đến hiện trường kích động, quay phim, chụp hình, phỏng vấn số chống đối, truyền trực tiếp lên mạng Internet để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ, nhân quyền”.
Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm Lê Quốc Quân, “Việt tân” đã chuyển tiền cho số linh mục, giáo dân của Dòng chúa cứu thế Thái Hà để in áo, phát tiền kích động giáo dân từ Nghệ An ra Hà Nội tham gia biểu tình; đáng chú ý, cầm đầu đoàn biểu tình là số linh mục nhà thờ Thái Hà. Tại phiên tòa xét xử 14 đối tượng công giáo tham gia “Việt tân” tại Nghệ An, “Việt tân” đã chỉ đạo số cơ sở nội địa như Trần Thị Nga, Lê Đình Lượng… kích động số giáo dân là thân nhân của các đối tượng tổ chức biểu tình gây rối tại phiên tòa. Trong vụ xét xử Đinh Nhật Uy, Nguyễn Phương Uyên ở Long An, “Việt tân” chỉ đạo Bùi Tuấn Lâm cùng linh mục Lê Quang Uy kích động hàng chục đối tượng xuống gây rối, đòi trả tự do cho các đối tượng này. Trước, trong và sau phiên tòa xét xử các đối tượng chống đối, các linh mục tổ chức hàng chục buổi “hiệp thông”, cầu nguyện, công khai treo băng-rôn, biểu ngữ đòi trả tự do cho số chống đối trong khuôn viên nhà thờ.
Sở dĩ “Việt tân” chọn số chức sắc, giáo dân Thiên chúa giáo để tuyên truyền, lôi kéo vào các hoạt động chống đối bởi vì chức sắc tôn giáo chính là những người có tầm uy tín với đông đảo đồng bào giáo dân, tín đồ; họ là những người có trình độ, khả năng tập hợp quần chúng, có điều kiện để hoạt động và quan trọng hơn là với vỏ bọc tôn giáo chính quyền sẽ gặp khó khăn hơn trong công tác xử lý. Với ý đồ, hoạt động lợi dụng Thiên chúa giáo vào các hoạt động chống đối Nhà nước Việt Nam của “Việt tân” đã gây ra những hậu quả xấu về nhiều mặt, hoạt động của một số chức sắc, giáo dân ngày càng công khai, thách thức; một số cơ sở thờ tự như nhà thờ Thái Hà, 38 Kỳ Đồng, vùng giáo tại Nghệ An bị các đối tượng sử dụng làm nơi tụ tập, triển khai hoạt động chống phá ta.
Phong Linh (TTCPĐ)
http://ngheanthoibao.com/to-chuc-khung-bo-viet-tan-dang-loi-dung-thien-chua-giao-de-chong-chinh-quyen/


VIỆC XÂY DỰNG NHÀ VĂN HÓA THÔN TÂN AN, XÃ AN HÒA, HUYỆN QUỲNH LƯU LẠI BỊ HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
 GIÁO XỨ PHÚ YÊN LỢI DỤNG CHỐNG PHÁ

Xóm Tân An, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu hầu hết là đồng bào theo đạo Công giáo, trước đây xóm có 1 nhà văn hóa thôn để phục vụ sinh hoạt cộng đồng, tuy nhiên do nhà văn hóa này đã xây dựng từ lâu cũng đã xuống cấp, đồng thời do đề nghị của Hội đồng mục vụ giáo xứ Phú Yên đề nghị chính quyền tháo dỡ nhà văn hóa thôn Tân An để phục vụ mở rộng con đường vào khu dân cư mới được rộng rãi, đàng hoàng, chính quyền địa phương đã đồng ý phương án tháo dỡ nhà văn hóa thôn và tìm địa điểm mới xây dựng nhà văn hóa thôn Tân An để phục vụ đầu tư xây dựng công trình mở rộng con đường nhằm nâng cao đời sống bà con giáo dân nơi đây được mở mang, phát triển.
Thời gian vừa qua, chính quyền huyện Quỳnh Lưu đã lựa chọn địa điểm để xây dựng nhà văn hóa thôn Tân An trên đất thuộc nhà nước quản lý, phía giáo xứ Phú Yên, linh mục Trần Quốc Long (người được cử về thay linh mục Đặng Hữu Nam) cũng đã nhất trí với chủ trương của chính quyền xây dựng nhà văn hóa thôn Tân An, ông nói “Xây dựng nhà văn hóa thôn Tân An đó là chủ trương của chính quyền nhằm phục vụ đời sống cho bà con, tôi hoàn toàn nhất trí”.
Tưởng như vậy, một chủ trương hợp tình, hợp lý sẽ sớm được triển khai, và chính quyền huyện Quỳnh Lưu đã ưu tiên sớm thực hiện công trình này, chọn ngày 19/9/2018 sẽ tổ chức động thổ khởi công. Tuy nhiên, những thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ Phú Yên toàn là thành phần hằn học với chính quyền, do linh mục Đặng Hữu Nam dựng lên, luôn tìm cách chống phá, đồng thời gây sức ép với linh mục Trấn Quốc Long là muốn chiếm mảnh đất để xây dựng nhà văn hóa thành đất của giáo xứ, nên đã tìm mọi cách để gây hấn, ngăn cản.
Sáng nay, ngày 19/9/2018, Hội đồng mục vụ giáo xứ Phú Yên đã huy động chị em phụ nữ tập trung tại địa điểm xây dựng nhà văn hóa thôn Tân An để ngăn cản khởi công xây dựng, đồng thời in băng rôn, biểu ngữ nhằm xuyên tạc, chống đối chính quyền. Đồng thời các trang truyền thông phản động như Thanh niên Công giáo, Người Phú Yên… đã lu loa, xuyên tạc là “Nhà cầm quyền Quỳnh Lưu cướp đất”??? Ô hay, có chính quyền nào lại lấy đất công để xây công trình phúc lợi phục vụ đời sống người dân lại được lu loa là “cướp đất”?
Trước tình hình như vậy, buộc chính quyền địa phương phải tạm hoãn lễ khởi công để tiếp tục vận động, thuyết phục, đồng thời yêu cầu giáo dân chấp hành nghiêm pháp luật.
Sự việc trên một lần nữa chứng tỏ, có bộ phận tôn giáo cực đoan tại giáo phận Vinh luôn tìm cách trở mặt, đổi trắng thay đen để chống phá chính quyền, xuyên tạc sự thật để nhằm lu loa, gây sức ép lên chính quyền, tạo thêm những điểm nóng về an ninh trật tự.
http://ngheanthoibao.com/viec-xay-dung-nha-van-hoa-thon-tan-an-xa-an-hoa-huyen-quynh-luu-lai-bi-hoi-dong-muc-vu-giao-xu-phu-yen-loi-dung-chong-pha/

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...