Thứ Hai, 6 tháng 5, 2024

Karl Marx đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và những vấn đề đặt ra hiện nay

 Đã gần 180 năm kể từ khi còn là “bóng ma ám ảnh châu Âu” và trong suốt quá trình phát triển của mình, Chủ nghĩa Mác luôn vấp phải sự chống phá quyết liệt của những quan điểm phi mác-xít nói chung, của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói riêng.

Do vậy, Karl Marx và những người đồng chí của mình đã phải tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại các chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Cuộc đấu tranh đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, đồng thời đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho Đảng ta trong cuộc đấu tranh chống lại những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa hiện nay.

Cuộc "đấu tranh sống mái"

Chủ nghĩa cơ hội ra đời đã gây ra những tác hại rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Chính những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cơ hội nên Karl Marx và những người đồng chí của mình đã phải tiến hành cuộc “đấu tranh sống mái”(1) chống lại chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều màu sắc khác nhau như: Chủ nghĩa Proudhon, Lassalle, Bakunin... để phong trào công nhân quốc tế mau chóng hồi phục và phát triển.

Thứ nhất, đấu tranh chống Chủ nghĩa Proudhon. Chủ nghĩa Proudhon là chủ nghĩa cải lương và trào lưu vô chính phủ lưu hành trong phong trào công nhân Pháp từ những năm 40 đến những năm 90 của thế kỷ 19, đại biểu là P.J.Proudhon. Đứng trên lập trường của tầng lớp tiểu tư sản, Proudhon kịch liệt phản đối các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại chế độ tư bản. Ông đã ảo tưởng cải tạo xã hội một cách hòa bình và đưa ra tư tưởng cải cách dần dần từ bên trên. Với những quan điểm của mình, Chủ nghĩa Proudhon đã gây trở ngại nghiêm trọng cho sự truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lúc bấy giờ. Trước tình hình đó, Karl Marx đã viết nhiều tác phẩm: "Bản thảo kinh tế-triết học" (1844), "Hệ tư tưởng Đức" (1846), "Sự khốn cùng của triết học" (1847), "Bàn về Proudhon" (1865)... phê phán nghiêm khắc lý luận vô sách lược của Chủ nghĩa Proudhon. Karl Marx  trình bày những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phê phán lý luận “cách mạng xã hội” của Chủ nghĩa Proudhon. Karl Marx  đã chỉ ra sự ảo tưởng trong việc cải tạo xã hội một cách hòa bình và chứa đầy mâu thuẫn về mặt lý luận của Proudhon. Trong khi phê phán Proudhon, Karl Marx đã lập luận học thuyết đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản, đó là sự thống nhất giữa đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị nhằm cải thiện đời sống sinh hoạt vật chất tiến tới giải phóng bản thân, lật đổ nền thống trị của giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh của những người sáng lập Chủ nghĩa Mác chống chủ nghĩa vô chính phủ của Proudhon kéo dài suốt mấy chục năm, tới khi Công xã Paris thất bại mới triệt để xóa bỏ được nó. Và từ đây, chủ nghĩa cơ hội Proudhon đã không còn ảnh hưởng gì trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Karl Marx đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và những vấn đề đặt ra hiện nay

Khách tham quan ngôi nhà nơi Karl Marx sinh ra tại Trier, Đức. Nguồn: THX/TTXVN

Thứ hai, đấu tranh chống Chủ nghĩa Lassalle. Chủ nghĩa Lassalle hình thành ở nước Đức vào những năm 60 của thế kỷ 19, là trào lưu cơ hội chủ nghĩa mà đứng đầu là F.Lassalle (1825-1864). Đây là một trào lưu cơ hội chủ nghĩa có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của phong trào công nhân Đức và phong trào công nhân quốc tế. Bên cạnh việc tuyên truyền cái gọi là “quy luật sắt về tiền công”, Lassalle cổ vũ cho quan điểm duy tâm chủ nghĩa về nhà nước, kêu gọi thực hiện chủ nghĩa xã hội thông qua quyền phổ thông đầu phiếu, biến nhà nước chuyên chế Phổ thành “nhà nước tự do”, sau đó, nhà nước ấy sẽ đem tiền của dùng vào chiến tranh để xây dựng các hợp tác xã, làm cho công nhân thoát khỏi nghèo khổ. Tư tưởng của F.Lassalle thực tế là thỏa hiệp và theo đuôi giai cấp tư sản. Karl Marx đã viết tác phẩm "Phê phán Cương lĩnh Gotha"(1875), phê phán những sai lầm thỏa hiệp, hữu khuynh vô nguyên tắc của những người lãnh đạo Đảng Dân chủ xã hội Đức, vạch trần bản chất cơ hội, cải lương của phái Lassalle. Karl Marx đã vạch trần tính chất sai lầm và phản động của F.Lassalle trên nhiều vấn đề; trong đó, ông phê phán luận điểm nhảm nhí về “nhà nước tự do” dựa theo quan điểm siêu giai cấp của Lassalle. Cũng thông qua cuộc đấu tranh này, Karl Marx đã phát triển lý luận về hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, làm nổi bật tính tất yếu, vai trò lịch sử của chuyên chính vô sản và phát triển thêm một bước học thuyết về nhà nước.

Thứ ba, đấu tranh chống chủ nghĩa vô chính phủ Bakunin. Chủ nghĩa Bakunin là một trào lưu tư tưởng chính trị tiểu tư sản và chủ nghĩa vô chính phủ có ảnh hưởng rộng rãi nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vào những năm 70 của thế kỷ 19. Bakunin đòi xóa bỏ mọi hình thức chính quyền, kể cả chuyên chính vô sản bằng các cuộc bạo động có tính chất âm mưu; khước từ mọi hoạt động chính trị của giai cấp công nhân... Cuộc đấu tranh của Karl Marx chống lại tư tưởng cơ hội tiểu tư sản và vô chính phủ của Bakunin được đưa lên hàng đầu trong Quốc tế I. Karl Marx đã chỉ ra tư tưởng của Bakunin là “sai lầm về mặt lý luận và phản động về mặt thực tiễn”, dẫn giai cấp công nhân đi theo chủ nghĩa cải lương. Ông chỉ ra rằng không thể thủ tiêu chủ nghĩa tư bản bằng việc xóa bỏ quyền thừa kế mà phải sử dụng chuyên chính vô sản. Thông qua sự đấu tranh quyết liệt của mình, Karl Marx đã đánh bại Chủ nghĩa Bakunin và năm 1872 khai trừ Bakunin ra khỏi Quốc tế I, đồng thời đưa Chủ nghĩa Mác phát triển lên một tầm cao mới trong lý luận về nhà nước chuyên chính vô sản.

Có thể nói, Karl Marx đã tiến hành cuộc đấu tranh triệt để chống lại chủ nghĩa cơ hội trong những năm 1844-1873 và đã bác bỏ gần như toàn bộ học thuyết cơ hội trong giai đoạn đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc đấu tranh này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần đưa phong trào công nhân quốc tế phát triển đúng hướng. Đồng thời còn tạo ra một bước phát triển vượt bậc của hệ tư tưởng vô sản, ngày càng khẳng định tính đúng đắn, khoa học của học thuyết này, tạo cơ sở vững chắc cho những thắng lợi của các cuộc cách mạng vô sản sau này.

Những vấn đề đặt ra đối với đấu tranh chống tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Trong Đảng ta hiện nay chưa có chủ nghĩa cơ hội như thời của Karl Marx, tức là chưa có những trào lưu tư tưởng, học thuyết hay một tổ chức công khai đối lập với Đảng, tuy nhiên, những tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa xuất hiện dưới những mức độ, tính chất khác nhau. Biểu hiện cơ hội chủ nghĩa ở trong Đảng ta thể hiện dưới những dạng cơ hội chính trị và cơ hội thực dụng mà Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) chỉ ra đó là 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Những t­ư t­ưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa đã và đang làm giảm sút năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, đe dọa tới sự tồn vong của chế độ. Do vậy, kế thừa những bài học, kinh nghiệm từ cuộc đấu tranh của Karl Marx chống chủ nghĩa cơ hội, để có thể ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần phải tập trung giải quyết những vấn đề sau:

Một là, cần giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống những tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa. Cho dù các phần tử cơ hội chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc, song chúng đều có một trong 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do đó, cần tuyên truyền, giáo dục để đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân phát hiện ra những phần tử cơ hội chủ nghĩa trong Đảng, thấy rõ tác hại của chúng, trên cơ sở đó, nâng cao trách nhiệm trong đấu tranh phòng, chống những phần tử cơ hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

Hai là, phải có thái độ đấu tranh dứt khoát, kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng với những tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa. Các phần tử cơ hội chủ nghĩa như những “ung nhọt”, “vi trùng rất độc”, “khối u ác tính”; là một tai họa hiển nhiên, do vậy, toàn Đảng cần đấu tranh chống lại chúng ở mọi nơi, mọi lúc; trên tất cả lĩnh vực; không cho chúng cơ hội trở thành một chủ nghĩa, một trào lưu tư tưởng có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp cách mạng. Cần phải có thái độ rõ ràng, đấu tranh một cách kịp thời, triệt để, dứt khoát, không cho chúng có “mảnh đất” để tồn tại. Kiên quyết xử lý, loại bỏ chúng dù ở bất cứ vị trí nào, cần “tẩy rửa chất mủ ấy đi càng nhanh và càng kỹ chừng nào càng tốt chừng nấy, dù cho việc mổ xẻ ấy có làm cho ta phải tạm thời chịu đau đớn kịch liệt đi nữa”(2).

Ba là, xác định nội dung, phư­ơng pháp, hình thức phù hợp để đấu tranh hiệu quả với các biểu hiện cơ hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh chống các phần tử cơ hội chủ nghĩa phải đư­ợc tiến hành trên mọi mặt trận, ở mọi nơi, từ đấu tranh lý luận đến đấu tranh thực tiễn. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng lý luận, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (3). Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên với thực hiện nghiêm túc các khâu, các bước trong công tác cán bộ, thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Kết hợp chặt chẽ giữa tự phê bình và phê bình trong nội bộ với công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp, sự giám sát của các phương tiện thông tin đại chúng, của quần chúng nhân dân và công tác thanh tra, điều tra, xét xử của các cơ quan chức năng. Qua đó kịp thời phát hiện, ngăn chặn, loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa “luồn sâu, leo cao” vào trong bộ máy của Đảng.

Nói tóm lại, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của Karl Marx đã để lại những ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, trong đó chỉ dẫn cho cuộc đấu tranh phòng, chống những tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa trong Đảng ta hiện nay. Để đấu tranh chống các phần tử cơ hội chủ nghĩa đòi hỏi cần phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Có như vậy, Đảng mới tăng cường “sức đề kháng” và đủ sức loại bỏ được những phần tử cơ hội chủ nghĩa ra khỏi bộ máy.

------------------------------------

(1) K.Marx và F.Engels, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.58

(2) V.I.Lenin, Toàn tập, tập 27, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.154

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.183

Thiếu tá, Thạc sĩ PHẠM VĂN PHONG, Học viện Chính trị

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh

 Cách đây 70 năm, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đập tan hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, góp phần quyết định kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954 ghi vào lịch sử dân tộc ta như “một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ 20” và đi vào lịch sử thế giới như “một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”(1).

Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024) là dịp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại lịch sử, tưởng nhớ, tri ân sự hy sinh, cống hiến to lớn, vẻ vang của các anh hùng liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân cả nước; biết ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước Trung Quốc, Liên Xô; đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, đúc rút những giá trị, bài học kinh nghiệm quý báu có thể vận dụng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Một là, nắm chắc tình hình, xử lý đúng đắn, linh hoạt, kịp thời nhiệm vụ quốc phòng, an ninh (QPAN), bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở bám sát thực tiễn, nắm chắc tình hình, nhất là về tương quan lực lượng, cục diện trên chiến trường, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân sáng tạo, linh hoạt, lần lượt đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của địch, đẩy chúng ngày càng lâm vào thế bị động đối phó.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh

Đại tướng Phan Văn Giang thăm, kiểm tra, động viên lực lượng diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại Trung đoàn 82 (Sư đoàn 355, Quân khu 2). Ảnh: NGÔ VIỆT TRUNG

Tháng 9-1953, trên cơ sở nhận định chính xác mục tiêu của Kế hoạch Navarre là tập trung binh lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh hòng xoay chuyển tình thế, giành thắng lợi quân sự, kết thúc chiến tranh trong danh dự, Bộ Chính trị đã họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954 và quyết định chủ trương: “Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở nhằm phân tán binh lực của chúng; phương châm tác chiến chung là: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”; nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến là: “Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt...”(2).

Khi Navarre chọn Điện Biên Phủ-chiến trường rừng núi, xa căn cứ và phụ thuộc hoàn toàn vào tiếp vận bằng đường không làm điểm quyết chiến chiến lược với ta, đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã nghiên cứu, nhận định, đánh giá đúng tình hình địch-ta và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ; đồng thời, mở 5 đòn tiến công phối hợp trên các chiến trường để tạo thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ(3). Với Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”(4), “chỉ được đánh khi nắm chắc thắng lợi. Nếu không chắc thắng, không đánh”(5).

Ban đầu, ở Điện Biên Phủ, địch lâm thời phòng ngự, chưa kịp xây dựng công sự trận địa vững chắc, ta đề ra phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Đến đầu năm 1954, sau khi kiểm tra, tìm hiểu, nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình chiến trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ nhận thấy địch đã tăng cường binh lực và củng cố vững chắc hệ thống công sự trận địa phòng thủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh; trong khi đó, sự chuẩn bị của ta, nhất là bảo đảm hiệp đồng giữa bộ binh với pháo binh và phòng không vẫn chưa hoàn tất.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở rút kinh nghiệm những bài học lịch sử, nắm chắc quy luật chiến tranh và bằng trí tuệ, sự mẫn cảm, trách nhiệm cao của người chỉ huy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cân nhắc, báo cáo Bộ Chính trị quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thực tế lịch sử cho thấy, đây là quyết định vô cùng khó khăn, nhưng hết sức quyết đoán, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, sáng tạo, linh hoạt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, là một nhân tố trực tiếp góp phần quyết định làm nên thắng lợi của chiến dịch lịch sử này.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt; nhiều điểm nóng về an ninh có chiều hướng gia tăng, nguy cơ lan rộng, xuất hiện các hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, không gian chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh mới, đặt ra những thách thức mới đối với xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển của nhân loại.

Để thực hiện mục tiêu xuyên suốt của quốc phòng Việt Nam là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; giữ vững, củng cố, tăng cường môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước, chúng ta phải quán triệt, tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc (BVTQ), trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược BVTQ trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia, các chiến lược chuyên ngành và hệ thống chính sách, pháp luật về QPAN.

Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, nhất là các cơ quan tham mưu chiến lược phải bám sát thực tiễn, chủ động nghiên cứu, nắm, đánh giá, dự báo chính xác các nguy cơ, thách thức, các tình huống chiến lược, loại hình tác chiến mới, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chiến lược, đối sách ngăn ngừa, xử lý hiệu quả các tình huống về QPAN, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để đất nước bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Cùng với đó, tích cực rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về xây dựng nền QPTD trong điều kiện mới; chuẩn bị các phương án, lực lượng, phương tiện sẵn sàng ứng phó thắng lợi các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống.

Hai là, tăng cường xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.

Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và nước ngoài có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tiềm lực quốc phòng bao gồm nhiều thành tố như tiềm lực chính trị; tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực quân sự; tiềm lực khoa học-công nghệ. Trong đó, tiềm lực chính trị là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong đó tố chất con người đầy bản lĩnh, trí tuệ, sức sáng tạo, thấm sâu giá trị lịch sử truyền thống, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, Đảng và Chính phủ đã huy động được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tham gia vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, sẵn sàng đóng góp, chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế, văn hóa, giáo dục kháng chiến với khả năng tự chủ cao, đáp ứng được phần lớn nhu cầu của sự nghiệp cách mạng; phát động được phong trào toàn dân kháng chiến rộng khắp, lấy LLVT nhân dân 3 thứ quân làm nòng cốt; thiết lập được liên minh chiến đấu với lực lượng cách mạng Lào, Campuchia; nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ ngày càng to lớn, hiệu quả từ các nước XHCN, nhất là Trung Quốc và Liên Xô.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
Đại tướng Phan Văn Giang kiểm tra công tác diễn tập của Quân đoàn 12 (tháng 12-2023). Ảnh: VŨ PHONG 

Từ năm 1950, quân và dân ta liên tiếp mở các chiến dịch lớn, đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự, bế tắc giữa tập trung và phân tán lực lượng. Bước vào Chiến dịch Điện Biên Phủ, sức mạnh nội sinh, tinh thần đoàn kết, sức sáng tạo và ý chí kiên cường của nhân dân ta được khơi dậy, tập hợp, phát huy cao độ. Từ miền núi đến đồng bằng, từ vùng giải phóng đến vùng tạm bị chiếm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, đông đảo nhân dân hăng hái, tích cực đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến, giải quyết được thành công vấn đề hậu cần trong một chiến dịch dài ngày, ác liệt mà đối phương không thể lường tính được(6).

Ở vùng tự do, hậu phương và căn cứ địa, ta vừa ra sức xây dựng nền kinh tế kháng chiến phục vụ những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, vừa phát triển công nghiệp quốc phòng chế tạo, sửa chữa trang bị, vũ khí cho LLVT, đáp ứng những yêu cầu ngày càng lớn và cấp thiết của chiến trường... Nhờ đó, sức mạnh tổng hợp-sức mạnh vô địch của dân tộc được quy tụ, góp phần quyết định làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Ngày nay, để tăng cường xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho nền QPTD, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, ngày càng hiện đại, chúng ta phải xây dựng, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, đối ngoại, khoa học và công nghệ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, cần tập trung vào các nội dung sau:

Xây dựng, phát huy tiềm lực chính trị: Để xây dựng tiềm lực chính trị cần tập trung xây dựng Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh; bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân đối với mục tiêu, nhiệm vụ QPAN. Thực hành, phát huy dân chủ XHCN, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ.

Xây dựng tiềm lực kinh tế: Nhiệm vụ QPAN hiện nay đòi hỏi phải đẩy nhanh hiện đại hóa LLVT nhân dân cả về biên chế, tổ chức, vũ khí, trang bị (VKTB). Do đó, mọi chính sách, chiến lược phát triển đất nước phải luôn gắn chặt với chiến lược BVTQ; phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với củng cố QPAN; xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ, vừa góp phần phát triển kinh tế-xã hội và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xây dựng tiềm lực khoa học-công nghệ: Để xây dựng tiềm lực khoa học-công nghệ, cần có chủ trương, chính sách thích hợp để phát triển toàn diện khoa học quân sự, khoa học-công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia đầu ngành có chất lượng cao trên từng lĩnh vực. Coi trọng việc ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, từng bước đưa ra những giải pháp cho các vấn đề về sửa chữa, cải tiến, chế tạo, sản xuất VKTB hiện đại và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho các hình thái chiến tranh mới. Tích cực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự Việt Nam trong tình hình mới.

Xây dựng tiềm lực quân sự: Tập trung làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QPAN cho các đối tượng và toàn dân. Đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân (QĐND) “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; đồng thời, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Ba là, xây dựng LLVT nhân dân, nòng cốt là QĐND Việt Nam "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại".

Qua 8 năm kháng chiến, đến năm 1953, chúng ta đã xây dựng được LLVT 3 thứ quân vững mạnh về tổ chức, chính trị và tinh thần; trong đó, 6 đại đoàn bộ binh và một đại đoàn công pháo trực thuộc Bộ đã qua các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, có kinh nghiệm tác chiến với kiểu phòng ngự tập đoàn cứ điểm của địch từ sơ khai ở Hòa Bình (1951) đến tương đối hoàn chỉnh ở Nà Sản (1952), được trang bị mới một số loại hỏa lực hạng nặng đủ để chế áp hỏa lực pháo binh và cắt đứt cầu hàng không của chúng.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Quân đội ta đã mở các cuộc tiến công chiến lược trên khắp chiến trường Đông Dương, phân tán binh lực địch, phá tan âm mưu tập trung quân cơ động của Kế hoạch Navarre, tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Điện Biên Phủ. Các đại đoàn chủ lực của ta với sự chi viện của hỏa lực pháo binh, phòng không mới được biên chế, đã vận dụng sáng tạo những kiến thức, kinh nghiệm về tác chiến công kiên, tác chiến phòng không, phòng pháo, từng bước tiêu diệt các ổ đề kháng của địch, góp phần quyết định trực tiếp vào thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Hiện nay, để xây dựng LLVT, nòng cốt là QĐND "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác quân sự, quốc phòng, về định hướng xây dựng Quân đội trong thời kỳ mới, trọng tâm là Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17-1-2022 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Tập trung xây dựng QĐND "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại(7), làm nòng cốt trong củng cố quốc phòng, BVTQ trong tình hình mới.

Tập trung xây dựng LLVT vững mạnh về chính trị, tư tưởng, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với LLVT. Xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả nền nếp chính quy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; đẩy mạnh Phong trào Thi đua Quyết thắng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, toàn quân là một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động.

Đẩy mạnh xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong cả lực lượng chính quy, thường trực, lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ. Tích cực đổi mới nội dung chương trình, phương pháp và nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo, bảo đảm đồng bộ, chuyên sâu, đúng quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp và sát thực tế chiến đấu, có trọng tâm, trọng điểm; tiếp thu, vận dụng sáng tạo tinh hoa truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc với tri thức quân sự hiện đại trên thế giới; tăng cường huấn luyện, rèn luyện nâng cao sức khỏe, trình độ làm chủ VKTB có trong biên chế, nhất là VKTB mới gắn với ứng dụng công nghệ mô phỏng, công nghệ thông tin; thường xuyên tổ chức diễn tập nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng tác chiến trong mọi điều kiện, ngày và đêm, trong đó chú trọng diễn tập chiến đấu hiệp đồng quân, binh chủng, diễn tập tác chiến phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; diễn tập phòng, chống thách thức an ninh phi truyền thống, diễn tập tác chiến trên biển, đảo, không gian mạng, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu nạn, cứu hộ và bảo vệ môi trường...

Tiếp tục tổ chức Quân đội tinh, gọn, mạnh, gắn với bố trí lại lực lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các cấp trong Quân đội; bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần lực lượng; phù hợp đường lối QPTD, chiến tranh nhân dân và khả năng bảo đảm VKTB; giữ vững và phát huy truyền thống Quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Bảo đảm đủ số lượng, chất lượng VKTB kỹ thuật cho các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ biển, đảo, biên giới, không gian mạng; trong đó, có những vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu chiến tranh công nghệ cao; đồng thời, nâng cấp, hiện đại hóa VKTB hiện có; niêm cất VKTB, phương tiện phục vụ yêu cầu quốc phòng, BVTQ.

Bốn là, xây dựng thế trận QPTD vững mạnh, rộng khắp.

Thực hiện chiến lược toàn dân kháng chiến, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi nhà là một ổ đề kháng, mỗi khu phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài”, đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay, đánh giặc ở mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi hình thức..., trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, vững chắc, “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”. Nhờ kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị; giữa tác chiến chính quy với tác chiến du kích; phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với dân quân du kích; tiến công địch ở cả chính diện và sau lưng... ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, từng bước vô hiệu hóa các phương thức chiến tranh của địch, đẩy chúng vào thế bị động, mâu thuẫn gay gắt giữa tập trung với phân tán lực lượng, giữa đánh nhanh với đánh kéo dài.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, ta đã thực hiện phối hợp tác chiến giữa các chiến trường 3 nước Đông Dương, đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động tiến công, đấu tranh, phá thế kìm kẹp của địch, mở rộng vùng giải phóng ở khắp các địa phương trên cả 3 miền đất nước, đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động, phân tán lực lượng trên một không gian rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận chính Điện Biên Phủ.

Ngày nay, để củng cố, phát huy thế trận QPTD trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc những quan điểm của Đảng về xây dựng thế trận QPTD, gắn với thế trận an ninh nhân dân; vận dụng sáng tạo kinh nghiệm lịch sử, nhất là bài học phát huy thế trận chiến tranh nhân dân trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 nói chung và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng vào việc xây dựng thế trận quốc phòng trên từng địa phương, hợp thành thế trận phòng thủ đất nước vững chắc, tạo sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh bại các loại hình chiến tranh xâm lược. Tập trung xây dựng phòng thủ quân khu vững mạnh toàn diện, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc; chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng để xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ngay từ cơ sở.

Làm tốt công tác quy hoạch và xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế-quốc phòng, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với QPAN và giữa QPAN với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại, tạo thế và lực mới cho thế trận QPTD ở từng địa phương, từng khu vực và trên phạm vi cả nước, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng thời bình và chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, chiến sĩ và toàn dân đối với nhiệm vụ QPAN, BVTQ; có phương án, kế hoạch xử trí, giải quyết các tình huống QPAN chính xác, kịp thời, không để đất nước bị động, bất ngờ.

Năm là, mở rộng, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, tạo thế, tạo lực BVTQ từ sớm, từ xa.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta chủ trương tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tích cực tranh thủ quốc tế ủng hộ, giúp đỡ về vật chất và tinh thần. Nhờ đó, ta dần phá thế bao vây của chủ nghĩa đế quốc, tăng cường thế và lực, góp phần quan trọng thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Với sự viện trợ của các nước XHCN, nhất là Trung Quốc và Liên Xô, chúng ta có được những nguồn lực cần thiết, quý giá để tăng cường đấu tranh hiệu quả với địch trên mọi mặt trận.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, sự giúp đỡ, viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô đã góp phần giải quyết nhiều nhu cầu chiến đấu cấp thiết của bộ đội trên chiến trường. Đặc biệt, với quan điểm “Đông Dương là một chiến trường”, chúng ta đã xây dựng được khối liên minh đoàn kết chiến đấu với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia cùng chống kẻ thù chung, tạo nên sức mạnh to lớn, lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải luôn nắm bắt, dự báo chính xác, kịp thời các xu hướng trong quan hệ quốc tế, mục tiêu, ý đồ chiến lược của các nước lớn; chú trọng củng cố quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước trong khu vực, nhất là các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống... Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm hợp tác quốc phòng song phương và đa phương; tranh thủ tối đa ngoại lực để củng cố nền QPTD vững mạnh, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

Trong quan hệ đối ngoại, vận dụng, thực hiện sáng tạo, hiệu quả đường lối đối ngoại mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; tránh xung đột, đối đầu hoặc để bị cô lập, phụ thuộc; kiên định chính sách quốc phòng “4 không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Tích cực, chủ động tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và các hoạt động nhân đạo quốc tế nhằm làm cho các nước và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn tính chính nghĩa, hòa bình, tự vệ của chính sách quốc phòng Việt Nam.

Thời gian đã lùi xa, nhưng Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn luôn là biểu tượng sáng ngời của ý chí, bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, của sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Những bài học, kinh nghiệm rút ra từ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong xây dựng nền QPTD vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Đại tướng, TS PHAN VĂN GIANG, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Việt Nam đề nghị Campuchia đánh giá đầy đủ tác động của dự án kênh Funan Techo

 Việt Nam đề nghị Campuchia phối hợp các bên đánh giá đầy đủ tác động của dự án kênh đào Funan Techo đối với nguồn nước và môi trường sinh thái tiểu vùng sông Mekong.

"Việt Nam luôn ủng hộ, vui mừng và đánh giá cao những thành tựu Campuchia đã đạt được trong thời gian qua", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng ngày 5/5 cho biết khi được đề nghị bình luận về những phát biểu gần đây của phía Campuchia liên quan đến triển khai dự án kênh đào Funan Techo, theo thông cáo của Bộ Ngoại giao.

Bà Hằng cho biết đối với dự án kênh đào Funan Techo, Việt Nam rất quan tâm, tôn trọng lợi ích chính đáng của Campuchia theo tinh thần Hiệp định Mekong 1995, phù hợp với các quy định liên quan của Ủy hội sông Mekong và quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước.

"Chúng tôi mong rằng Campuchia tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và các nước trong Ủy hội sông Mekong chia sẻ thông tin, đánh giá đầy đủ tác động của dự án này đối với nguồn nước, tài nguyên nước và môi trường sinh thái của khu vực tiểu vùng sông Mekong", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao cho hay.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng. Ảnh: Bộ Ngoại giao

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng. Ảnh: Bộ Ngoại giao

Việt Nam cũng mong muốn Campuchia thực hiện các biện pháp quản lý phù hợp nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích của các quốc gia ven sông, quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn nước và tài nguyên nước sông Mekong, vì sự phát triển bền vững của lưu vực, tình đoàn kết gắn bó giữa các quốc gia ven sông và tương lai của các thế hệ mai sau.

Dự án kênh đào Funan Techo được Hội đồng Bộ trưởng Campuchia phê chuẩn vào tháng 5/2023, dự kiến dài 180 km, nối cảng sông Phnom Penh với vịnh Thái Lan ở tây nam Campuchia, đi qua các tỉnh Kandal, Takeo, Kampot và Kep. Theo tài liệu Campuchia trình lên Ủy hội sông Mekong tháng 8/2023, kênh Funan Techo sẽ bắt đầu hoạt động từ năm 2028.

Dự án có trị giá ước tính 1,7 tỷ USD, dự kiến do công ty Trung Quốc thực hiện theo hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao.

Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen ngày 9/4 bác thông tin cho rằng dự án kênh đào Funan Techo có thể tạo điều kiện cho chiến hạm Trung Quốc đi vào sông Mekong. Ông cho rằng kênh đào "hoàn toàn phục vụ lợi ích kinh tế xã hội" khi mở ra thêm tuyến đường thủy đến khu vực tây nam Campuchia, bên cạnh những tuyến hiện có trên sông Mekong, và sẽ không ảnh hưởng đến dòng nước.

Kênh đào Funan Techo. Đồ họa: ST

Kênh đào Funan Techo. Đồ họa: ST

Thủ tướng Campuchia Hun Manet ngày 28/4 nói dự án kênh đào Funan Techo "đã được xem xét kỹ lưỡng suốt 26 tháng", nhằm nâng cao phúc lợi cho toàn bộ người dân Campuchia, tuyên bố sẽ thúc đẩy tầm nhìn của ông Hun Sen về hiện thực hóa dự án này.

Tuy nhiên, tại hội nghị tham vấn tại Cần Thơ về đề xuất dự án kênh đào Funan Techo của Campuchia ngày 23/4, TS Lê Anh Tuấn, giảng viên chính Khoa Môi trường và Tài nguyên, Đại học Cần Thơ, cho rằng việc triển khai dự án sẽ ảnh hưởng rất lớn, khiến lượng nước từ dòng Mekong về miền Tây có thể giảm 50%.

"Kênh Funan Techo khi vận hành, miền Tây Việt Nam sẽ gia tăng tình trạng thiếu nước ngọt trong sinh hoạt, canh tác, sản xuất; mặn xâm nhập sâu và nhiều hơn; các hệ sinh thái sẽ bị đảo lộn", TS Tuấn nói.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...