Thứ Năm, 13 tháng 2, 2020

“ĐẢNG TA LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” - SỰ THẬT KHÔNG THỂ BÁC BỎ



Xuyên tạc, nói xấu, hòng làm mất uy tín, thể diện, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thủ đoạn chống phá trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thế nhưng, thực tiễn đã bác bỏ mọi xuyên tạc, chứng minh rõ “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
Kỷ niệm lần thứ 30 Ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh/ Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”. Điều đó, một mặt, nhằm khẳng định bản chất tốt đẹp, nhân văn và tiến bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam; mặt khác, nhằm khích lệ, giáo dục và yêu cầu mọi đảng viên của Đảng phải không ngừng tu dưỡng, phấn đấu để Đảng ta mãi mãi “là đạo đức, là văn minh”.
Những năm gần đây, trước sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; sự thất thế của nhiều đảng cộng sản và công nhân tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, thì việc xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản cầm quyền ở những nước còn lại trở thành thủ đoạn phổ biến của các thế lực chống cộng, nhằm làm mất uy tín, vị thế, vai trò của đảng cộng sản trong xã hội, tiến tới xóa bỏ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những quốc gia này. Đối với nước ta, các thế lực chống cộng, phản động ở nước ngoài câu kết với những phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, bất mãn ở trong nước cũng dùng mọi thủ đoạn để công kích sự lãnh đạo của Đảng; trong đó, xuyên tạc sự thật lịch sử, nói xấu, bôi lem hình ảnh Đảng Cộng sản Việt Nam là thủ đoạn được họ tích cực sử dụng. Họ bỏ qua sự thật lịch sử những năm đầu thế kỷ XX để cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam “tiếm quyền” lãnh đạo cách mạng của các lực lượng chính trị khác, nên
“không thể là đạo đức”(!). Họ phớt lờ những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, cố tình khuếch đại một số sai lầm của Đảng trong thực tiễn để chứng minh đó là “hành động vô đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Trước thực trạng trong Đảng hiện nay có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, họ lớn tiếng “Đảng Cộng sản Việt Nam không còn là đạo đức, là văn minh”(!). Nhân sự thoái trào tạm thời của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, họ cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, vẫn kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội là “lạc hậu, không còn là một đảng tiến bộ, văn minh”(!), v.v. Mục tiêu hướng tới của những luận điệu công kích này là làm mất uy tín, thể diện của Đảng Cộng sản Việt Nam trước quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân xa rời Đảng; đồng thời, gieo rắc sự hoài nghi, dao động trong đội ngũ đảng viên của Đảng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, tạo thời cơ để giành lấy chính quyền, đưa đất nước đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Những luận điệu sai trái đó vô cùng nguy hiểm, phải kiên quyết vạch trần, bác bỏ.
Trước hết, cần khẳng định dứt khoát: không có chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam “tiếm quyền” lãnh đạo cách mạng của các lực lượng chính trị khác. Nhìn lại lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy: các phong trào Cần Vương, Đông Du, Tây Du; các cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái; các cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục,… đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, nhưng rốt cuộc đều lâm vào bế tắc và thất bại. Các tổ chức, đảng phái chính trị ra đời trong thời kỳ này, như: Hội Phục Việt (năm 1925), Việt Nam Quốc dân đảng (năm 1927),... với nhiều cương lĩnh chính trị khác nhau, nhằm chiếm vũ đài lịch sử, nhưng các ngọn cờ lãnh đạo của họ không vượt qua được sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Nguyên nhân khiến các phong trào và tổ chức đó không thể đi tới thành công bởi các ngọn cờ mà họ giương lên không giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, không phù hợp với xu thế của thời đại, nên không thể đoàn kết được toàn dân tộc. Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành độc lập, tạo ra bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước, đánh dấu kết thúc thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Do vậy, không phải Đảng Cộng sản Việt Nam “tiếm quyền”, mà chính lịch sử đã trao trọng trách lãnh đạo cách mạng cho Đảng ta, sau khi đã khảo nghiệm một cách khắt khe những phương án chính trị của các lực lượng chính trị đương thời. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, mà còn là nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, phù hợp với xu thế của thời đại; là ngọn cờ đưa nhân dân ta đến độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, nên điều đó chứng tỏ “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
Để xem một đảng chính trị có “là đạo đức, là văn minh” hay không, người ta không chỉ nhìn vào mục tiêu, lý tưởng, mà còn phải nhìn vào hành động của đảng đó. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, 90 năm qua, kể từ khi bước lên vũ đài đấu tranh chính trị (02-1930), dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; “…nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”1 và hội nhập quốc tế. Nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với 16 nước, Đối tác toàn diện với 11 nước (gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc); là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và tiếp tục sứ mệnh này trong nhiệm kỳ 2020 - 2021. Trên lĩnh vực kinh tế, nước ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, dựa vào viện trợ để đứng vững, nay chúng ta đã đứng vào nhóm nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực và nhiều mặt hàng khác. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn dưới 5% (theo chuẩn nghèo đa chiều) hiện nay. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững; nước ta đã tham gia vào Lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, v.v. Những thành tựu đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và là minh chứng thuyết phục về năng lực lãnh đạo của Đảng trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập; chứng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
Nhìn lại thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đúng là có thời điểm Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Song, đó chỉ là những nốt trầm lẻ loi trong bản trường ca hào hùng 90 năm lãnh đạo của Đảng. Quan trọng hơn, trước mỗi sai lầm, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, nghiêm túc tự phê bình trước nhân dân, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tiếp tục lãnh đạo cách mạng tiến lên. Đúng như Bác Hồ đã nói: “Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”2, tức là một Đảng “đạo đức, văn minh”. Hiện nay, nhận thấy thực trạng có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với một hệ thống giải pháp rất quyết liệt. Tại Đại hội XII, Đảng ta đã đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII) được thực hiện một cách kiên trì, kiên quyết, làm thổi bùng ngọn lửa đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chỉ tính từ sau Đại hội XII đến tháng 10-2019, hơn 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý đã bị xử lý kỷ luật, một số cán bộ cấp cao đã bị xử lý hình sự. Đó là chưa kể hàng nghìn cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở các cấp dưới bị xử lý. Kết quả đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, không có vùng cấm đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời, là minh chứng khẳng định việc làm đó của Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”.
Mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng không phải là “sự bảo thủ, lạc hậu”. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không có nguyên nhân từ học thuyết này. Đây là điều mà nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô thời kỳ đó thừa nhận qua hồi ký và phát biểu của họ. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của sự sụp đổ bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều, xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Do vậy, đây là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - “mô hình xô-viết”, chứ không phải là sự sụp đổ học thuyết Mác – Lê-nin. Mặt khác, những thay đổi của thế giới ngày nay vẫn chưa vượt khỏi những quy luật mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã khái quát, nên học thuyết này vẫn là lý luận khoa học, cách mạng, giá trị nhất trong việc giải thích và cải tạo thế giới. Bản thân Giắc-cơ Đê-ri-đa, triết gia hiện đại có uy tín ở Mỹ và Pháp, cũng kêu gọi nhân loại “Trở về với Mác”. Ông cho rằng: nhân loại “không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của Mác”3. Còn Đi-đi-ê Ê-ri-bông, nhà chính luận Pháp khẳng định: sức sống mãnh liệt của học thuyết Mác là bất diệt và vai trò dẫn đường thời đại mới vẫn chính là chủ nghĩa Mác4. Chả thế mà trước sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản trong việc giải quyết các mâu thuẫn nội tại của mình, nhất là trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ (năm 2008), nhiều người trong xã hội tư bản, kể cả một số nhà lãnh đạo các nước phương Tây, đã tìm đọc các di sản của C. Mác. Đối với cách mạng Việt Nam, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, có một nguyên nhân cơ bản là Đảng ta luôn kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Sự kiên định đó luôn gắn với sự vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Ngay sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân như các đảng cộng sản khác, mà còn kết hợp với phong trào yêu nước. Quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cũng không chỉ là quá trình xây dựng bản chất giai cấp công nhân như quân đội các nước xã hội chủ nghĩa khác, mà còn gắn liền với bồi dưỡng tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, v.v. Chính vì thế, tổng kết 30 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội XII đã rút ra bài học số một là: “phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”5. Sự kiên định như thế “là đạo đức, là văn minh”.
Để Đảng ta mãi mãi “là đạo đức, là văn minh”, chúng ta cần tạc ghi trong lòng Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cần nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cùng Quy định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; coi đó là việc làm tự giác, thường xuyên, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” bằng những hình thức phong phú, sáng tạo. Đó là cách làm thiết thực để kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.
___________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 64.
2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 301.
3 - Giắc-cơ Đê-ri-đa – Những bóng ma của Mác, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 16.
4 - Báo Người quan sát, ngày 17-10-1993.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 69.

CHIA RẼ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN - CHIÊU TRÒ NGUY HIỂM CỦA CÁC LUẬN ĐIỆU THÙ ĐỊCH



Như đã thành thông lệ, sắp đến kỳ Đại hội Đảng, các thế lực thù địch lại ra sức chống phá cách mạng nước ta trên mọi lĩnh vực; trong đó, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là một trong những chiêu trò nguy hiểm nhất. Vì vậy, đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc của chúng, nhằm bảo vệ uy tín của Đảng, cũng như mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân là việc làm cấp thiết.
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam 90 năm qua, đã chứng minh mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với nhân dân Việt Nam là mối quan hệ gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất. Tính thống nhất đó, được thể hiện tập trung ở chỗ: Sự ra đời, tồn tại và mục tiêu hoạt động của Đảng là vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; nguồn sức mạnh bất tận và vô địch của Đảng là từ nhân dân, ở trong nhân dân. Đảng là của dân, vì dân, dân một lòng, một dạ theo Đảng. Đảng luôn quan tâm chăm lo cho lợi ích của nhân dân và nhân dân cũng luôn sẵn sàng chiến đấu, xả thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Quá trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sức mạnh dời non, lấp biển của sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân; đồng thời, thể hiện sức mạnh của sự thống nhất giữa lý tưởng của Đảng với khát vọng không có gì quý hơn độc lập, tự do của nhân dân. Sự thống nhất đó, là nhân tố cơ bản, sức mạnh chủ yếu tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng làm nên những thắng lợi vĩ đại, huy hoàng của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây và công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Nhận thức rõ sức mạnh vô địch của Đảng Cộng sản Việt Nam là ở mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, các thế lực thù địch luôn tìm mọi chiêu trò phá hoại, công kích nhằm chia rẽ Đảng với dân; lôi kéo, kích động, tách nhân dân ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho dân xa Đảng, thậm chí đối lập với Đảng. Gần đây, người ta lại thấy những chiến dịch rầm rộ được các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài hợp sức tấn công vào công tác chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng. Những luận điệu đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; đưa ra những lập luận, như: “một đảng cầm quyền thì không có dân chủ”, với những yêu sách đòi “Đảng ta phải từ bỏ quyền lãnh đạo” và coi đó là vấn đề “căn cốt”, “then chốt” để hợp lòng dân, v.v. Không khó hiểu khi vấn đề đảm bảo dân chủ được các thế lực thù địch tung ra ngày càng nhiều, với những chiêu trò ngày càng tinh vi, xảo quyệt nhằm làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức xuyên tạc, công kích bằng những luận điệu: Đại hội XIII chẳng có gì mới, vẫn theo phương hướng “chính trị bảo thủ”; vẫn tiếp tục “tôn thờ một chủ thuyết đã bị phá sản” và “không thể trông chờ ” vào ban lãnh đạo mới để đưa đất nước đi theo trào lưu văn minh nhân loại(!). Lợi dụng một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống được đưa ra xét xử, chúng cố tình thổi phồng, gán ghép cho Đảng ta đủ các bệnh hoạn: nào là “dốt nát”, “võ biền”, “vi phạm dân chủ”, “chà đạp lên lợi ích của nhân dân”, “thất nhân tâm” làm hại dân, hại nước. Nhiều “cuốn sách”, “tờ báo”, “tờ rơi”, “tâm thư”,“thư ngỏ”, “tuyên cáo” xuyên tạc mục đích hoạt động của Đảng không phải vì lợi ích của nhân dân, mà là lợi ích của nhóm cán bộ, đảng viên có chức có quyền và người thân của họ. Và, Đảng Cộng sản Việt Nam hết “vai trò lãnh đạo”; “quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân không còn nữa”. Rồi, chúng kêu gọi như lời “hịch”: trách nhiệm của những người yêu nước phải “nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, đánh đổ ban lãnh đạo của Đảng, giải tán Đảng, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của đất nước”; “bỏ lỡ thời cơ này là có tội với dân tộc”, v.v.
Từ những lời lẽ, giọng điệu trên chúng ta thấy rõ, mục tiêu số một của các thế lực thù địch là nhằm chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; làm cho nhân dân hoài nghi vai trò lãnh đạo của Đảng, xa Đảng, đối lập, chống lại Đảng, thủ tiêu nguồn sức mạnh vô địch và sức sống của Đảng, để đi đến thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Chúng ta không cần phải trình bày nhiều về các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa đã thiết lập nên vị thế lãnh đạo, vai trò dẫn dắt dân tộc, vị thế cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như tính chất mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong quá trình cách mạng nước ta. Đảng đã vì dân mà ra đời, lãnh đạo cách mạng, đưa nhân dân thoát khỏi đêm trường nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo, duy nhất cầm quyền ở nước ta. Và, nhân dân Việt Nam đã theo Đảng, đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng làm nên những kỳ tích vĩ đại của thế kỷ XX, ngày nay đang vững bước trên con đường đổi mới. Đó là bản chất và nội dung cốt lõi của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân đã, đang và vẫn thể hiện sinh động trong thực tiễn và là nguồn sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, không có thế lực nào, dù nham hiểm đến đâu cũng không thể xuyên tạc, chia rẽ được. Bởi, vai trò của Đảng đối với vận mệnh và tương lai của dân tộc, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là khách quan. Tính khách quan đó, không chỉ do chính lịch sử dân tộc và khát vọng của nhân dân Việt Nam quy định, mà còn do chính bản chất cách mạng, tính tiền phong, gương mẫu của Đảng. Vai trò và mối quan hệ đó đã được khẳng định trong thực tiễn lịch sử Việt Nam suốt 90 năm qua, không ai có thể bác bỏ.
Do đó, không thể vì sự hạn chế, khuyết điểm nào đó mà nói bừa rằng, Đảng ta đã “hết vai trò”, “không còn khả năng để lãnh đạo đất nước”, “không còn là đảng của nhân dân, vì nhân dân”, v.v. Và, cũng không thể phán xét một cách hồ đồ rằng, quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân không còn nữa, rồi kích động, hô hào nhân dân chống đối lại Đảng và chế độ.
Không chỉ trong lịch sử, mà thực tiễn ngày nay cho thấy, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã và đang được thụ hưởng thực sự trong cuộc sống hằng ngày, được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ và lạc quan tin tưởng vào sự phát triển của Việt Nam. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Mọi người dân đều trực tiếp hoặc gián tiếp đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, phát huy hiệu quả. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát không chỉ trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong xã hội, mà còn là phương châm hành động trong xây dựng hệ thống chính trị và là yêu cầu ứng xử của cán bộ, đảng viên trong tiếp xúc, quan hệ với nhân dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lợi và nghĩa vụ; quyền hạn và trách nhiệm; cống hiến và hưởng thụ. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Đảng đã thực sự gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình đúng với Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hiến định. Đó là thực tế, hiện thực sinh động không thể phủ nhận, đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc chống phá, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Những thành tựu có được ngày hôm nay là sự cố gắng to lớn, rất đáng tự hào của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ. Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận một số yếu kém, khuyết điểm trong quá trình xây dựng đất nước, nhất là công tác lãnh đạo, quản lý, vai trò nêu gương của cấp ủy, chính quyền cơ sở. Theo đó, trong tình hình mới, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII). Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách hợp lòng dân, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”1. Thực hiện tốt những yêu cầu này, không chỉ củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, mà còn làm thất bại mọi sự xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với dân của các thế lực thù địch trong tình hình hiện nay.

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 51.      

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI - SỰ LỰA CHỌN CỦA LỊCH SỬ, KHÔNG THỂ THAY THẾ



Chống phá hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Song, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được thực tiễn kiểm nghiệm, là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, không thể thay thế.
Nhân dịp kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và tiến hành đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch và một số “nhà hoạt động” của cái gọi là “nhân quyền”, “dân chủ”,… tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước ta, với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Họ triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, hoặc các sự cố môi trường, dịch bệnh, thiên tai,… để xuyên tạc, bóp méo sự thật; quy chụp tất cả yếu kém, khuyết điểm đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Nhưng, dù họ có cố tình xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận thế nào chăng nữa cũng không thể phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Điều ấy xuất phát từ mấy vấn đề cơ bản sau:
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử, đáp ứng yêu cầu của dân tộc và nguyện vọng thiết tha của nhân dân. Lịch sử dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy, trước ách thống trị, nô dịch, bóc lột hà khắc, tàn bạo của thực dân, phong kiến, trên khắp đất nước đã có nhiều cuộc đấu tranh, phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến, tư sản nổ ra nhưng đều thất bại, mà nguyên nhân chủ yếu là do đường lối, tư tưởng không phù hợp với thời đại và nguyện vọng của nhân dân. Mặc dù bị đàn áp dã man, nhưng phong trào yêu nước, cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và giai cấp công nhân vẫn phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một lực lượng với đường lối cách mạng tiên tiến, phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử mới đủ tư cách đại biểu cho các tầng lớp nhân dân, đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Giữa lúc cả dân tộc đang bế tắc về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, đó là con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Để thực hiện được, Người đã tích cực chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, con người, truyền bá chủ nghĩa đó vào Việt Nam bằng nhiều con đường, phương tiện, mở các lớp huấn luyện cán bộ, nhằm hình thành nên một chính đảng để lãnh đạo phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân. Với sự chuẩn bị chu đáo của Nguyễn Ái Quốc, ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập trên cơ sở các tổ chức cộng sản tiền thân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lên-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng nguyện vọng của dân tộc và nhân dân, bởi Đảng có đường lối cách mạng đúng, gồm những người ưu tú nhất, đại biểu cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu bức thiết về lực lượng lãnh đạo, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, khơi dậy, quy tụ được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, được quần chúng nhân dân tin tưởng, đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước Việt Nam đã đạt được những thắng lợi vĩ đại, ghi vào lịch sử dân tộc những trang vàng chói lọi. Ngay khi mới 15 năm tuổi, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam làm cuộc Cách mạng Tháng Tám “long trời lở đất”, giành độc lập, tự do cho dân tộc sau gần một trăm năm bị thực dân Pháp đô hộ; nhân dân Việt Nam thoát khỏi “kiếp ngựa trâu”, trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm quyền con người, v.v. Giai đoạn 2016 - 2020, mặc dù bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt cao, bình quân khoảng 6,78%/năm, năm sau cao hơn năm trước1, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới; thu nhập bình quân đầu người ước đạt 3.000 USD vào năm 2020; năm 2019 tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm xuống còn khoảng 4%, thấp hơn 1% so với năm 2018; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 90%; đời sống nhân dân được nâng cao; chính trị ổn định, xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được tăng cường, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 nước và vùng lãnh thổ; trong đó, có quan hệ với tất cả các nước lớn và các nước đều thừa nhận, tôn trọng chế độ xã hội ở Việt Nam. Điều đó khẳng định, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đúng, phù hợp, được nhân dân luôn tin tưởng, giao phó và ủng hộ, đi theo tiếng gọi của Đảng. Đây là điều không ai có thể phủ nhận.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Trước sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch và một số người cho rằng, đó là bằng chứng của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Song thực tiễn cho thấy, đến nay, chưa hề có một học thuyết nào tiến bộ, khoa học và cách mạng hơn chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Các mô hình xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả đã phát triển ở châu Âu, châu Mỹ, mặc dù có nhiều thành tựu, nhưng vẫn chứa đựng đầy rẫy những mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản chất mà chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục. Các cuộc chiến tranh, xung đột vũ trang ở I-rắc, Li-bi, Xy-ri; các vụ khủng bố ngay trong lòng nước Mỹ và một số nước ở châu Âu đã minh chứng cho điều đó. Mặt khác, sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, dẫn đến thay đổi về quan hệ sản xuất. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cách mạng xã hội, hình thành xã hội mới tốt đẹp hơn, như chủ nghĩa Mác – Lê-nin xác định. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội tiến bộ, vì con người, là ước vọng ngàn đời của tất cả người dân lao động, của nhân loại tiến bộ, mong muốn sống trong hòa bình, nhân ái. Sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, mà nguyên nhân trước hết là do những người cộng sản đã nhận thức không đầy đủ và vận dụng sai lầm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn, cùng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, là bài học đau đớn không chỉ đối với những người cộng sản, mà cả đối với nhân loại. Song, đó là sự sụp đổ của mô hình cụ thể, tuyệt nhiên không phải là sự sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không phải là sự sụp đổ về một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội vẫn là tương lai của loài người; và chắc chắn xã hội loài người sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc Việt Nam lựa chọn, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại, là con đường duy nhất đưa dân tộc Việt Nam đến vinh quang, hùng cường. Nhân dân Việt Nam tin tưởng, lựa chọn, giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân tộc tiến lên theo con đường đã lựa chọn.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nguyện vọng, niềm tin của nhân dân. Để hoàn thành trọng trách mà nhân dân giao phó, Đảng ta luôn tự phê bình và phê bình, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để “xốc lại đội ngũ”, làm cho Đảng mạnh hơn, nên Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay, nhận rõ nguy cơ của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, toàn Đảng đã kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, v.v. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay có hơn 70 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đã bị xử lý kỷ luật và xử lý hình sự, trong đó có cả ủy viên và nguyên ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị. Điều đó cho thấy, cuộc đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng là “không có vùng cấm”; bất cứ ai, làm gì, ở cương vị nào, dù đang tại vị hay đã “hạ cánh” nếu sai phạm đều bị xử lý. Đây là lời tuyên chiến quyết liệt của Đảng đối với “giặc nội xâm”, yếu tố lớn nhất làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, suy giảm sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng. Qua đó, góp phần cảnh tỉnh, răn đe, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực; tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, củng cố niềm tin càng vững chắc của nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các “lực lượng” chống đối, đòi đa nguyên, đa đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là lực lượng đại diện và không bao giờ đủ khả năng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Cần khẳng định rằng, các tổ chức và cá nhân, như: Việt Tân (Việt Nam Canh tân cách mạng Đảng, có trụ sở ở Mỹ), các nhà mang danh “dân chủ”, “xã hội dân sự” luôn hô hào, kêu gọi, tuyên truyền dân chủ tư sản phương Tây, lớn tiếng đòi đa nguyên, đa đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,… chỉ là đại diện và là tay sai đắc lực của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức chống phá hòng làm cho Việt Nam rối ren, bất ổn để dễ bề trục lợi về chính trị và kinh tế. Điều này được chính một số kẻ từng tham gia các tổ chức này thừa nhận. Mặt khác, họ không có và không thể đại diện cho bất cứ một học thuyết nào với tư cách là một hệ tư tưởng tiến tiến, khoa học và cách mạng hơn chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vì vậy, họ không thể đại diện cho nhân dân và không có chút tư cách gì để lãnh đạo đất nước, lãnh đạo dân tộc Việt Nam đi đến vinh quang.
Sự thực hiển nhiên trên đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của nhân dân, của dân tộc đối với Đảng. Vai trò đó đến nay và mãi mãi về sau là không thể thay thế. Mọi sự phủ nhận, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, hòng làm lu mờ vai trò của Đảng càng cho thấy một sự thật là: Đảng vẫn đang vững vàng với vai trò của mình và niềm tin của nhân dân dành cho Đảng ngày càng vững chắc.

1 - Kết quả các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 so năm 2018: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,02%; Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) bình quân 2,79; Xuất siêu 9,9 tỷ USD; Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 33,9% GDP, v.v.

MỘT SỐ CHIÊU TRÒ HẠ THẤP VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM



Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng, bước ngoặt của cách mạng Việt Nam - chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối chính trị, giai cấp lãnh đạo, mục tiêu, phương hướng, phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của phong kiến tay sai và thực dân, đế quốc; mở ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân, nông dân và dân tộc Việt Nam lãnh đạo. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn chủ động, sáng tạo hoạch định đường lối đúng đắn, sát hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong từng thời kỳ cách mạng, lãnh đạo dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt, qua hơn 30 năm đổi mới, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”1. Thế nhưng, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động luôn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam 90 năm qua.
Ngay sự ra đời của Đảng cũng bị chúng xuyên tạc và phủ nhận, bởi lẽ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không tuân thủ quy luật chung của quôc tế Cộng sản mà mang đặc tính riêng rất Việt Nam, đó là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển của Nguyễn Ái Quốc trong vấn đề thành lập Đảng. Có được kết quả trên là nhờ Nguyễn Ái Quốc có phương pháp cách mạng đúng đắn, biết tổng kết thực tiễn, đối chiếu lý luận với thực tiễn và lòng khao khát cháy bỏng muốn nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Thực tế đã chứng minh, sức mạnh của Đảng đã được tạo nên ngay nguồn gốc ra đời, dù bị kẻ thù chống phá điên cuồng, thậm chí tàn sát đẫm máu, nhưng Đảng ta vẫn kiên trung, tồn tại và lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành thắng lợi to lớn. Với một Đảng vừa tròn 15 tuổi đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tiếp đó là chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, vừa làm nhiệm vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng, hồi sinh đất nước; đồng thời, chiến đấu trên tuyến biên giới phía Bắc bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và tập trung lãnh đạo công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng, đưa nước ta thoát khỏi nhóm các nước nghèo, được Liên hợp quốc xếp vào các nước phát triển trung bình, cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng cao, v.v. Vậy mà, các thế lực thù địch vẫn rêu rao rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam nói đổi mới nhưng thực chất là “đổi màu”, “sửa sai”, “đổi hướng đi lên chủ nghĩa tư bản,…”. Chúng còn viện dẫn trong đường lối đổi mới của Đảng ta trước hết là “đổi mới tư duy”, để quy chụp Đảng ta “đã chuyển sang lập trường duy tâm chủ quan”, v.v. Nhưng trên thực tế, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị rất biện chứng và trên lập trường duy vật: “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”2. Hơn nữa, theo quan điểm của Đảng ta, đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, những quy luật phổ quát của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,… đó chính là quá trình bổ sung và phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã đặt nền móng cho nhân loại. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn nhấn mạnh: Đổi mới không phải thay đổi, xáo trộn, mất ổn định, xa rời mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó chính là mục tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Thời gian qua, các thế lực thù địch không chỉ tấn công vào đường lối đổi mới của Đảng ta về ý thức hệ và phương pháp luận, mà còn tấn công trực diện vào từng quan điểm, luận điểm lãnh đạo cách mạng. Đơn cử như, về quan điểm kinh tế, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc bằng những luận điệu hết sức phi lý, vô căn cứ  khi cho rằng: “nền kinh tế Việt Nam là “đỏ vỏ, xanh lòng”, “Việt Nam đã chấp nhận kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài,... là kinh tế tư bản, không phải là kinh tế xã hội chủ nghĩa”, v.v. Đây là luận điệu rất nguy hiểm, để minh chứng chúng viện dẫn tư tưởng kinh tế của C. Mác “tư nhân hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản”, nhưng chúng quên, hoặc cố tình không nhắc đến quan điểm biện chứng, kế thừa, phát triển của V.I. Lê-nin: Những người cộng sản phải biết bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hộivà những người cộng sản phải biết sử dụng giai cấp tư sản cày trên mảnh đất của chủ nghĩa xã hội, v.v. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế khách quan xây dựng chủ nghĩa xã hội, sử dụng thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài là tất yếu, nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Trên thực tế, thành phần kinh tế tư nhân, nhất là từ khi có Nghị quyết 10-NQ/TW, ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa XII) về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, tính đến tháng 10-2019, kinh tế tư nhân đóng góp 40% GDP. Điều đó chứng tỏ, đường lối phát triển kinh tế tư nhân của Đảng ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ dẫn, chứ không phải như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Cũng trên lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch tấn công trực diện vào quan điểm của Đảng ta về bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng, kinh tế thị trường chỉ có vận hành và chi phối bởi các quy luật của kinh tế thị trường, chứ không có định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam gắn cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” là “gượng ép, trái quy luật”, v.v. Thực chất luận điệu này là nhằm phủ nhận bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, trong một phương thức sản xuất, giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều phải rút ra kết luận bản chất kinh tế, hay nói cách khác là khẳng định mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, trước hết là sở hữu về tư liệu sản xuất. Do đó, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sự vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Trên lĩnh vực ngoại giao, lợi dụng quan điểm của Đảng ta “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, “thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn, đối tác quan trọng”3, các thế lực thù địch lại cho rằng, “Việt Nam phải thoát Trung, theo Mỹ” mới bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây là luận điệu vô cùng thâm độc nhằm phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, hạ thấp uy tín, gây mâu thuẫn giữa nước ta với các nước, nhất là với Trung Quốc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Họ đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu thực chất quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn làm bạn với các nước nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đó là quan điểm được hình thành trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống hòa hiếu của dân tộc phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế trong thế giới đương đại. Thực tế những thành tựu ngoại giao của nước ta trong những năm gần đây đã chứng minh đường lối đối ngoại của Đảng ta hoàn toàn đúng đắn; vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế ngày càng cao. Năm 2019, Việt Nam được bầu là ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với số phiếu tín nhiệm cao chưa từng có trong lịch sử (192/193 phiếu); tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ Hai: Mỹ - Triều Tiên; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Su Đăng và Trung Phi; đăng cai thành công Đại hội đồng liên nghị viện (IPU) lần thứ 132, v.v. Điều đó chứng tỏ Đảng ta luôn nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, thực hiện đúng luật pháp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi để phát triển đất nước.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang chuẩn bị toàn diện về tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, các thế lực xem đây là “thời cơ có một không hai” để chống phá. Âm mưu, thủ đoạn của chúng rất tinh vi, thâm hiểm, hòng chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta từ đường lối, nền tảng tư tưởng, đến công tác tổ chức, cán bộ. Vừa qua, chúng triệt để lợi dụng công cuộc chống tham nhũng của Đảng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng. Thâm độc hơn, chúng hô hào thành lập các tổ chức “xã hội dân sự”; kích động đòi “đa nguyên, đa đảng”, thay đổi các nguyên tắc đại hội, bỏ chế độ “đảng cử, dân bầu”, v.v. Đó là những luận điệu thể hiện rõ mục đích, ý đồ đen tối của các thế lực thù địch, nhằm phủ nhận thành quả cách mạng, nhất là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo và thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nói chung và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng; tự tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trau dồi đạo đức cách mạng, phương pháp tác phong công tác, thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Qua đó, góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh” - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam 90 năm qua và sự trường tồn của dân tộc. Đó cũng là cơ sở, điều kiện tiên quyết làm thất bại những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
 1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 69.
2 - ĐCSVN -Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 71.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 168.

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG LÀ NHIỆM VỤ THIÊNG LIÊNG VỚI LỊCH SỬ, VỚI ĐẢNG, BÁC HỒ VÀ NHÂN DÂN



 Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống lâu bền trong dòng chảy cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua chính là ở sự vận dụng sáng tạo, sự hoàn thiện, bổ sung và phát triển không ngừng về lý luận.
1. Công tác tư tưởng là cầu nối giữa nhận thức và hành động vì sự tồn tại xã hội và phát triển lịch sử, nếu không có tư tưởng đúng thì con người sẽ theo đuổi những lợi ích nhỏ lẻ có tính xung đột với nhau, phá vỡ mọi quy tắc ứng xử xã hội, gây rối loạn, bất ổn, bất an, thậm chí tan rã chính quyền, mất chế độ.
Sự xung đột đáng sợ nhất chính là sự xung đột về hệ tư tưởng; mỗi người, mỗi cộng đồng xã hội và từng quốc gia đều lựa chọn một hệ tư tưởng cụ thể, nếu mất phương hướng vì thiếu niềm tin vào hệ tư tưởng chính thống thì tất yếu sẽ loạn lạc.
Từ khi loài người xuất hiện đến nay, có 3 điều trở thành quy luật tồn tại và phát triển xã hội: 1) Con người là chủ thể của sự cải biến, thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, nếu không có cải biến thì con người không thể tồn tại. Các nền văn minh nhân loại đã trải qua và đang hướng tới chính là sự tích tụ hàng triệu năm tiến hóa và hàng ngàn năm sáng tạo. 2) Vì sự sinh tồn, con người buộc phải tìm ra những phương thức tác động tới tâm lý, tư tưởng, cố kết cộng đồng, hợp lực đấu tranh với thiên tai, địch họa. Sức mạnh của con người không nằm trong sức mạnh của số đông, cơ bắp hay sức mạnh vũ khí hiện đại, mà được tiềm ẩn và khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần. Trước mỗi việc đại sự của cộng đồng, thường người ta phải làm thông tư tưởng cho mọi người, đó chính là vũ khí đặc biệt của con người, thiếu nó mọi sự bất thành. 3) Thủ lĩnh của một bộ tộc, bộ lạc, quốc gia trước hết phải là người biết thu phục nhân tâm. Một chính đảng có khả năng cầm quyền và tồn tại trước hết phải dựa vào nền tảng tư tưởng tiến bộ, biết phụng sự vì lợi ích tối cao của nhân dân, của đất nước, bảo đảm quyền dân chủ thực sự cho nhân dân, giữ được niềm tin của nhân dân; dựa vào luật pháp là tối thượng để quản lý xã hội. Khi những người cầm quyền bị lợi ích cục bộ thao túng, mất niềm tin trong quần chúng nhân dân thì chế độ tất yếu sụp đổ.
Bài học xương máu từ sự thất bại của Công xã Paris, sự sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là minh chứng điển hình về sự thiếu hụt hoặc đánh mất nền tảng tư tưởng.
2. Sự hình thành, tồn tại của nhà nước và chế độ dân chủ ở Hy Lạp, La Mã trước hết là dựa vào ý nguyện của dân được tham gia, được thể hiện quyền công dân của mình đối với việc điều hành xã hội. Những bộ luật sơ khai được khắc trên đá của thành Athens cổ đại (Hy Lạp) đã công khai, minh bạch quyền công dân, người dân thấy mình được tôn trọng, được hiện diện trong quá trình kiến tạo và duy trì nhà nước. Tuy nhiên, đến khi chế động phong kiến, rồi chế độ tư sản thì quyền công dân của con người đã bị tước bỏ; phân chia lợi ích và phân tầng xã hội dần trở thành mâu thuẫn đối kháng. Cách mạng xã hội vì thế mà bùng nổ.
Công xã Paris, Cách mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là kết quả của sự vùng lên chống áp bức cường quyền. Trong các sự kiện đó, con người đã được giác ngộ hướng tới một xã hội, một chế độ tốt đẹp, bình đẳng, dân chủ hơn. Công tác tư tưởng chính là tuyên truyền, giác ngộ, giáo dục con người biết phản kháng, đấu tranh với những loại hình áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã hội dân chủ, người biết tôn trọng người; nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội đều phải hướng vào hiện thực hóa những giá trị nhân văn, nhân bản được nêu trong hiến pháp, được khẳng định trong chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền.
Dân tộc ta có một giá trị tư tưởng bất biến, trở thành giá trị riêng có để trường tồn chính là sự tự tôn, tự lập, tự cường. Làm cho giá trị cao quý ấy trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong mỗi con người, mỗi cộng đồng và toàn xã hội thì chắc chắn đó sẽ là sức mạnh sáng tạo lớn lao chưa từng có trong thời đại hiện nay. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta sử dụng vũ khí tư tưởng để đánh tiêu tan tâm lý nhược tiểu, buông xuôi số phận lịch sử. Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ năm đầu sau Tuyên ngôn Độc lập, rồi 2 cuộc kháng chiến thần thánh, vĩ đại đã cho thấy sức mạnh của một dân tộc có Đảng, có Bác Hồ soi đường chỉ lối.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là kim chỉ Nam cho sự hoạch định đường lối lãnh đạo của Đảng, là sự giải tỏa mọi bế tắc lịch sử mà những bậc tiền bối trước Nguyễn Tất Thành từng cam chịu (điều này đã được Phan Bội Châu thừa nhận: trăm thất bại không một lần thành công).
3. Để tiếp tục mài dũa cho thứ vũ khí linh nghiệm của Đảng ngày một sắc bén hơn, rất cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là mối quan tâm của Nhân dân. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài, với những nội dung cụ thể như:
Thứ nhất, cần phải tuyên truyền, giáo dục, khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn cách nay 100 năm là sự lựa chọn của lịch sử; là sự bắt nhịp xu hướng thời đại; đã được kiểm định bởi lịch sử dân tộc ta qua 90 năm có Đảng lãnh đạo.
Các bậc tiền bối cách mạng đã luôn nghiên cứu, học tập và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sau nhiều thập kỷ đối đầu, thù địch, sử dụng sức mạnh của kinh tế, vũ khí hiện đại hòng thủ tiêu Đảng cộng sản Việt Nam, đến nay các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam đều chấp nhận vị thế cầm quyền của Đảng ta.
Giữa những hỗn mang của các luồng tư tưởng không chính thống dưới các màu sắc tôn giáo, sắc tộc, dân túy, dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ quyền biển, đảo… đang được các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị ra sức thúc đẩy, thì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là dòng chảy chủ đạo trong đời sống tư tưởng chính trị của Việt Nam.
Bất kỳ ai còn yêu Đảng, yêu Bác Hồ, yêu chế độ, yêu Nhân dân thì không được phép lơ là, mất cảnh giác hoặc dao động trước những “viên đạn bọc đường” mang tên “Chiến lược diễn biến hòa bình”. Chiến lược đó đã thành công ở đâu đó, nhưng chắc chắn không thể thành công tại Việt Nam.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống lâu bền trong dòng chảy cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua chính là ở sự vận dụng sáng tạo, sự hoàn thiện, bổ sung và phát triển không ngừng về lý luận. Vì thế, việc chú trọng  nghiên cứu những vấn đề mới, những vấn đề khó, phức tạp phát sinh từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, cung cấp cơ sở lý luận, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn ở tầm khái quát lý luận là nhiệm vụ phải được đặt ra thường xuyên hơn.
Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) là dịp để Đảng nhìn lại một chặng đường sáng tạo lý luận cho cách mạng Việt Nam; từ đó có những dự cảm chính trị mới, mở rộng, nâng cao tầm tư duy chiến lược cho đất nước hướng tới mục tiêu xây dựng thành công một nước Việt Nam cường thịnh vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, 100 năm lập nước.
Thứ ba, có được sự trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng của Đảng thì mọi chủ trương, đường lối, chính sách do Đảng, Nhà nước ban hành sẽ đáp ứng được yêu cầu lịch sử, tức là đáp ứng được lòng mong mỏi của Nhân dân.
Ca dao xưa có câu “Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng”. Lòng dân luôn hướng về sự bình an, nên cho dù cuộc sống vật chất được nâng cao mà dân vẫn phải “nơm nớp” lo sợ trăm điều bất ổn, bất an thì khó có sự “tuyệt đối trung thành với Đảng” được. Ngày xưa, Trần Hưng Đạo từng khuyên Vua Trần phải khoan thư sức dân, làm kế rễ sâu, gốc bền, đó là thượng sách giữ nước. Chu Văn An từng dâng “Thất trảm sớ” đòi Vua Trần chém đầu những kẻ bất chính trong triều đình. Nguyễn Trãi từng khuyến nghị với Vua Lê phải lấy tiếng cười hoan hỉ của dân chúng nơi thâm sơn cùng cốc để làm gốc của nhã nhạc.
Hồ Chí Minh đã từng chỉ dạy phải lấy dân làm nền móng vững chắc nền xây lâu đài chế độ. Ngày nay, kinh tế nước ta đã mạnh hơn, đời sống khá giả hơn, nhưng người dân vẫn phải đối mặt với không ít những nguy cơ bất ổn, bất an, từ môi trường thiên nhiên đến môi trường xã hội. Vì vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải đi vào phòng, chống, đấu tranh đẩy lùi, làm tiêu tan mọi nguy cơ gây họa cho dân. Trong đó, đấu tranh với nạn tham nhũng là việc làm có ý nghĩa “trị một số người để cứu muôn người” như chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
4. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó ngành Tuyên giáo đóng vai trò chủ lực mà Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan đầu não của Ngành.
Nhờ có mối quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sắc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nên từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có nhiều chuyển biến quan trọng, góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng, gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển bền vững.
Việc tham mưu với Đảng, Nhà nước về cơ sở khoa học để ban hành chủ trương, chính sách mới đã được nâng cao chất lượng, bảo đảm tính dự báo, phát hiện, hiến kế có cơ sở lý luận và thực tiễn; đồng thời không ngừng đối mới học tập, quán triệt, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết nghị quyết, nên sức sống của nghị quyết được gia tăng rõ nét.
Công tác tuyên truyền, cổ động ngày một kịp thời, sinh động, thiết thực, hiệu quả hơn; góp phần định hướng tư tưởng chính trị, dư luận xã hội, tạo sức lan tỏa xã hội sâu rộng. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện kiên trì, sáng tạo, mang đến cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội những suy nghĩ và hành động tốt đẹp, trong sáng.
Báo chí đang tự mình xây dựng và chỉnh đốn cả về bộ máy tổ chức, sắp xếp mạng lưới cho khoa học hơn, tinh gọn và hiệu lực, hiệu quả hơn, nhất là đấu tranh với những thói hư tật xấu. Báo chí ngày càng thể hiện rõ là một binh chủng thiện chiến trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cổ vũ cho những nhân tố mới, làm bà đỡ cho những phát kiến sáng tạo.
Văn hóa, văn nghệ vẫn tiếp tục trăn trở với sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”, đấu tranh đẩy lùi những thói hư tật xấu trong ứng xử xã hội, bảo vệ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, xác định và định vị các giá trị văn hóa dân tộc ở tầm di sản thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành tầm văn hóa dân tộc thời đại mới.
Các lĩnh vực khoa giáo có bước chuyển biến tích cực, đã và đang hướng tới tham mưu có tính căn cơ, đi vào chiều sâu, góp phần quyết định vào chất lượng nguồn lực con người, nguồn lực khoa học, công nghệ, bảo đảm an sinh xã hội để đất nước phát triển nhanh, bền vững và hội nhập thành công.
Kể từ sau khi Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII được ban hành, ngành Tuyên giáo đã chủ động, tích cực vào cuộc, đổi mới phương thức đấu tranh, kết nối lực lượng tạo thành thế trận nhiều tầng, nhiều lớp làm phá sản mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước. Việc học tập, giáo dục lý luận chính trị có bước đổi mới theo hướng thiết thực, thực chất, hiệu quả, học để trang bị lý luận cách mạng, giữ được bản lĩnh chính trị trước mọi thử thách; vận dụng vào thực tiễn cách mạng, để thực hiện nhiệm vụ của Đảng tốt hơn, có cơ sở khoa học hơn, tránh bệnh duy chí chí. Công tác lịch sử Đảng ngày càng đi vào chiều sâu, coi trọng giá trị lịch sử trong sự kiện, quan tâm tính giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng. Đối với thế hệ cách mạng cho đời sau, việc giáo dục lý luận chính trị và lịch sử sẽ là cẩm nang cho nhận thức và hành động, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, phụng sự Tổ Quốc, phục vụ Nhân dân, sống có ích cho xã hội, cống hiến cho đất nước.
*         *        *
Ngành Tuyên giáo của Đảng có 90 năm lịch sử tồn tại và phát triển, nhưng lịch sử công tác tư tưởng đã được tổ tiên ta khai mở, tiếp biến, phát huy trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, coi đó là kế sách bảo đảm tính “bách chiến bách thắng” chống kẻ ngoại xâm và chế ngự thiên nhiên.
Trong bóng đêm tưởng chừng như không có lối ra của lịch sử dân tộc, Nguyễn Tất Thành và những người yêu nước cùng thời đã không nhụt ý chí ra đi tìm đường cứu nước. Có nhiều bậc chí sĩ bất thành, duy chỉ có Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thành công, đó không phải là may rủi trên đường đời, đó là tất yếu của quá trình tìm kiếm luồng tư tưởng tiên tiến, phùng thời cho dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập và rèn luyện Đảng ta, truyền tư tưởng cách mạng chân chính theo chủ nghĩa Mác - Lênin vào chính đảng của mình. Cốt lõi của tư tưởng cách mạng mà Người bền bỉ, nhất quán tạo nên sức sống của Đảng ta là: Đảng không có lợi ích nào khác là làm cho nước nhà độc lập, đồng bào được tự do. Dựa trên nền tảng tư tưởng ấy, ngành Tuyên giáo đã và sẽ làm cho đồng bào ta thấu hiểu: Một lòng sắt son với Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là biểu thị tính cách mạng của sự tôn vinh Đảng, biết ơn Bác Hồ./.

ĐỘI LỐT “THEO DÕI NHÂN QUYỀN” CAN THIỆP VÀO CÔNG VIỆC NỘI BỘ CỦA VIỆT NAM LÀ TRÁI CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ



 Nhân quyền là giá trị thiêng liêng mà toàn thế giới hướng tới. Thế nhưng đây cũng là chủ đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch và một số tổ chức phi chính phủ được sự bợ đỡ của phương Tây luôn tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện những động cơ đen tối, trong đó có Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch-HRW)-đặt trụ sở tại New York, Hoa Kỳ.
"Con rối" đội lốt nhân quyền
Tổ chức HRW được thành lập năm 1988 trên cơ sở hợp nhất tổ chức Helsinki Watch (do Robert L.Bernstein thành lập năm 1978 với mục đích "giám sát" Liên Xô bằng cách thu thập tư liệu liên quan tới việc Liên Xô thực hiện quy ước của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE), hỗ trợ các nhóm "bảo vệ" nhân quyền tại nước này) với một số tổ chức quốc tế khác có cùng tôn chỉ, mục đích nghiên cứu và cổ vũ cho phát triển nhân quyền. Nói là chuyên nghiên cứu và cổ vũ cho nhân quyền, nhưng nhìn vào những hoạt động của HRW người ta không khó để nhận ra tổ chức này đã và đang “lời nói không đi đôi với việc làm”, ngày càng xa rời, thậm chí đi ngược tôn chỉ, mục đích.
Tổ chức này thường xuyên lợi dụng nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Nhiều quốc gia trên thế giới đã cáo buộc HRW chịu quá nhiều chi phối từ chính phủ Hoa Kỳ, hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích. Chẳng hạn Liên bang Nga đã nhiều lần chỉ trích HRW về những động thái tuyên truyền, xuyên tạc, kích động tạo cớ can thiệp vào những vấn đề nội bộ của nước này. Tương tự, do có những hành động vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và các quy tắc cơ bản của quan hệ quốc tế, cũng như can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc nên chính phủ nước này đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với HRW. Không phải ngẫu nhiên mà trang web của HRW lại bị cấm hoạt động tại Thái Lan. Chính phủ nước này buộc phải làm điều ấy là vì thông qua trang web này tổ chức HRW thường xuyên đội lốt "theo dõi nhân quyền" để tuyên truyền xuyên tạc, tán phát những nội dung thông tin sai lệch, kích động, vi phạm các quy định về an ninh quốc gia của họ. Ngoài ra HRW còn bị nhiều quốc gia, như: Đức, Cuba, Sri Lanka, Triều Tiên, Ethiopia, Syria... chỉ trích, phản đối với những nội dung và mức độ khác nhau vì đã can thiệp làm phức tạp tình hình, gây khó khăn cho việc bảo đảm nhân quyền ở các nước này.
Không là ngoại lệ, HRW đã nhiều lần đưa ra những thông tin thiếu khách quan, không chính xác, mang tính xuyên tạc, phủ nhận thành quả, bôi nhọ bức tranh nhân quyền Việt Nam. Những việc làm mang dụng ý xấu của HRW ít nhiều khiến cộng đồng quốc tế hiểu chưa đúng về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Có thể thấy HRW đã lộ nguyên hình là "con rối" đội lốt "thúc đẩy nhân quyền" phục vụ cho mục tiêu chính trị của một thế lực đen tối.
HRW đã vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế
Hành động của HRW vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Quy định về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác được đề cập trong các điều ước quốc tế. Đặc biệt trong Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ) năm 1945, lần đầu tiên đã quy định về nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác ở Điều 2. Sau đó tại Nghị quyết 2625 năm 1970 của Đại hội đồng LHQ, nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác tiếp tục được ghi nhận cụ thể và rõ ràng hơn.
Nền tảng pháp lý của nguyên tắc này là các nước, các tổ chức quốc tế có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền lãnh thổ và toàn vẹn chính trị của một quốc gia. Nội dung chính của nguyên tắc theo Nghị quyết 2625 là: Không quốc gia nào hay nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp, vì bất kỳ lý do gì vào công việc đối nội và đối ngoại của bất kỳ quốc gia nào khác. Theo đó: Can thiệp vũ trang và tất cả các hình thức can thiệp hay đe dọa chống lại tư cách của quốc gia hay chống lại các đặc trưng chính trị, kinh tế và văn hóa của quốc gia đó, đều là vi phạm luật pháp quốc tế; không quốc gia nào có thể sử dụng hay khuyến khích sử dụng các biện pháp cưỡng ép bằng kinh tế, chính trị hay các hình thức khác nhằm buộc quốc gia khác phải phụ thuộc mình khi thực hiện các quyền chủ quyền và nhằm bảo đảm các lợi thế ở bất kỳ hình thức nào. Ngoài ra Nghị quyết 2625 còn quy định: Không quốc gia nào được tổ chức, hỗ trợ, khuyến khích, tài trợ, kích động hay dung thứ cho hành vi lật đổ, khủng bố hay các hoạt động vũ trang trực tiếp nhằm lật đổ bằng bạo lực thể chế của quốc gia khác, hoặc can thiệp vào các cuộc bạo động dân sự ở quốc gia khác;... Theo Nghị quyết 2625, việc sử dụng bất cứ hình thức nào nhằm ngăn cản các dân tộc có bản sắc quốc gia cấu thành hành vi vi phạm các quyền không thể tách rời của các dân tộc đó và vi phạm nguyên tắc không can thiệp...
Đối với Việt Nam, trong nhiều văn bản pháp luật Nhà nước Việt Nam cũng quy định rõ các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của những cơ quan đó phải: Tôn trọng pháp luật và phong tục, tập quán của Việt Nam; không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam;... Thế nhưng HRW đã phớt lờ những quy định và nguyên tắc ấy. Điều này càng lộ rõ thông qua những việc làm và phát ngôn của một số nhân vật đại diện cho HRW thời gian gần đây.
Xuyên tạc nhân quyền Việt Nam là bản chất của HRW
Ngày 14-1-2020, HRW đã ra cái gọi là “Báo cáo Thế giới 2020” điểm lại bức tranh nhân quyền của khoảng 100 quốc gia... Phần nói về Việt Nam, báo cáo này viết: “Năm 2019 là một năm tàn bạo đối với các quyền tự do căn bản ở Việt Nam khi chính quyền kết án tù ít nhất 30 nhà hoạt động và bất đồng chính kiến”;... Trước khi đưa ra bản báo cáo này, HRW đã không ít lần đòi trả tự do cho một số đối tượng mà họ khoác lên chiếc áo “nhà dân chủ”; “nhà hoạt động nhân quyền”;... đang thụ án do vi phạm pháp luật Việt Nam.
Những việc làm và giọng điệu trên thêm một lần nữa chứng minh, mang danh là tổ chức nhân quyền nhưng hoạt động của HRW không phục vụ cho sự phát triển nhân quyền ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Không quá lời khi nói rằng: Xuyên tạc về nhân quyền ở Việt Nam đã trở thành bản chất của HRW. Cần khẳng định rằng: “Báo cáo Thế giới 2020” mà HRW đưa ra đã dựa trên những thông tin xuyên tạc, bịa đặt và không có cơ sở, không phản ánh đúng bức tranh nhân quyền của Việt Nam.
Sau gần 35 năm đổi mới, bằng sự nỗ lực vượt bậc, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của LHQ. Theo đánh giá của cộng đồng quốc tế, trong hơn 30 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng trung bình gần 7%/năm, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm trung bình hằng năm 5%... Việt Nam ngày càng nổi lên như một nền kinh tế có thu nhập trung bình và là nước xuất khẩu đang phát triển mạnh. Năm 2019, Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện trong nhóm 60 nền kinh tế sáng tạo nhất thế giới. Ông Justin Wood, Giám đốc khu vực châu Á của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), nhận định: "Những năm gần đây kinh tế Việt Nam đang phục hồi trở lại và tăng trưởng rất nhanh. Lạm phát và nợ công được giữ ở mức ổn định, xuất-nhập khẩu tăng mạnh; các vấn đề cũ liên tục được Chính phủ khắc phục; đầu tư nước ngoài đang gia tăng mạnh mẽ... Có thể thấy bức tranh kinh tế Việt Nam đang sáng sủa hơn rất nhiều nhờ những nỗ lực cải tổ nền kinh tế của Chính phủ..."
Mục tiêu cao nhất của quá trình phát triển ở Việt Nam không ngoài ý nghĩa vì con người, cho con người. Sự phát triển, nhất là về kinh tế những năm qua là tiền đề, là nhân tố trước hết để Việt Nam bảo đảm quyền con người. Trên thực tiễn Việt Nam liên tục đạt được những tiến bộ vượt bậc trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Sự nỗ lực cố gắng của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người những năm qua, đặc biệt trong năm 2019 được bạn bè quốc tế ghi nhận. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam được chọn là nơi tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều lần hai. Sự kiện này đã chứng tỏ sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế về vai trò của Việt Nam trong vấn đề bảo đảm an ninh, an toàn, giữ gìn hòa bình trong khu vực và thế giới. Việt Nam lần thứ 3 đăng cai tổ chức thành công Đại lễ Phật đản LHQ Vesak 2019. Đây là bằng chứng sinh động khẳng định chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đại đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Với việc trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-2021, Việt Nam đang góp phần tích cực cho hòa bình và an ninh quốc tế, trong đó có việc thúc đẩy nhân quyền. Việt Nam là khách mời của Hội nghị thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) chứng tỏ sự ghi nhận của quốc tế về những nỗ lực của Việt Nam trong công cuộc phát triển KT-XH... Rõ ràng năm 2019, Việt Nam tiếp tục trở thành tâm điểm của thế giới với những thành tựu đối nội, đối ngoại nổi bật. Thực tiễn sinh động ấy đã bác bỏ hoàn toàn những nhận định hồ đồ, vô căn cứ về Việt Nam mà HRW bịa đặt trong “Báo cáo Thế giới 2020”.
Hệ thống pháp luật Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương LHQ và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; lịch sử văn hóa truyền thống và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Mục tiêu cao nhất mà hệ thống pháp luật Việt Nam hướng tới là bảo đảm cho người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất. Mọi công dân sống, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội, thành phần dân tộc hay trình độ đều bình đẳng trước pháp luật. Những trường hợp mà HRW gọi là "nhà hoạt động và bất đồng chính kiến" đã và đang bị chính quyền Việt Nam kết án tù, thực chất đó là những công dân đã vi phạm pháp luật Việt Nam và họ phải chịu những hình phạt của luật pháp là hoàn toàn chính xác. Đòi trả tự do cho những công dân Việt Nam vi phạm pháp luật của HRW là hành động trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế.
Thực tế khẳng định, bảo đảm cho mọi người dân được hưởng các quyền của mình và có cơ hội phát triển toàn diện, làm cho cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao, bảo đảm an sinh xã hội… là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nỗ lực hướng tới. Việt Nam kiên quyết phản đối, bác bỏ những cái nhìn phiến diện, những luận điệu vô căn cứ của HRW. Những chiêu trò của HRW dù có tinh vi, xảo quyệt tới đâu đi chăng nữa cũng không thể đánh lừa được dư luận và càng không thể phủ nhận hoặc làm lu mờ những thành tựu nhân quyền của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...