Thứ Hai, 10 tháng 1, 2022

Tự do ngôn luận ở Việt Nam luôn được Hiến pháp bảo đảm

 Việt Nam là quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Điều thứ 10 trong bản Hiến pháp ngày 9/1/1946 của Quốc hội Việt Nam nêu rõ: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được khẳng định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 rằng: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Những năm gần đây, vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3/5) hằng năm, hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6), trên nhiều trang mạng có nội dung xấu độc và trên trang tiếng Việt của một số cơ quan truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam thường xuất hiện các ý kiến, bài viết xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Trong đó, cái gọi là “Tổ chức phóng viên không biên giới” không những đưa ra bảng xếp hạng hết sức sai trái về tự do báo chí ở Việt Nam, mà còn công bố danh sách và trao giải thưởng “Anh hùng thông tin” cho một số đối tượng người Việt Nam đã lợi dụng tự do, dân chủ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. “Tiền hô hậu ủng” cho tổ chức phi chính phủ này là những đối tượng được dán mác “nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền”, “nhà báo tự do” trong nước tung ra nhiều bài viết, phát ngôn xuyên tạc trắng trợn tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận của Việt Nam.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc bảo đảm, thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng để khơi dậy, phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ, sức mạnh tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam đã và đang được đảm bảo trên thực tế. Hơn thế nữa, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn có tinh thần cầu thị, tích cực tiếp thu, học hỏi, tham khảo những kinh nghiệm tiến bộ của các quốc gia khác để thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân.

Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định. Giới hạn này đặt ra để bảo đảm quyền tự do chính đáng cho số đông mọi người, chứ không phải cho một nhóm ít người nào đó nói năng bừa bãi, phát ngôn bạt mạng, thích gì viết đấy, nói và viết chỉ vì động cơ cá nhân ích kỷ, thiên vị mà không vì sự ổn định, đồng thuận chung của xã hội, cộng đồng.

Để bảo đảm quyền lợi, tự do chính đáng cho số đông công dân, chúng ta cũng không chủ quan, lơ là, mà phải luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện, kiên quyết vạch trần, kịp thời bác bỏ mọi âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị cố tình lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí nhằm đưa ra những thông tin sai trái, xuyên tạc, tác động tiêu cực dư luận xã hội, xâm hại an ninh truyền thông quốc gia, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc

 Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Đồng bào theo tôn giáo ở Việt Nam luôn được nuôi dưỡng bởi truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc. Bởi vậy, họ không chỉ có đức tin và sự cố kết với tôn giáo của mình, mà luôn đoàn kết, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Mỗi dân tộc đều có tín ngưỡng riêng của mình nhưng không hề có những xung đột và kỳ thị lẫn nhau. Sự hòa quyện về văn hóa cũng như những sinh hoạt tín ngưỡng, tập tục, ngôn ngữ được thể hiện rõ nét trong sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và trong sự nghiệp đấu tranh kiên cường bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Theo bản Hiến pháp về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948, tại Điều 18 quy định về tự do tôn giáo, tín ngưỡng có viết: “Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo, tín ngưỡng do mình tự lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác một cách công khai hoặt thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo. Không một ai ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng”.

Nhưng trước đó, chỉ một ngày sau khi tuyên bố Việt Nam là một nước độc lập, ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời, một trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên là: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết lại”. Đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện quan điểm vì dân của chính quyền mới được đông đảo nhân dân tán thành và ủng hộ.

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, suốt 76 năm qua, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng và ngày càng đáp ứng đầy đủ hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Chính vì chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo mà trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đã có hàng triệu người con dù là Lương hay Giáo đã có những đóng góp tích cực về sức người, sức của cho các công việc chung của dân tộc. Có gia đình cả nhà là linh mục, tu sĩ, nhưng đều theo kháng chiến như linh mục Phạm Bá Trực, sau này là Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội khóa I, gia đình linh mục - liệt sĩ Nguyễn Bá Luật.

Tuy nhiên, lợi dụng tình cảm sùng kính Thiên chúa của một số đồng bào giáo dân, ở một số nơi, các chức sắc, tu sĩ đã kích động, kêu gọi bà con giáo dân cầu nguyện đòi đất, căng băng rôn, khẩu hiệu, ném gạch đá vào người thi hành công vụ, bắt người trái phép... Cũng cùng mục đích như vậy, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các tổ chức phản động đã lợi dụng sự thật thà, cả tin, thiếu hiểu biết của bà con để dựng lên tà một số tà đạo không phù hợp với tập quán sinh hoạt đồng bào dân tộc thiểu số, đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc. Chính quyền và lực lượng chức năng các địa phương đã nhanh chóng chỉ rõ những thủ đoạn lôi kéo, kích động, gây rối của các tổ chức phản động bên ngoài để bà con cảnh giác đề phòng, đồng thời, phân tích những sai lầm để các đối tượng sai phạm đứng ra tự nói rõ việc làm sai trái của họ. Qua đó, bà con hiểu rõ thực chất của các tà đạo mà mình đang theo.

Có thể khẳng định, trong suốt hơn 76 năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của người dân; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hòa trong dòng chảy lịch sử, sức mạnh được hun đúc từ mạch nguồn truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc, lòng yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường đã cảm hóa, nuôi dưỡng và kết nối người dân Việt Nam, không phân biệt tôn giáo, thành phần xã hội, ý thức hệ gắn bó khối đại đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thành tựu của ngoại giao “cây tre Việt Nam”

 Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, ngoại giao đa phương đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt khi tham gia vào một loạt sự kiện đối ngoại quan trọng của nước nhà trong năm 2021.

Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA), Chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN...; đã cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi. Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của nước ta đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Phát biểu trong phiên khai mạc Hội nghị Đối ngoại toàn quốc ngày 14/12/2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạng: Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” (“Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi!”), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”!

Thực tiễn cho thấy, những năm gần đây, ngoại giao đa phương của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc khi tham gia vào một loạt sự kiện quốc tế quan trọng như: Nước chủ nhà đăng cai Hội nghị Cấp cao APEC năm 2017, Hội nghị WEF ASEAN năm 2018, Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên năm 2019, Chủ tịch ASEAN, AIPA 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) nhiệm kỳ 2020-2021.

Ngoài ra, còn nhiều hoạt động đa phương khác có sự tham gia của các bộ, ngành. Đặc biệt, năm 2021 là năm thắng lợi của ngoại giao nước nhà khi Việt Nam được bầu là thành viên của Ủy ban Thương mại quốc tế của LHQ (UNCITRAL), ký được thỏa thuận xây dựng trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế (PCA) tại Việt Nam cũng như lần thứ hai có người được bầu là thành viên của Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) của LHQ với số phiếu cao hơn lần trước. Điều này chứng tỏ cộng đồng quốc tế ngày càng tin tưởng vào vai trò của Việt Nam cũng như năng lực của cán bộ ngoại giao Việt Nam.

Khi Việt Nam hội nhập, có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên LHQ thì sự hiện diện, giao thương của Việt Nam đã ở khắp nơi trên thế giới. Ở nơi nào có sự hiện diện của người dân, doanh nghiệp Việt Nam, ở đó có lợi ích của Việt Nam.

Vì thế, khi tham gia vào HĐBA, dù đóng góp ít hay nhiều để mang lại ổn định, hòa bình cho các nước, cũng là mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân Việt Nam. Song, có những việc mà ngoại giao đa phương vừa làm đã mang lợi ích tức thì. Khi dịch Covid-19 mới bùng phát, cơ chế đa phương gần như bị tê liệt. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, các tổ chức chuyên môn, các cơ chế đa phương từ khu vực như ASEAN cho đến liên khu vực như ASEM, APEC, G20 và các tổ chức chuyên môn của LHQ như Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã có vai trò điều phối rất quan trọng.

Điển hình là cơ chế COVAX do WHO, Liên minh Đổi mới sáng tạo sẵn sàng ứng phó dịch bệnh (CEPI), Liên minh toàn cầu về vaccine và tiêm chủng (GAVI) và Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF) đồng sáng lập. Cơ chế này ngay khi thành lập đã xác định mục tiêu cung cấp đủ lượng vaccine cho 20% dân số thế giới, trong đó Việt Nam có thể tiếp nhận 39 triệu liều vaccine ngay từ đầu.

Năm 2021 đã khép lại với những thành tựu nổi bật của ngoại giao đa phương, góp phần quan trọng trong những dấu ấn nổi bật của ngành ngoại giao nói chung. Khi Việt Nam kết thúc vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020-2021, nhiệm vụ đặt ra đối với ngoại giao đa phương ngày càng nặng nề hơn.

Phát huy dân chủ, quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm của nhân dân

 Phát huy dân chủ, quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong giám sát, phản biện tích cực nhằm mang lại những kết quả tích cực là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hành phản biện xã hội với ý nghĩa tích cực, phải dựa trên nền tảng tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích... Nếu không, phản biện xã hội sẽ dễ chỉ là ý kiến chủ quan, cảm tính và phiến diện, thậm chí cực đoan, không đóng góp với tiến trình phát triển của xã hội, của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có không ít cá nhân xem và sử dụng phản biện xã hội như một “chiêu bài” để thực hiện ý đồ, mục tiêu nào đó hoàn toàn không nhằm mang lại lợi ích xã hội.

Thực tế cho thấy, trước mỗi kỳ đại hội Đảng hay trước mỗi lần sửa đổi Hiến pháp, ban hành các đạo luật, tổ chức các sự kiện lớn, những vấn đề hệ trọng của đất nước..., Đảng và Nhà nước ta đều công bố rộng rãi các văn kiện dự thảo, đưa ra quan điểm, chủ trương để lấy ý kiến thảo luận, đóng góp của toàn dân. Đại đa số nhân dân có ý thức trách nhiệm cao, luôn coi mỗi đợt đóng góp ý kiến là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và hưởng ứng tích cực. Các cơ quan chức năng luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân tiếp cận sớm, hướng dẫn người dân nghiên cứu, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về từng nội dung trong dự thảo các văn kiện và những vấn đề quan trọng. Tất cả ý kiến dù đồng thuận hay không đồng thuận đều được cơ quan chức năng tổng hợp báo cáo với Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ để xem xét quyết định.

Lợi dụng vào nhưng vấn đề đó, với những người có động cơ xấu, nhằm mục đích chống phá đất nước, lại không bày tỏ quan điểm theo quy trình tổ chức và các kênh chính thống. Các đối tượng triệt để lợi dụng ưu thế của internet, nhất là mạng xã hội (MXH) để tiến hành các hoạt động chống phá núp dưới danh nghĩa phản biện xã hội. Dưới sự giật dây của các thế lực thù địch, một số phần tử cơ hội trong nước và cả ở nước ngoài đã soạn ra các văn bản dưới dạng “tâm thư”, “thư góp ý”, thậm chí họ còn soạn hẳn một dự thảo văn kiện mới, hoàn toàn khác với dự thảo văn kiện chính thống được công bố... để thể hiện những ý kiến trái ngược với quan điểm của Đảng, Nhà nước. Để minh họa cho những quan điểm sai trái đã nêu, núp dưới chiêu bài phản biện xã hội, họ dựng chuyện, tung ra nhiều thông tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc, nhằm gây nhiễu loạn thông tin, gây bất ổn trong dư luận. Trên không gian mạng, họ lập ra các hội, nhóm trá hình… để tuyên truyền, lôi kéo những người nhẹ dạ, tán phát các ý kiến tiêu cực, đi ngược với chủ trương, đường lối của Đảng.

Ngoài sử dụng những đối tượng phản biện xã hội đã được móc nối, để chống phá đất nước, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm đến việc phát triển lực lượng “phản biện” mới. Đối tượng phản biện xã hội là giới trẻ, cán bộ, đảng viên, công chức... được chúng đặc biệt để mắt. Cùng với tài trợ về tài chính, chúng còn hướng dẫn nội dung, kế hoạch hoạt động liên kết thành mạng lưới. Khi xuất hiện những quan điểm đi ngược chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên không gian mạng, thì ngay lập tức chúng huy động lực lượng “chân rết” vào bình luận, chia sẻ, tung hô... để gây bất ổn trong dư luận.

Bên cạnh việc phản biện có thể giúp điều chỉnh xã hội từ vi mô tới vĩ mô, thì mặt khác, phản biện cũng biểu thị cho tính dân chủ của xã hội. Vấn đề là ở chỗ, phản biện phải hướng tới ổn định và phát triển, không phải dùng phản biện nhằm gây mơ hồ, làm lạc hướng nhận thức chung, càng không gây ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn trong dư luận…

Do vậy, muốn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội để gây nhiễu thông tin, chống phá đất nước của các thế lực thù địch, việc tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về hoạt động PBXH cần được quan tâm, chú trọng. mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, khi tiếp cận với những thông tin, tài liệu, nhất là những nội dung thuộc quan điểm về các vấn đề hệ trọng, nhạy cảm của đất nước tán phát trên MXH, cần phải tỉnh táo nhận diện đâu là thông tin tốt, đâu là thông tin xấu, đâu là thông tin có cơ sở khách quan, đâu là thông tin xuyên tạc. Nâng cao hiểu biết, tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết là cách tốt nhất để mỗi người nâng cao “sức đề kháng”, tránh bị cuốn theo những giọng điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch.

Tổ chức khủng bố Việt Tân lại diễn trò hề

 Trong thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội phản động, RFA, VOA Tiếng Việt, Việt Tân đã phát tán tài liệu “Đảng Việt Tân và đấu tranh bất bạo động”. Trong đó, ca ngợi những ai tham gia “cuộc đấu tranh chính nghĩa” của Việt Tân là “những người chân chính”, góp phần “xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, phát triển”.

Cần phải nói ngay rằng, đó chỉ là trò mèo, kích động, “thọc gậy bánh xe”, nhằm gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Việt Tân. Hẳn không nói chắc các vị trong ban lãnh đạo về cái gọi là “Đảng Việt Tân”cũng đã hiểu, thiết tưởng không cần nhắc lại. Đó là hiện thực khách quan của một nước đang trên đà phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam!

Trước hết, cần làm rõ thế nào là một cuộc đấu tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Cả lý luận và thực tiễn đã chứng minh, tính chất của cuộc đấu tranhđược quy định bởi mục đích của nó. Ở Việt Nam, cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chính nghĩa. Vì, mục tiêu của nó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đưa người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống của mình. Thực chất, đó là cuộc đấu tranh cho khát vọng của độc lập, thống nhất đất nước, quyền được sống, quyền được làm người, được sống trong tự do, hạnh phúc của cả dân tộc Việt Nam. Vì thế, cuộc đấu tranh ấy đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, cuốn phăng bè lũ cướp nước và bán nước. Và chính vì thế, đất nước Việt Nam đã giành được độc lập, thống nhất, người dân Việt Nam đã trở thành người chủ thực sự, quyết định vận mệnh phát triển của đất nước và chính mình. Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam lại tiếp tục cuộc đấu tranh để thực hiện khát vọng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đó là cuộc đấu tranh chính nghĩa, đấu tranh vì quyền con người.

Vậy, cái gọi là “đấu tranh cho chính nghĩa” của “Việt Tân” là gì? Để làm rõ điều đó, chúng ta cần nhìn thấu mục đích của Việt Tân là nhằm muốn đưa dân tộc Việt Nam chạy theo các giá trị tư bản chủ nghĩa, rồi trở thành thuộc địa của bọn thực dân, đế quốc, mà trước hết là nhằm gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Thực chất là chúng muốn phá hoại con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là cuộc đấu tranh phi nghĩa, chống lại sự ổn định, hòa bình, phát triển của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân loại. Cho nên, mặc cho Việt Tân bày hết trò này đến trò khác vẫn không được nhân dân Việt Nam và cộng đồng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ. Có chăng, lời kêu gọi của chúng chỉ được những kẻ mang nặng tư tưởng dân tộc cực đoan, chống cộng cực đoan, làm công cụ cho các thế lực phản động và những phần tử cơ hội về chính trị, thoái hóa, biến chất, trở cờ.

Đúng là “vải thưa không che được mắt thánh”. Cái trò mèo của Việt Tân đã bị nhân dân Việt Nam nhận rõ và bác bỏ./.

Đoàn kết tôn giáo tạo nên sức mạnh dân tộc

 Trong lịch sử trường tồn của dân tộc Việt Nam thành phần dân tộc không thể thiếu đó là tôn giáo, với sự tồn tại của hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới; những tôn giáo này cùng tôn giáo nội sinh đồng hành với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những chuẩn mực đạo đức tích cực, nhân văn của tôn giáo đã hòa nhập vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Với chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của mọi người, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự ngày càng gia tăng; quy mô hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lớn; chính quyền các cấp đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hoạt động tôn giáo có đông người dân và du khách nước ngoài tham dự.

Bên cạnh mặt tích cực của tôn giáo, trong đời sống xã hội, hiện vẫn còn một số tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi, trái thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian, tiền bạc của nhân dân. Đâu đó vẫn còn tình trạng lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh các hoạt động ngầm, cổ súy các phần tử cực đoan trong các tôn giáo, kích động một số phần tử bất mãn, lợi dụng giáo lý, giáo luật và các hoạt động sinh hoạt tôn giáo để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động tín đồ chống lại chính sách tôn giáo của Nhà nước; mức độ cao hơn là làm theo sự điều khiển của các thế lực thù địch xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích của chính quần chúng có đạo.

Cùng với các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo tích cực ủng hộ, đồng hành cùng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp, gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy, hướng dẫn, động viên chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo thực hiện đúng phương châm, đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành với dân tộc; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng cùng giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tôn giáo với tinh thần thượng tôn pháp luật; không để các hoạt động lợi dụng tôn giáo mê tín dị đoan, trục lợi, gây bức xúc trong xã hội, chia rẽ nhân dân, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc; nêu cao tinh thần cảnh giác, không để các thế lực lợi dụng “dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo” cản trở Việt Nam hội nhập và phát triển.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt

Chống phá cách mạng Việt Nam là một mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Liên tục trong những năm qua, nhiều đối tượng, tổ chức phản động, thù địch đã thường xuyên đưa ra những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013; đòi tam quyền phân lập,… Trong đó, luận điệu “phi chính trị hóa quân đội” được những đối tượng này xác định là một nội dung trọng tâm. Chúng cố tình rêu rao quan điểm cho rằng, “quân đội phải đứng ngoài chính trị”; quân đội cần phải “trung lập”, không lệ thuộc hoặc đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào… Chúng cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc thành công là Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử; Đảng chỉ nên lãnh đạo quân đội trong chiến tranh, khi hòa bình Đảng cần giao quyền lãnh đạo quân đội cho Nhà nước...
Rõ ràng, trên đây là những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động, thù dịch. Nhìn vào lịch sử nhân loại tiến bộ, chúng ta vẫn chưa thể quên được “cơn địa chấn chính trị” đã diễn ra tại Liên Xô vào thập niên cuối thế kỷ XX. Những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô chấp nhận đa nguyên, đa đảng đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng Quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và sau đó là chấp nhận xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Quân đội, làm cho Quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa.
Thực tiễn đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội phản ánh đúng bản chất giai cấp công nhân, vị trí, vai trò, chức năng, của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lãnh đạo quân đội là thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quyền lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là tuyệt đối, không chia sẻ quyền lãnh đạo đó cho bất kỳ một tổ chức, một đảng phái hay một cá nhân nào. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là trực tiếp, không thông qua một khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian nào. Đồng thời Đảng lãnh đạo về mọi mặt của Quân đội nhân dân Việt Nam; bao gồm, Đảng lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng và tổ chức; trên mọi nhiệm vụ: chiến đấu, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng, lao động sản xuất; trên các mặt công tác: quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội không tạo ra “khoảng trống”, những “vùng cấm”, không “bỏ sót” bất cứ lĩnh vực, hoạt động nào của quân đội. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của quân đội thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương, mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Những luận điệu sai trái, phản động đó chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ. Bởi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đặt ra những yêu cầu mới đối với quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, nhất là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Để thực hiện tốt yêu cầu này, trước hết chúng ta cần luôn luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội; thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Đồng thời, quân nhân cần thấm nhuần nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, qua đó góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị; tạo cơ sở để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực phản động, thù địch.
“Phi chính trị hóa” Quân đội là một thủ đoạn nguy hiểm mà các thế lực thù địch thực hiện, nhằm vô hiệu hóa công cụ bạo lực để bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ ta. Tuy không mới, nhưng hết sức nguy hiểm, cần cảnh giác và chủ động có giải pháp phòng, chống hiệu quả.
 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...